Thursday, August 15, 2019

Luận sinh tử hạn toán mệnh cách.


Thực tế luận sinh tử, về hành vận nhập tử địa không có cứu giải đa phần không phổ biến ra bên ngoài trong các nghiên cứu của tiền nhân. Khi người nghiên cứu tử vi nghiên cứu sâu về độ số hạn tử tuyệt ắt nhìn thấy sự huyền diệu của toán mệnh và thường lầm tưởng việc số mệnh sắp đặt với mỗi người. Luận sinh tử cách thường luận kinh nghiệm là chính do tiền nhân thường không lưu lại về thể tính của vận tử tuyệt, thứ tới do khí hình Sát không tương ứng giữa mỗi nhân mệnh khi ứng hợp với từng hoàn cảnh sống khiến bố cục Sát biến đổi tương ứng. Như gặp cách cục Cự Nhật Ấn Kiếp Hình Kỵ Khốc. Thường các lá số với bố cục này hình thành tại Mệnh hoặc đại vận thứ hai là cách cục phụ mẫu ly tán. Tuy nhiên để luận nguyên do vận tử tuyệt hoặc do bất đồng dẫn tới cự cãi, ly tán cách phức tạp. Với bản thân nhân mệnh nếu đã nghiên cứu tử vi luận cách cục hạn chết sẽ thường có thể luận tới đại vận, tuy nhiên với tiểu vận thường khó có thể luận do tính đề phòng của tư tưởng khi tới hành vận tử tuyệt dẫn tới khó chính xác hơn. Cũng như khi luận tử vi tới vận hạn phá sản của đa phần mệnh cách khi tới bố cục Vũ Sát, Vũ Phá hội Sát Kỵ trùng phùng thường khó có thể thay đổi cục diện do tính chất đặc trưng ảnh hưởng bởi hóa khí của tinh đẩu tác động rất lớn tới nội tâm tư tưởng. Thí như nhân mênh có tâm tính chủ nóng vội, ưa mạo hiểm, lại thường không có mắt tinh tường, việc tính toán ắt theo nghiệp kinh thương ắt họa tới sớm hoặc muộn, dù ban đầu có tài sản rất lớn ắt sẽ phá tán. Thất Sát tại đây chính là nhầm lẫn, trái với tinh tường. Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham là sự rối ren, tranh đoạt, xung đột giữa tính chất của hai nhóm sao, luôn bất ổn và hàm chứa tai họa từ việc giao hội không có Phủ Tướng. Người viết khi nghiên cứu tử vi nguyên cớ ban đầu ưa sự tinh diệu xét đoán số mệnh khí sinh tuyệt làm lý tưởng để nghiên cứu huyền học toán mệnh. Hạn sinh tử hoặc tuyệt khí thường dụng để tránh đề cập trực tiếp tới chữ hạn chết, tử mạng. Nhân mệnh đã có sinh ắt phải diệt, tuy nhiên như việc bản thân mắc bệnh nan y ắt tác động mạnh tới tư tưởng, nội tâm là khổ cực. 





Thất Sát là Sát Tinh, là một trong số ít Chính Tinh bản chất chứa Sát tính. Trước đây thường phái luận Tử Vi Đông A khán hạn sinh tử hoặc ly tán của phụ mẫu để định cách cục Sát, tuy nhiên thực tế tại đây có khuyết điểm do tính chất của cung độ đệ tam nhân khi xét bản khí của chính nhân mệnh có một phần sai biệt, nhân thân không phải bản mệnh, khí hóa của Sát cách của bản mệnh tác động có phần khác với khi xét hạn phụ mẫu. Khí số của phụ mẫu cực vượng có thể thoát nạn tai kiếp do trùng phùng Sát Kỵ, tuy nhiên mệnh của bản thân đương số khi lưu tới hành vận bố cục Sát Kỵ trên có thể tuyệt khí. Nếu mệnh cách gặp bố cục Tang Hổ Hư phùng Sát Kỵ , hành vận tới cung độ Cự Nhật có Tồn Hồng Kiếp ắt phụ thân trong gia đình có tai kiếp họa lớn, nhược bằng lại thêm Phượng Khốc hội Quế Sứ Hoa Thương cách, tiểu vận trùng phùng Sát Kỵ, ắt là vận phụ thân hoặc bản thân tuyệt mệnh, hoặc bệnh nan y. Cách cục Cự Kỵ Linh Hình hội Việt trong bố cục Cự Cơ Đồng nếu hội thêm Lộc Tồn thì bản thân dễ mắc bệnh tật nguy hiểm ảnh hướng tới họa sát thân. Thực tế người nghiên cứu tử vi hoặc môn toán mệnh nhìn sự sinh diệt của kiếp số lặp lại liên tục qua các cuộc đời luận, thấy số mệnh dường có dường không. Phú quý thọ yểu. Chữ yểu tỉ lệ gặp không nhiều, trừ trường hợp hội Sát Kỵ Hình trùng phùng, hoặc thành cách cục khí hình suy tuyệt khó có thể cứu giải, hoặc ứng hợp khí số của vận nhà, vận làng, vận nước. Thực tế Hóa Kỵ cố định do Thiên Can năm hóa khí thành tính chất Sát không lớn như trường hợp lưu Kỵ hóa do Thiên Can của tiểu vận. Bất kể các bố cục, nếu hình thành cách Hóa Kỵ cố định gặp lưu Kỵ trong trường hợp đại tiểu vận trùng phùng cách cục này, lại bất hội trợ tinh cát hóa, ắt sinh tai họa rất lớn. Hóa Kỵ nếu xét tính chất tác động khi lưu hóa tới tiểu vận sức tác hóa rất lớn, trong khi bố cục Không Kiếp tác động mạnh tại cách cục cố định, phối hợp các tinh đẩu kỵ gặp tác hóa mới lớn. " Kiếp Không Phục Binh phùng Dương Nhẫn lộ thượng kiếp đồ". 





Trước đây khi hành pháp và phương tiện quan sát, ghi trữ chưa thực phổ biến, các vị trí nguy hiểm tức trên đường lại mang họa rất lớn với các bố cục. Tại đây Không Kiếp là bất ngờ, là cặp chủ tai nạn trừ một số trường hợp. Việc gặp cướp đường, thổ phỉ rất thường gặp. Thiên Mã trong cách Tang Hư Mã nhập Tuyệt địa. Trong nội ý nghĩa của cách cục Tang Hư Mã Khách có một tính chất đặc biệt, hàm ý chủ tang tóc do Tang Môn tạo ra, khi cát hóa mang ý nghĩa nghị lực, vượt qua nghịch cảnh. Khi xấu chủ tượng là cửa tử. Bố cục Sát như con dao hai lưỡi, khiến mệnh tạo có thể thành tựu đột biến, tạo bất ngờ lớn cho kẻ khác. Cũng có thể khiến nhân mệnh gặp họa sát thân. Quan trọng là tính chất ứng hợp. Có mệnh cách khi hoạch phát liền gặp tai ương tương ứng, có người đang ổn định cuộc sống bất ngờ gặp tai kiếp, có kẻ làm những việc bất chính, gây tai họa cho người khác để thu lợi cho bản thân, có người nhờ may mắn phát dã như lôi. Cùng một tổ hợp biến hóa vô cùng. Thâm trầm cũng là Hóa Kỵ, nhìn nhận vấn đề đa chiều để giải quyết vấn đề bế tắc là Hóa Kỵ, cho tới thủ đoạn cũng là Hóa Kỵ. Hóa Kỵ còn là thiên tính thiện lương. Chính Tinh chủ mệnh khiến các bàng tinh giao hội biến đổi tính chất theo khuynh hướng của Chính Tinh. Một số người nghiên cứu tử vi kết hợp tướng số là thường gặp để xét khả năng thành tựu và ứng hợp vượng suy của mệnh cách. Tuy nhiên thường biểu hiện tại diện tướng nếu không tinh thông tướng số thường chỉ định Sát cách được một phần. Khi định cách bố cục Sát trên thiên bàn thường khán hạn quá khứ các sự kiện để xét cách cục để phân định khả năng chế hóa của bản mệnh. " Hỏa Linh cư miếu vượng danh chấn chư bang". Hoặc câu phú luận. "Hỏa Tinh Linh Tinh chuyên tác tọa, ngộ Kiếp Không Thiên Sứ họa trùng trùng". Tiền nhân luận phú theo từng khí hóa của bản mệnh với Hỏa Tinh, các câu phú thường như trái nghịch. Phú luận thường hướng tới một bố cục đã xác định. ""Đất tứ mộ Linh Tinh Tham Vũ. Có uy quyền chớ ngộ Kình Dương". Tứ mộ tức ở cung độ Thìn Tuất Sửu Mùi. Tuy nhiên Vũ Tham tại vị trí Thìn Tuất xung chiếu, mệnh Vũ Khúc khác hoàn toàn mệnh Tham Lang. 






Tại cách cục này là vị trí Vũ Tham cư Sửu Mùi. Cách cục thuộc Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham là cách phân tranh, xung đột, trong nội cách hàm chứa tính biến loạn, tức ứng hợp với thực tế bên ngoài mệnh tạo thường gặp hoàn cảnh thay đổi, không ổn định. Trong cách cục lớn do Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham tùy thế đứng của tinh đẩu trong các tinh hệ lại phân thành các cách cục riêng biệt. Vũ Tham cư Sửu Mùi thuộc tinh hệ Tử Sát Tị Hợi. Tham Linh tịnh thủ cách hình thành khi Tham Lang đồng độ Linh Tinh chủ tham vọng về quyền lực, có Vũ Khúc đồng độ Tham Lang rất cần thiết khi Vũ Khúc chứa tính chất bạo lực, có năng lực giải quyết vấn đề, khi Vũ Tham Linh hình thành hóa thành Quyền, chứa Sát tính lớn, đây là mệnh cách chủ tham vọng lớn và có năng lực, quyết đoán với mục tiêu bản thân. Tại bố cục Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham, Tử Sát hình thành khi Vũ Tham Linh hội Kình Dương thành cách Kình Linh có tính thái quá, cũng chủ chiết giảm tính linh hoạt của Tham Vũ, tăng cường tính biến động, bất mãn do Kình Hao, cũng chủ ưa chống đối. Cũng bố cục này nếu hội Xương Đà thành cách Linh Xương Đà Vũ mang oan khốc tới bản thân. "Linh Xương Đà Vũ hạn chí đầu hà". Với cách Vũ Tham tại đây trước khi gặp họa ắt sẽ thành tựu hoạch phát, tuy nhiên Tử Sát là nhầm lẫn, đè nén ắt gặp giai đoạn bại cục dẫn tới chữ mất, trừ Sát Kỵ giao hội trùng phùng sẽ tuyệt khí, trường hợp còn lại khi hình thành cách Vũ Tham Linh Xương Đà cũng không mấy khó khăn để vượt qua. Bố cục Linh Xương Đà Vũ là cách cục đặc biệt trong tử vi, thành cách do Linh Tinh. Cách cục Linh Xương Đà Kỵ ý nghĩa khác với Linh Xương Đà Vũ. Tùy từng bố cục chính tinh giao hội cũng mang ý nghĩa khác nhau, tuy nhiên khi hình thành cách cục này, trừ tinh hệ Tử Vi cư Ngọ và Vũ Tham Sửu Mùi, các cách cục khác nếu không gặp trợ tinh Quyền hoặc Khoa ắt họa tới do đây là bố cục cung trọng điểm. Nếu có thêm Kỵ Hình là cách cục rất độc, hung hiểm lớn. 






Một mệnh cách Vũ Tham rất trẻ tuổi mệnh cách Vũ Tham Linh Hình Khốc hội Lộc Mã giao trì, gia đình nông dân, khởi sự có phần khó khăn do điều kiện hoàn cảnh, đương số sau khi tốt nghiệp đại học đi buôn vải, sau đó gặp thời vận mở rộng kinh doanh, chỉ 27 tuổi đã có 2 công ty lớn gồm một công ty về phân phối thực phẩm và một công ty về xuất khẩu nông nghiệp, có uy tín lớn trong địa phương. Đại vận năm 33 nhập vận Cự Nhật Kỵ Kiếp Hồng Tuyệt, tiểu vận Sát Kỵ trùng phùng gặp tai kiếp nặng bệnh ung thư, cùng đại vận này kinh thương có phần khó khăn, họa vô đơn chí. May mắn vượt qua, tới hành vận Quan Lộc gặp cách cục Liêm Phá, tật ách tái phát, nhập tuyệt địa. Hành vận thứ ba trải qua tuy nhiên để tác động rất lớn về sau. Đó là khí hình vận của mệnh cách. Khi luận tử vi, điều kỵ gặp là luận vận tử tuyệt tạo tác động lớn tới tư tưởng của nhân mệnh. Do Vũ Tham hình thành cách cục tốt, chủ phát phú cách, tuy nhiên bố cục này cũng hàm chứa tai họa, do tham vọng nên mệnh tạo có phần chủ quan với sức khỏe của bản thân, khi Sát vận trùng phùng, ứng chữ bộc phát tai kiếp lớn, cũng chủ bất ngờ, không thể kháng cự là ý nghĩa của Cự Nhật. Sát vận hình thành hoặc bố cục Sát chế hóa tại Mệnh cách có thể tạo sức kích phát rất lớn, tuy nhiên cũng mang lại tai họa khi cách cục ứng hợp Mệnh Thân Vận xấu. Sát tinh hình thành bố cục hội họp sẽ kích phát khi có các tinh đẩu chủ bộc phát, phát sinh, nếu chỉ gặp Không Kiếp Hình Khốc tại Mệnh cũng không đáng ngại, tuy nhiên nếu giao hội Khôi Việt hoặc Hóa Kỵ tại đây ắt dễ gặp biến cố tai kiếp trong cuộc đời khi hành vận nhập Sát vận. Đặc biệt khi đại tiểu vận đều hội Sát Kỵ, nếu hình thành cách cục Lưỡng Kỵ tức Lưu Kỵ hội Hóa Kỵ cố định trong bố cục gây họa như Kiếp Kỵ Hỏa Kình, ắt nhẹ thì gặp hình thương, nặng gặp họa sát thân. Khi luận tử vi, người nghiên cứu thường coi trọng Mệnh và bố cục Sát tinh ở thiên bàn, trong khi thực tế cuộc đời nhân mệnh là sự vận động của các tinh đẩu khi lưu hành vận tới.

0 comments: