Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Sunday, August 26, 2018

Sao Thái Âm tổng luận





Thái Âm là tinh đẩu thuộc nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương khi hoàn chỉnh. Trường hợp khi Thái Âm giao hội với nhóm Cự Nhật hình thành cách Âm Dương Lương. Sao Thái Âm và Thái Dương là hai sao tượng âm dương trong tử vi. Thái Âm luôn tam hợp với Thiên Lương. Khi luận cách cục giao hội luôn phối hợp bởi cách Âm Lương với các Chính Tinh. Luận tính chất Thái Âm thủ mệnh khi xét chung là luận tổ hợp Âm Lương. Thái Âm luôn nằm trong nhóm Âm Dương Lương hoặc Cơ Nguyệt Đồng Lương tạo tính chất riêng biệt cơ bản của hai bố cục. Đây là hai nhóm sao hiền hòa, ổn định, không hàm chứa Sát cách nên mệnh tạo Thái Âm hoặc Thiên Lương có bản tính đa phần âm nhu, hiền lương. Nữ mệnh cách nhập mệnh hai chính tinh này hợp cách. Thái Âm có âm tính. Trong vạn vật đều chứa âm dương. Mệnh cách có Thái Âm thủ mệnh tính âm nhu vượng, tuy nhiên không phải mệnh cách hoàn toàn không có dương tính. Chính tinh nhập mệnh chủ tính cách thường trực, qua vận hay tác động của hoàn cảnh biến đổi. Khi giao hội với bàng tinh, tính chất cơ bản chủ âm không thay đổi, tuy nhiên phối hợp định cách biến hóa phức tạp. Thái Âm nhập mệnh phân hai trường hợp độc tọa hay đồng độ với Chính Tinh khác. Trường hợp độc tọa tại cung Tị Hợi Thìn Tuất Mão Dậu. Giao hội với Thiên Cơ tại Dần Thân, với Thiên Đồng tại Tí Ngọ và Thái Dương tại Sửu Mùi hình thành tổ hợp Chính Tinh luận phối hợp tính chất cơ bản của tinh đẩu khác biệt với trường hợp độc tọa. Thái Âm có tính chất âm khi dụng thể chủ che dấu, âm ám, mưu tính, quyền ngầm. Trường hợp tăng tính chất suy nghĩ, tính toán khi giao hội với Thiên Cơ tại cách Cơ Âm. Với cách cục Cơ Âm cũng tăng mạnh tình ôn nhu, hiền lương tại tâm tính và tướng mạo của mệnh tạo.





 Trường hợp Thái Âm đồng độ Thiên Đồng hình thành cách Đồng Âm chủ ưa đóng góp lợi ích tập thể hơn bản thân, Đồng Âm cách có tính cách nhi đồng, chủ do phối hợp tính chất từ Thiên Đồng. Xét về cách cục Cơ Âm có phần sắc sảo, tính toán hơn với mệnh cách Đồng Âm. Với cách cục Đồng Âm ngộ Tang Môn với nữ mệnh đắc chính cách của Đồng Âm, thường luận phẩm chất tốt ưa đóng góp âm thầm tới cộng đồng. Trường hợp giao hội Sát cách không luận vậy, biến hóa theo Sát Kỵ. Mệnh tạo cách cục Đồng Âm ứng hợp chữ phúc hậu, được đánh giá tốt hơn với Cơ Âm. Tuy nhiên về tài năng, khả năng ứng biến mệnh cách Cơ Âm luận hay. Hai cách cục trên hình thành khi nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương hoàn chỉnh. Trường hợp còn lại thuộc cách Âm Dương đồng độ cư Sửu Mùi. Ba cách cục đồng độ trên xét tính chất không xét tới vị trí sáng tối của Thái Âm. Âm Dương đồng độ cư Sửu Mùi tam hợp chiếu Thiên Lương và cung độ VCD ngoại Cự Cơ xung. Đây là cách cục có một phần thị phi do bản cung VCD chịu tác động của Cự Môn trong cách cục Cư Cơ Đồng. Âm Dương Lương tại đây có tính chất ưa thay đổi, chủ thời gian ổn định, là cách cục quan hệ xã hội. Do mang ý nghĩa ổn định, may mắn nên không gặp khó khăn bế tắc tạo kích phát tới bố cục. Âm Dương Lương chịu tác hóa của Thái Dương giao hội Thái Âm. Thái Dương có dương tính, ưa công khai, nhiệt huyết. Âm Dương đồng độ chịu tác động của hai chính tinh này nên có phần rối ren trong bố cục. Khuyết điểm thường chủ chóng thay đổi khi chưa thành tựu gặp khó khăn, không bền vững, bằng lòng với cuộc sống. 




Trường hợp Thái Âm độc tọa tại các cung Tị Hợi Mão Dậu Thìn Tuất phân hai cách cục Âm Dương Lương và Cơ Nguyệt Đồng Lương định cách toàn bố cục, các vị trí của Thái Âm nhập vượng hoặc hãm tác động tới sứ cát hóa của sao này. Thái Âm cát hóa mạnh khi nhập Hợi cung. Đây là cách cục Nguyệt Lãng Thiên Môn thuộc Âm Dương Lương cách với Thái Dương đồng độ Thiên Lương có tính hướng lên, phát triển. Thái Âm nhập mệnh bố cục này chủ hưởng thụ, thuộc cách cục ưa bình ổn, khó tiến nếu không Sát hóa toàn cục. Nếu nữ mệnh nhập cách cục này chủ tâm tính ưa việc an ổn, cuộc đời ít biến động lớn tuy nhiên cũng khó thành tựu. Với nam mệnh cách Thái Âm cư Hợi cần giao hội Sát cách chủ khó khăn hóa Âm thành Quyền cách luận tốt, thứ tới dụng Văn cách. Mệnh cách Thái Âm cư Hợi thường được luận tốt ở phẩm chất, luận sự nghiệp thành tựu không đắc trợ cách là mệnh thường. Cách cục Âm Dương Lương tại đây chủ mối quan hệ xã hội. Khi tốt là bản thân có các mối quan hệ tại tầng lớp cao của xã hội, gia đình xuất thân đa phần tốt đẹp do Phụ Mẫu định cách bởi Âm Dương. Khi Sát hóa mệnh cách Thái Âm tùy từng bố cục luận sai biệt chủ tính chất âm ám, tàn nhẫn, mưu mô, tranh đoạt. Đây là trường hợp Thái Âm giao hội Sát cách hóa Quyền. Khi Sát hóa được chữ bất lương. Thái Âm là sao chủ nội âm, thuộc âm thủy. Khi định cách Chính Tinh thực lý bên ngoài cuộc sống khi ứng hợp. Thái Âm hóa cạnh tranh ngầm, mối quan hệ ngầm. Thái Âm là những việc không bộc lộ, công khai. Do đó hàm chứa Tài Cách, bí mật kinh doanh không nên để lộ dễ bị phá hoại, trong kinh thương rất quan trọng việc tranh đoạt, cạnh tranh âm thẩm với nhau. Lợi ích bằng tiền không nên lộ ra dễ phá tán hoặc gặp cản trở. Tài vượng do hóa âm cách. Trái với Thái Dương chủ Quan cách, trong công danh sự nghiệp hay chính trị thường bộc lộ công khai bên ngoài nhiều hơn. Khi Thái Âm tốt đẹp chủ hiền hòa, hi sinh âm thầm, chịu đựng. Thái Âm chủ tiếp thu, lắng nghe, suy nghĩ. Thái Dương thường có Cự Môn chủ tiếng nói. Bố cục Âm Lương tam hợp luôn chịu tác động của Thiên Lương tại hoàn cảnh tới mệnh tạo, hướng tư tưởng ưa phân biệt phải trái, lý nghĩa. Thái Âm trong bố Âm Dương ưa hội Tang Hư Mã. Do tính chất giao tiếp, xã giao của nhóm sao này với nhóm Tang Hư Mã chủ khoa trương, đặc biệt khi hội Hóa Khoa. Tang Môn tăng tính âm cho Thái Âm chủ tài ngầm. Thiên Hư hợp với Âm Dương. Tuy nhiên cách Âm Dương Lương hội Tang Hư Mã dễ biến hóa theo khuynh hướng tác họa tới gia đình hoặc phụ mẫu khi hội Sát Kỵ với Lưu Sát Kỵ. 

Wednesday, August 22, 2018

Ngũ hành của mệnh cục.



Số mệnh và số phận là điều thường mỗi người được nghe và suy nghĩ. Những đứa trẻ sinh ra đã gặp tai kiếp, bệnh tật hay những đứa trẻ sinh ra có cuộc sống hạnh phúc, đầy đủ. Tai kiếp cũng tới với cả một gia đình không may, tới cả một dòng họ, một ngôi làng hay một quốc gia. Khi đó người đời luận với số phận, số mệnh. Cuộc đời luôn biến động, thời gian biến dịch. Mệnh đế, vương giả, tri thức, quan cách, binh tướng, bần nông, nô bộc thời trước hiện tại tất cả đã về cát bụi. Luận tử vi thì tất cả mệnh tạo đều phải tuyệt mạng nếu không bởi tai kiếp thì bệnh tật. Tuy nhiên lá số thực đại vận tới 12 cung hành vận rất dài so với tuổi thọ. Ngũ thập tri thiên mệnh, người tới tuổi này đã rõ được số mệnh của bản thân. Số mệnh tại đây là bản tính, tính cách cố hữu của bản thân tuy biến hóa nhưng cơ bản không thay đổi lớn, khác với tâm tính biến động theo vận. Như kẻ có nghiệp tới khẩu ngôn, tức khi người đánh giá mệnh tạo thường chủ định lời nói, khẩu ngữ mệnh tạo. Về lâu dài vạn vật đều phải suy tuyệt, tức khi biến đổi thái quá. Khi luận tử vi là định về bản tính ban đầu và phẩm chất tính cách dời đổi khi ứng hợp với khí hình của mệnh tạo. Mệnh, Thân và Vận rất quan trọng. Tuy nhiên có một số định cách cơ bản khi luận phối hợp mệnh vận tức biến đổi tính cách người luận có thể sai biệt khi luận. Vạn vật đều biến động phân thể và dụng, khí gốc và hình hóa là lý chung. Khi xét tới lá số tử vi. Ngũ hành mệnh và ngũ hành của cục thường định trước khi luận mệnh cách. Thường người luận xét Mệnh sinh Cục, Mệnh khắc Cục, Mệnh Cục bình hòa và trường hợp ngược lại của Cục. Luận tương ứng với hành vận tốt và xấu, cũng luận tương đối như Cục sinh Mệnh và Mệnh Cục bình hòa là tốt đẹp. Thứ tới là Mệnh sinh xuất Cục và Mệnh khắc Cục. Xấu là Cục khắc Mệnh. Tử vi đông a không luận cách xét như vậy. 



Thực lý với trường hợp theo luận trên sẽ có sai biệt khi các lá số Cục sinh Mệnh và Cục khắc Mệnh có bố cục lá số tử vi và khí hình có phần tương ứng luận bố cục tốt đẹp thành tựu rất lớn không gặp khó khăn. Thực sinh khắc không có tính tổng quan toàn lá số vậy, nếu vậy vận đại hung trùng phùng Sát Kỵ tác họa như cục sinh mệnh thì không phải vong mạng. Luận như vậy có phần khiên cưỡng. Cũng không xét luận trên là sai lầm, tuy nhiên không nên dụng khi chưa rõ để tránh rối loạn khi định cách. Người viết luận cách cục xét hợp hóa ngũ hành mệnh và cục để phối hợp định biến hóa thể dụng giữa mệnh cách tức bản tính ứng với các đại vận thay đổi tương ứng với ý nghĩa bố cục. Như Cục sinh Mệnh tác hóa của đại vận biến đổi tới tính cách ban đầu mạnh. Lưu phi tinh tác động tới đại vận ý nghĩa biến động mạnh hơn khi tác động tới mệnh cách. Mệnh sinh Cục chủ tác hóa của bố cục mệnh cách tới đại tiểu vận mạnh, biến đổi vận phối hợp mệnh, mệnh cách nắm lệnh. Trường hợp sinh là dấu cộng khi định cách phối hợp luận cát hung. Trường hợp Mệnh khắc Cục hay Cục khắc Mệnh luận ngược lại. Trường hợp khắc là dấu trừ khi định cách phối hợp luận cát hung. Xét phối hợp rất quan trọng tại tính chất cơ bản của tinh đẩu và toàn tổ hợp Mệnh với Vận. Do đó khi định cách được tính chất toàn tổ hợp khi giao hội mới cần thiết xét ngũ hành mệnh cục luận khuynh hướng biến đổi. Nếu không thì cũng không cần thiết tránh khó khăn khi luận tử vi. 



Như người viết đã từng luận về Tử Vi Đông A khởi nguyên mạnh thời Trần. Khi trải qua các vua Trần từ Trần Thái Tông tới Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông. Quân Nguyên Mông sang xâm chiếm Đại Việt gồm ba lần, đều bị đánh bại tan tác. Quân Nguyên Mông tức Mông Cổ và nhà Nguyên về sau. Sử còn ghi rõ vua Nguyên Thế Tổ tức Hốt Tất Liệt khi thua trận vẫn rất muốn đưa quân sang đánh nước ta. Tuy nhiên, các năm sau đó đều gặp đại hạn, có năm tướng lĩnh chết, năm phó tướng chết, trắc trở không thể xuất binh, cuối cùng Hốt Tất Liệt chết, đời sau không  gây chiến Đại Việt. Các đời vua Trần đều lấy Không làm dụng, thể là tham muốn hòa bình phát khởi Không cách, vận nước do vua, đều lấy tư tưởng tính Không để định khí hóa. Trước đó Đạo Lão định Không cách bằng hai chữ vô vi tuy nhiên tính chế dụng có phần chưa triệt để thực lý trị nước có phần chưa thực hài hòa. Tới Không cách của Phật Giáo từ đời Thái Tông tới Anh Tông đứng đầu quốc gia đều là nghiên cứu thiền học trở thành thiền sư thâm lý Không cách dụng thể tính. Đắc trợ cách hóa cục vận nước từ thế Tuyệt địa phùng Sinh, sức cát hóa hiển hiện, chủ không ngờ mà thành, việc như khó cùng. Sau khi thái bình thảy kẻ tinh thông toán mệnh, nghiên cứu mệnh lý đều rõ sự việc. Đông A Phái cũng nghiệm lý toàn cục, thấy rõ vạn vật không phải thực có số mệnh như trước đó lấy đạo mệnh làm gốc. Vạn vật sinh vượng suy tuyệt đều nhập Không là giai đoạn khó định cách. Trong Không cách hàm chứa vạn vật, những điều không tưởng xảy ra gặp từ cổ chí kim. Biết rõ không có số mệnh, chỉ có nhân quả hợp thành, từ tính cách mà sinh tai họa hay thành tựu, tính cách lại biến đổi tương tục qua mỗi thời điểm. 




Người đời sau luận tử vi qua phú luận nhìn vào Khoa Quyền Lộc Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt không định rõ Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp Tuần Triệt thì luận cách cục nghiệm lý khó toàn diện. Với Không cách thể dụng không mang ý nghĩa bản mệnh cách gặp Thiên Không Không Vong, Triệt Lộ Không Vong, Tuần Không Không Vong mà trong nội bản tính của tinh đẩu đều có thể dụng Không cách ứng hợp. Các sức bộc phát không ngờ, đột biến rất lớn rất nhiều bố cục do cách cục này tác hóa. Trong khi thể là Không lại dụng tham muốn, tham vọng cực vượng. Đây là trợ cách mạnh của tử vi. Với những người đứng đầu quốc gia, sẽ đứng đầu tại lý tưởng. Thời trước có một số cách luận về Tuế Hổ Phù và Tang Hư Mã. Do tác động lớn của phẩm chất quân tử ở đạo nho giáo tới việc định cách đạo đức, luân lý nên có sai biệt khi luận về hai nhóm sao này. Trước thời thế trọng chữ tín, nghĩa. Cũng do ý nghĩa của Thái Tuế chữ Thái là thực. Thiên Hư chữ hư là giả dối. Xét về giá trị đạo đức thường luận Tuế Hổ Phù tốt đẹp với Tang Hư Mã. Việc phân biệt vậy cũng như phân biệt Khoa Quyền Lộc Tả Hữu Xương Khúc và Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp Kỵ Hình. Vạn vật biến động, dịch lý không ngừng. Bố cục hai nhóm sao trên không chỉ mang ý nghĩa vậy. Tang Hư Mã khi tốt như phú luận cách Đồng Tang ưa giúp đỡ, từ thiện với người. Tuế Hổ Phù khi xấu là đưa ra quan điểm sai lệch nhằm che dấu tội ác, chứng minh bản thân đúng như lý tưởng của Pôn Pốt, lý tưởng Hitle, lại có quần chúng theo tức Phượng Khốc. Chữ thực giả cũng biến đổi liên tục như quy luật dịch lý vạn vật. Chữ thực giả không mang ý nghĩa đạo đức. Cũng không luận khi mệnh tạo có Tuế Hổ Phù chủ lời nói thực. Kẻ mệnh tạo gặp Tang Hư Mã thường lời nói dối. Cũng như mệnh tạo không có Thiên Cơ vẫn tính toán bản thân trước người khác. Tính cách luôn thay đổi từng ngày hoặc từng giờ. Vòn đại vận là 120 năm. Thực tế không có mấy người đi được hết vòng này là tới cửa tử dù vận về sau tốt đẹp. Khi luận tử vi nên luận sự biến động thường trực với tất cả mọi cách cục, tính cách, tài danh, ngay cả toàn cục của tử vi. Vạn vật cũng do biến đổi hình thành tính tích lũy hoặc suy bại. Kẻ thất bại nhiều lần sẽ tích lũy được kinh nghiệm. Sát cách khi dụng hóa thành tựu thì tạo hoạch phát. Như kẻ rèn luyện nỗ lực thì dễ thành tài. Có những kiến thức khó truyền đạt từ tính mô phạm mà chỉ tự nghiệm lý mới có thể thấu rõ. Tử vi đông a luôn luận giải các lá số qua các thời kỳ của xã hội, luận định cách do tính dịch biến khi mỗi thời kỳ có phần sai biệt khi cái bên ngoài thấu lộ từ bố cục tinh đẩu là ngoài đời thực thay đổi, xã hội thay đổi, vị thế quốc gia với vận thiên hạ cũng thay đổi biến động từ mọi mặt. 

Thursday, August 16, 2018

Tính chất cách cục ứng thành tựu



Từng cách cục dẫn tới khuynh hướng thành tựu khác nhau. Luận riêng rẽ và luận toàn tổ hợp nhóm giao hội khác nhau. Từng nhóm sao mang ý nghĩa khác nhau về đặc trưng. Mỗi người đều có tất cả các đặc tính của toàn bộ tinh đẩu. Với tinh đẩu nhập Mệnh là bản mệnh hướng mạnh, tụ hội với tính chất của tinh đẩu hình thành tính cách bản thể. Lưu ý cách cục mệnh là bản tính, không phải toàn tư tưởng. Mệnh tạo có Tuế Hổ Phù không phải luôn nói sự thực. Mệnh tạo có Hư Mã Tang không phải luôn nói lời xã giao, giả dối. Trong tính cách của mỗi mệnh tạo hàm chứa toàn bộ cách cục trên lá số. Người luận tử vi thường nhìn vào bố cục mệnh cách đánh giá về tính cách, bản tính tốt xấu của mệnh tạo dẫn tới sai lầm khi luận giải về sau. Lưu ý về Bản tính, tính cách và lý tưởng khác nhau. Bản tính chủ hình thành có tính vô căn. Tính cách là thể động, thay đổi biến động theo vận. Lý tưởng chủ đường lối của mệnh tạo hướng tới. Lý tưởng, hoạt động đã thành hành động, thành kết quả, do đó có giá trị so với suy nghĩ trong nội tâm. Bản thân có tồn tại thì có tham muốn, sinh ra vị kỷ. Bản thân khi ngũ hành còn hợp hóa thì nhân mệnh còn, ngũ hành tan rã thì tuyệt mạng. Bố cục ngũ hành tan rã khi một hành khắc chế quá lớn khiến vòng tương sinh không cân bằng. Cũng do tính bất ổn vậy nên mệnh cách thành tựu lớn cũng thường thiên lệch về ngũ hành tương sinh, tương khắc. Như Hỏa lấn át thì Kim suy. Mệnh tạo khởi Kim thì gặp hung hiểm. Sự ổn định không tạo nên đột phá. Lại Kim được cứu giải bởi Thổ sinh thành bổ cứu rất quý. Sự thiên lệch của ngũ hành sinh khắc khiến mệnh tạo biến động mạnh trong cuộc sống. Tính cách hay bản tính có thể quy về ngũ hành, vạn vật cũng vậy. Vật cùng tắc biến, hay vật cực tất phản là biến hóa căn bản của dịch lý. 




Thể dụng của chế hóa tử vi bởi lý quy luật căn bản của vạn vật, không phải thứ kỳ bí, hữu thần. Một dân tộc khi bị xiềng xích phải đứng lên đấu tranh. Một kẻ bị áp bức sẽ đứng lên phản kháng. Khi lâm vào thế cùng thì vật phản kháng rất mạnh. Trong trợ cách chế hóa Sát tính tích lũy qua khó khăn, bế tắc trước khi tới thời điểm hoạch phát rất quan trọng. Trong quá trình dịch biến tạo áp lực, đè nén lớn tới bản thể, dẫn tới rối loạn, loạn động do Sát cách hoạt động mạnh bởi tính chất cơ bản. Một người thành tựu từ chữ không sẽ luôn có giai đoạn quyết định khó khăn. Trong trường hợp này kẻ liên tục bám nắm, lâm nguy không loạn, không sớm từ bỏ hoặc ra quyết định sai lầm thì thời cơ phá vỡ thế bế tắc, hoạch phát tới. Đây là điểm cát hóa khí hình của Sát cách. Hữu cách cục chế hóa Sát có hai mặt, là dao hai lưỡi bởi Sát tinh là tinh đẩu có sát tính, có tính chất tác họa, trực tiếp tới chữ Sát, được mất, đánh đổi, khi hội đủ cách cục liên quan tới tài, danh hay nặng hơn là tính mệnh. Lại mỗi mệnh tạo do bản tính, tính cách giao hội Sát cách mang tính dụng khác nhau. Bố cục này chỉ luận cho mệnh cách, tức vận số của bản thân khi xét lá số tử vi của mệnh tạo. Với vận làng tới vận nước, vận thiên hạ có sai khác. Với vận thiên hạ như bệnh dịch hạch tại Châu Âu. Ở vận làng có nơi gầm như cả làng tử mạng. Ở vận nước tức khu vực này tử mạng khoảng 1/3 dân số. Ở vận thiên hạ xét thế giới cứ 5 người có 1 người vong mạng. Dịch bệnh hầu hết xảy ra tại Châu Âu tác động chủ tới vận nước. Chỉ khoảng 4 năm chưa đầy nửa đại vận cũng gần một nửa dân số Châu Âu tử mạng. Vận nước trong nạn đói năm 1945 Ất Dậu. Tại Thái Bình có làng ngàn người chết chỉ còn vài người. Trong chưa đầy tiểu vận nạn đói khiến cả triệu người tử mạng, nhiều làng quá nửa dân số chết vì đói. Khi Sát cường vượng không thua kém trong thời vận chiến loạn. 




Những cách cục vậy, không phải tất cả đều có lá số tử vi hạn tam hình, sát kỵ giao hội. Cũng không phải do ứng hợp cách cục tuyệt khí hay do mệnh ác nên chịu quả báo như phú thường luận. Khí hình vận tác hóa của vận nước nặng nề, đều không nằm ngoài quy luật  nhân quả. Nguyên nhân do chính sách của Nhật, chính quyền Pháp. Luận tử vi phải rõ lý biến dịch bất biến của vạn vật. Trợ cách của Tử Vi Đông A là khởi từ mệnh tạo, trường hợp không gặp tai kiếp bởi vận nước, vận thiên hạ là ngoại tác. Thực tế là chỉ thay đổi trong tư tưởng dẫn hóa cách cục,  dụng trợ cách biến hóa bố cục mệnh cách. Như một kẻ có tài năng nhưng chưa bản thân chưa tận dụng, hoặc một kẻ có tai kiếp báo trước trên lá số cần phòng tránh ở nội sự việc trong chính lá số. Với ngoài lá số tức các vận khí lớn hơn tác động không mạnh trừ việc khí hình cường vượng ứng hợp. Lá số tử vi chỉ là một tờ giấy ghi cố định bố cục  mệnh thân vận, lập từ tứ trụ, cần khí vận ứng hợp thấu xuất ra ngoài nên phải thua vận làng, vận nước. Trợ cách dụng cũng không thể vượt qua, chỉ điều hòa cát hóa cách cục theo khuynh hướng hợp cách. Thời hiện nay, thời vận bình ổn các lá số đều có khuynh hướng luận theo khí hình tương ứng khí Sát không lớn, lá số tử vi vận hung họa tác động mạnh tới mệnh tạo. Ở thời vận làng, vận nước xấu, mệnh hạn tốt đẹp còn gặp họa lớn, nếu  trùng phùng Sát Kỵ dễ tuyệt mạng. Ở thời vận làng, vận nước bình ổn, mệnh hạn tức vận của bản mệnh, số mệnh trùng phùng Sát Kỵ cũng dễ gặp hung họa. Vận nước là bên ngoài tác động. Vận số mệnh là tự bên trong tác họa.





Một số định cách cơ bản khi luận quan trọng tuy nhiên do thường cố hữu nghiên cứu các sách tử vi do một người biên soạn chứa quan điểm của bản thân người luận dẫn tới định kiến sai khi luận giải lá số nên có điển tích người viết sử dụng lại tùy bài viết luận khác nhau. Cốt rõ được lý của luận tử vi. Trong luận cách cục định cách tương ứng. Sát Phá Tham là nhóm sao đánh đổi, có tính độc lập lớn, ưa đột phá, khám phá, chịu áp lực lớn do sức tác hóa của toàn cục. Tử Phủ Vũ Tướng Liêm là nhóm sao xây dựng, chủ đường lối đứng đầu trong bộ máy tổ chức. Cự Nhật là nhóm sao chủ lập trường, thái độ, ngôn ngữ. Cơ Nguyệt Đồng Lương là nhóm sao hướng tới tinh thần, mối quan hệ tình cảm xã hội. Mỗi cách cục có tính chất khác nhau, thành cách khác nhau, tác họa cũng sai biệt, dụng Sát cách biến hóa tùy tính chất phù hợp. Thay đổi bản thân trước mới có thể thay đổi thiên hạ với tu thân đứng đầu. Với người trẻ khi gặp bế tắc lớn luôn là trước lúc thành tựu đột phá. Khi lắm kẻ bỏ cuộc, đầu hàng thì một số ít chịu áp lực tìm kiếm thời cơ vượt qua. Trong thiên hạ, cũng chỉ rất hiếm kẻ thành tựu lớn lưu danh. Cuộc đời như cõi mộng, thoắt đã tới gần tuổi trời cho,  thực công danh trước mắt trôi như nước. Người theo binh nghiệp thời loạn thường nhìn thấy rõ thế sự cuộc đời sinh tử phút chốc. Nếu có tham muốn lý tưởng theo đuổi là ý nghĩa của sao Tử Vi. Đây là chính tinh có tính chất rất quan trọng trên lá số cũng là tên của môn toán mệnh tử vi lý số. Thời phong kiến tiền nhân khuyên an phận thủ thường. Thời hiện nay nếu có tham muốn, lý tưởng lớn nhất định nên cố gắng thực hiện, nếu không gây hại đã là tốt, đóng góp được tới xã hội thì không nên do dự. 

Thursday, August 9, 2018

Luận về mệnh cách Cự Đồng.



Lá số mệnh cách Cự Đồng cư Sửu đắc cách, có địa vị cao trong xã hội. Phần luận cách cục này học trò luận. Về cách cục đã có cái nhìn tổng thể về tử vi, ứng hợp đúng với mệnh tạo ngoài thực tế người viết đã từng luận, trình bày luận tương đối đầy đủ về định cách cơ bản, xóa bỏ được một phần cách luận thiên lệch trước đây. Người nghiên cứu tử vi không nên nóng vội, nghiệm lý từng cách cục nhỏ, từ cơ bản nắm rõ, thực lý rõ thì gốc vững, gốc vững thì luận không gặp rối loạn. 

 Bố cục chung Thiên bàn phân thành 4 nhóm sao đó là TPVTL, SPT, Cự Đồng Cơ và Âm Dương Lương.  Tinh hệ này là tinh hệ Tử Vi cư Ngọ, đương số sẽ có những phẩm chất hơn người, chí ít là ở hoàn cảnh. Tử Vi độc tọa, lý tưởng và tính chất bộc lộ rõ ràng, không bị ảnh hưởng  và bộ Âm Dương sáng tạo điều kiện tốt cho đương số. Trò luận đương số có chính kiến, có lý tưởng. Đó là xét về chính tinh. Xét tiếp đến Bàng tinh, Không Kiếp Kỵ Hình Linh Hỏa không tụ tập. Các sao tăng mức độ quan trọng tụ tập nhiều ở cung độ Thái Âm Khoa  Khôi  Việt Đại. Thực ra trò vẫn khó phân biệt cung trọng điểm. Các trường hợp rõ ràng như lá số của trò có thể ngay lập tức nhận ra. Nhưng nhiều lá số rất khó. Ở đây trò vẫn nhận định cung trọng điểm là cung quan lộc với chính tinh Thiên Cơ ngộ Hữu Việt Hư  Mã Không Kiếp nhập Sinh. Ở đây là bố cục khá xấu nhưng may mắn nhập được Sinh Vượng mà hóa cát. Người này sẽ gặp nhiều nghịch cảnh nhưng lại vượt qua được mà thành công. Tuy nhiên cũng không hoàn toàn hạnh phúc.


Mệnh cung chủ ý chí, nghị lực con người, cũng là nơi bộc lộ phẩm chất và tính cách. Bố cục chung Mệnh Tài Quan là Cự Cơ Đồng ngộ Tả Hữu Việt Quyền Kình Tiểu với Tang Hư Khách có Tuần Triệt Không Kiếp nhập Sinh Vượng. Cự Cơ Đồng là nhóm sao chủ bất mãn, phản đối, dễ sinh thị phi, bất đồng mà đưa đến phản bội, mang tính chất nội bộ. Ở đây Cự Đồng Cơ ngộ Kình Hao, tính phản kháng càng thêm mạnh, nhưng chỉ là Tiểu Hao, tính chủ động bị hạn chế, trong lòng chứa nhiều bất mãn. Cự Đồng cơ ngộ Tang Hư Khách, can Quý Cự hóa Quyền, Tang Hư Khách hợp với Thiên Đồng chủ từ thiện, làm phúc, lại có Thiên Việt thật tốt quá, đương số tốt bụng, thương người, hay giúp đỡ người khác mà cũng được giúp đỡ lại. Tuy nhiên cũng hình thành các cách xấu như Đồng Không Kiếp, Cự Không Kiếp, nếu không làm phúc sau này tai họa tất đến, dù cho Không Kiếp đắc địa đi chăng nữa. Bố cục nhập Sinh Vượng nên vượt qua được những khó khăn, năng lượng lớn, có ý chí, có sức khỏe: “Thân Mệnh đồng cung tối hiềm nhập Mộ hoặc cư Tuyệt xứ. VCD hoan phùng Tả Hữu Sinh Vượng hóa hung vi cát chung thân vượng hưởng phúc tài”. Đương số lại được sinh ra trong gia đình giàu có, được học hành đầy đủ, do vậy hưởng phúc tài lại càng đúng. (Câu phú nói đến VCD nhưng trò nghĩ là tính cả chính tinh, không biết đúng k thầy?). 
Mệnh cung cũng là đại vận đầu tiên là Cự Đồng ngộ Tang Kình Quyền nhập Vượng  có Tuần Triệt án ngữ. 



Mệnh Thân đồng cung, đương số khá thống nhất trong suy nghĩ và hành động, ngôi sao Tử Vi độc tọa tại Ngọ chủ lý tưởng. Người này có ước mơ và phấn đấu theo ước mơ đó.  Mệnh Thủy, Đồng Cự cũng đều là hành Thủy, luận theo cả 2 sao. Ở đây dụng Thiên Đồng có lẽ tốt hơn so với Cự Môn do hình thành cách Đồng Tang hay hơn Cự Kình không có Phượng. Cái hay là Tuần Triệt án ngữ nên được hưởng 2 chữ phòng tránh, hai cung Tài Quan tuy rằng không đẹp nhưng cũng khó ảnh hưởng đến Mệnh Thân. Mệnh có Tang Môn, đương số có nét buồn trên gương mặt. “Tang Hổ Điếu Binh vị chi tứ Hung, nhược ngộ Đồng tinh nhi hóa cát”, đương số phẩm chất tốt, đây là người tốt bụng, tuy nhiên công việc không tốt, dễ gặp tai họa tác động trở lại cung Mệnh, khiến Mệnh cung có điều bất mãn, lo nghĩ. Cung Quan Lộc với cách Cơ ngộ Hư Mã Không Kiếp có Việt chủ phát sinh khó khăn, tai họa và đánh giá sai thời cơ. Mệnh cung phản kháng lại bằng sự bất mãn Cự Kình nhưng chỉ là Tiểu hao, phản kháng và sự thay đổi cũng không mạnh mẽ, không được ủng hộ của Phượng Các. Tuổi nhỏ đi học, có lẽ đương số kết quả học tập không được tốt.
Phú có câu: “ Cự hãm tứ Mộ đa ngôn, phản phúc nghi hoặc học càng tối tăm” Đa ngôn là nói nhiều, lại nói tầm bậy cái gì cũng nghi ngờ, cái gì cũng phản đối. Từ chỗ cái gì cũng nghi ngờ, cái gì cũng phản đối đến vô tình hay cố ý phản bội người. Mệnh tại đây ta là người có khuynh hướng tạo phản, đồng thời cũng là kẻ bị hại.


Đại vận thứ hai nhập cung độ Tham Lang. Tham Lang ngộ Tuần Triệt Đào Tồn Kỵ. Tham Đào ham chơi, lại gặp cách cục xấu “Kình Đà hiệp Kỵ vi bại cục”. Tam hợp là Phá Tướng Ấn nhập Tuyệt và Thất Sát ngộ Xương Hồng Bệnh. Đại vận này bất lợi cho tình cảm, lại Phá Quân nhập Tuyệt không lợi cho phá bỏ.  Mệnh Cự Đồng đến hạn Cáo Phụ, Tồn Kỵ khéo còn mang tiếng hỗn láo với người trên, trong lòng tồn tại bất mãn. Tuy nhiên Tham ngộ Tuần Triệt lại hướng đương số đến Không cách, huyền học tu đạo: “Tham Đào tại nhàn cung, nữ mệnh độc phụ chi nhân ngộ Triệt Tuần tâm hồn thư thái”. Ở đây trò nghĩ cả nam và nữ, Triệt Tuần ở đây giúp đương số bớt ham chơi mà thay vào là được giáo dục tốt, nhưng bại cục vẫn là khó tránh khỏi. Ở đây luận khí hình biến đổi theo hướng tĩnh, đi theo Thiên Đồng, dụng ngôi sao này, ở đây trò khó khăn trong việc luận khí hình vận, mong thầy giảng thế nào để đánh giá là khí hình mạnh/cao, thế nào là khí hình thấp ạ. Đương số sinh ra trong gia đình giàu có nên khí hình gốc vượng. 

Đại vận thứ 3 hội họp nhiều sao quan trọng, đến đây đương số bắt đầu gặt hái được thành công, nhưng nhìn chung nếu là một người xuất thân bình thường các đại vận trải qua trò thấy không nổi bật cho lắm, thành công cũng không được vang dội. Ở đây có lẽ do hoàn cảnh đương số sinh ra trong gia đình như vậy nên mới được làm Tổng giám đốc, nếu không có lẽ cuộc đời sẽ rẽ sang hướng khác.

Sunday, August 5, 2018

Hình pháp cách cục của Cự Liêm



Sao Liêm Trinh có đặc điểm tư tưởng bản tính mạnh về phân biệt phải trái, đạo đức, thanh danh, được luận hình tinh, có tính chất âm hỏa do Tử Vũ Liêm chủ bí mật. Khi giao hội Tử Vũ Liêm với Sát Phá Tham. Hình tượng cơ bản khuôn mặt dài, xương cằm nhô. Tùy theo vị trí độc tọa và bàng tinh giao hội định cách. Một số trường hợp khi giao hội Hình Sát diện tướng thuộc khuôn mặt lưỡi cày. Liêm Trinh có tính chất Sát, do âm hỏa hóa thành. Liêm Trinh đứng với Thất Sát là cũng có thể luận cách Hung Tú Càn Nguyên do tính chất phối hợp của Hình Tinh và Sát Tinh. Liêm Trinh nhập mệnh có tính chất chuyên quyền, cũng không phải mệnh cách hiền hòa, hàm chứa sức phản kháng lớn. Hai cách cục Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham và Tử Vũ Liêm giao hội Phủ Tướng hình thành bố cục mang ý nghĩa khác nhau. Liêm Trinh hóa cục thành hai khuynh hướng cơ bản nóng nảy và thâm trầm. Mệnh cách Liêm Trinh ổn định nếu trong bố cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm hoàn chỉnh cát hóa đa phần sinh trưởng có phần ổn định lớn, cuộc sống ít thăng trầm hơn cách cục xung đột với Sát Phá Tham. Nếu Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham, sao này bắt đầu tác hóa với Sát cục. Mệnh cách cục này đắc thành tựu đa phần do trợ tín chế hóa cách cục Liêm hội Hình Sát. Liêm Trinh đắc khí hình vượng mệnh cách có khuynh hướng theo hệ thống chính quyền, đặc biệt hình pháp. Như hình tướng, nếu mệnh cách Liêm Trinh hội Hình Sát ứng hợp võ cách, tướng mạo lưỡi liềm cách cục này Liêm chủ thâm trầm, sắc bén, có khả năng dò xét, phán xét rất tốt, cũng có tính âm thầm làm việc, giữ bí mật thân phận bản thân. Nếu mệnh tạo có sắc tướng không ứng Sát hình khắc, thiên lệch chủ bố cục này thường mệnh Liêm Trinh trong cách cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm cát hóa bởi trợ tinh, Sát Kỵ bất kiến. Với Liêm Trinh nữ mệnh trong bố cục này khó thành cách ổn định nếu không giao hội tam hóa, Khôi Việt Tả Hữu Xương Khúc.  




Khi luận phú về cách cục của Liêm Trinh. Liêm dụng võ cách, chế hóa Sát hình thành cách cục liên quan tới hình pháp, chủ dương tính mạnh, ưa thực hiện ký tưởng giữ công bằng, thực hiện công lý. Có một số câu phú trích dẫn sai hoặc bình giải sai với sao này. Người luận tử vi khi nghiệm lý phân biệt các lá số chính tinh độc tọa nhìn được điểm chung của mệnh cách có chính tinh thủ mệnh. Nếu nghiên cứu kinh sách chính yếu thì không gặp sai lầm với các câu phú. Như câu phú thường được dụng với các trường hợp Liên Trinh đồng độ Bạch Hổ sau. " Liêm Trinh Bạch Hổ hình ngục nan đào". Cách cục này xét tới khi Liêm Trinh đồng độ Bạch Hổ. Tức giao hội với nhóm Tuế Hổ Phù. Với Liêm Hổ mang ý nghĩa mạnh về dương tính, hình họa. Sao Bạch Hổ kỵ đồng độ với Sát Tinh như Thất Sát hình thành cách cục Sát Hổ tai ương. Sao Liêm Trinh do hung tính gặp Bạch Hổ trở nên bộc lộ mạnh ra bên ngoài mạnh. Liêm chủ suy xét, điều tra, cũng chủ thanh danh, liêm chính hay bất liêm chính. Do đó cách Liêm Hổ nếu mệnh cách theo hình pháp, hay liên quan tới chính trị. Trong tính chất cơ bản của Liêm Trinh, không phù hợp với Bạch Hổ do nhóm Tử Vũ Liêm ưa ẩn. Cách cục mệnh Liêm thường thành tựu do tính thâm trầm. Tuy nhiên cách cục Liêm Trinh ngộ Bạch Hổ nếu không trong bố cục Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham thì mang ý nghĩa tốt. Trong cách cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm giao hội Tuế Hổ Phù là đường lối rõ ràng, với Liêm chủ phân định đạo đức, hình pháp cho lý tưởng của toàn cục. Với bố cục Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham có Tuế Hổ Phù mệnh tạo Liêm Hổ đều trong cục diện khó khăn do xung đột giữa hai lý tưởng, có tính tranh đoạt và Sát Tinh lớn do Vũ Sát của hai nhóm sao tạo ra. Do đó Bạch Hổ đồng độ Liêm Trinh tại đây không mấy hay. Tuy nhiên xét cách cục xấu cần gặp thêm Hình Ky, Tồn Kiếp mới có thể định họa hay đại họa. 




Liêm Trinh tối kỵ hóa Đào Hoa cách thì luận mệnh phá cách, khó thành tựu lớn với nam mệnh, do xung đột trong chính nội cách và khuynh hướng ứng hợp của mệnh tạo khi Sát cần hóa Quyền do tham vọng. Do đó cách cục Liêm Tham hay Liêm Khúc Xương, hoặc Liêm Đào Hồng mang ý nghĩa không mấy hay. Trường hợp giao hội Xương Khúc cần xét thêm. Với cách cục Liêm Tướng khuynh hướng mạnh tính tương trợ, võ cách. Liêm Phủ mạnh tính dò xét, phán xét tuy giao hội nhóm sao tình cảm nhưng mang ý nghĩ khá tốt. Nếu có kiến thức cơ bản do chính thư và nghiệm lý rõ thì người nghiên cứu đa phần có thể xét được bản tính, hình tướng ứng hợp chính tinh nếu được thông tin sự kiện cuộc đời. Khi truyền tử vi ra ngoài. Một số người nghiên cứu chưa tinh đã giải thuyết về thời gian bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông ứng hợp các biến chuyển của trời đất tới toán mệnh tức xét tứ trụ. Như mệnh sinh các mùa phân biệt, lại giờ phân biệt nên bản tính dự đoán phân biệt. Lại luận nơi không có đủ tứ mùa mệnh các toán mệnh bất ứng hợp do các mùa do ngũ hành định cách thành Thập Lục Hoa Giáp. Thực tế bản tính ở tất cả nơi đều xuất hiện tương tự, không phân biệt do vị trí hay khí hậu có đủ Xuân Hạ Thu Đông. Khí hậu tức mùa là dụng thể của ngũ hành theo quy luật. Toán mệnh lý dùng tứ trụ xét theo ngũ hành bất xét theo khí hậu do đều là thể dụng của thuyết âm dương ngũ hành. Không có tính phụ thuộc lớn. Không thể xét hai cành cây khác nhau trong cùng một gốc, khi tra xét quy luật phải từ thân cây tới cành cây. Liêm Trinh mạnh về chính trị do khả năng nắm thông tin, điều ra, xác định. 




Cự Môn mạnh về nghiên cứu, tác động do bất mãn, phản đối, khám phá tạo ra. Mệnh cách của công tố viên đặc biệt Robert Mueller từng là giám đốc điều tra Liên Bang của Mỹ ứng hợp với Liêm thủ mệnh. Cự Môn dùng miệng, Liêm Trinh điều tra, dò xét, cũng do âm ám khi hóa Sát thành âm quyền tức quyền ngầm, bất hiển lộ. Với Liêm Trinh tốt ta lấy được thông tin của đối phương do âm thầm điều tra, thu thập. Với Cự Môn với khẩu ngôn với hình pháp. Mệnh cách của công tố viên Mueller sát hóa tính chất cơ bản Liêm. Hóa Liêm Trinh thành võ cách. Ứng hợp hoàn cảnh theo binh nghiệp. Mệnh tạo tham gia quân dịch và phát triển mạnh trong quân đội, thực chiến tại Việt Nam. Khi Sát hóa Liêm Trinh khí hình tăng vượng, hoặc tuyệt khí do Sát tác họa. Liêm Trinh ứng hình pháp chỉ khi giao hội Sát Hình. Liêm Trinh và Cự Môn là hai sao mạnh về hình pháp. Mệnh tạo đắc cách thường học luật, ưa nghiên cứu chính trị. Với Cự Môn khi xấu là tai họa do can gián, miệng lưỡi. Với Liêm Trinh khi xấu do hậu quả của lòng tham, đánh mất thanh danh do phạm hình pháp. Liêm Trinh và Cự Môn nhập mệnh đều có dương tính mạnh. Cổ nhân luận Liêm Trinh tốt hơn Cự Môn do tính Ám của Cự mang ý nghĩa phản đối, chủ bất mãn. Tính Ám của Liêm Trinh mang ý nghĩa điều tra, theo dõi, nắm bắt. Hai sao đều có tài năng lớn. Tuy nhiên Cự Môn dễ hoạch phát, Liêm Trinh được bền vững. Cự Môn thường chủ động tấn công, mang ý nghĩa của Kình tạo thị phi tới thanh danh đối phương khi tranh đấu. Liêm Trinh thường âm thầm, mang ý nghĩa của Đà La, điều tra, tìm sai phạm của đối phương khi tranh đấu. Cự Môn có đồng minh là Phá Quân chủ đa mưu, giỏi ứng biến, khám phá, lợi ích. Liêm Trinh có đồng minh là Thiên Lương chủ chuẩn mực xã hội, đạo đức, lương tính. Trong chính trị hai sao Phá Quân và Thiên Lương đều rất mạnh. Khi uy tín và đạo đức chuẩn mực rất quan trọng do hệ thống chính trị đứng đầu pháp luật. Phá Quân thường thắng thế Thiên Lương. 




Điểm tựa của Liêm Trinh nhập Sát cách là thanh danh và pháp luật. Mệnh Liêm Sát ngộ Hình Ấn hội trợ tinh đắc cách chấp chưởng quyền hành pháp. Nữ mệnh Liêm Trinh đắc cách chủ tư chất đoan chính, không ưa tà vạy. Liêm Trinh nắm giữ nhiều bí mật, do đó tính thâm trầm do ứng hóa khiến Liêm tránh được tai họa so với sao Cự Môn thường bị cổ nhân luận xấu do tính thị phi. Liêm Trinh khi bất hợp cách thuộc bố cục thâm hiểm, do sao Tử Vi đường lối sai lầm. Trong các hệ tư tưởng luôn có đối lập lẫn nhau, mâu thuẫn lẫn nhau. Liêm Trinh rất đắc lực với Tử Vi. Khi đắc cách là thanh danh viễn bá. Khi phá cách hay nhập vận xấu thường gặp họa về bệnh tật, tai tiếng, hình tù với mệnh cách Liêm theo hình pháp. Bản tính của mỗi người ở mọi địa vị đều có thể phân thành các tính cách chính, đặc trưng. Mệnh Cự Môn khẩu ngữ làm trọng. Mệnh Phá Quân tính khai phá, đột biến làm trọng. Mệnh Thiên Cơ lấy lợi làm trọng. Trong chính trị, khi có kinh nghiệm nhìn người thì có thể phân lập tính cách khi tiếp xúc. Trong thương nghiệp cũng vậy. Mỗi tính cách riêng biệt có những ưu khuyết điểm riêng. Người đứng đầu đất nước với tư tưởng, tính cách có tác động quan trọng tới vận nước. Trong tổ chức cũng vậy. Cũng có thể xác định lá số tử vi khi rõ chính tinh thủ mệnh và sự kiện quá khứ khi có trụ ngày. Trung Quốc nhiều người rất uyên thâm trong toán mệnh, thường dụng cả nhân tướng để rõ hơn về đối tác hoặc đối thủ. Như tướng mệnh Thiên Cơ nếu sinh năm Mậu thì Hóa Kỵ tác động mạnh tới tính cách. Thường xuất hiện kỳ tài khả năng mưu tính sâu xa, đắc lực nếu ứng hợp bên ngoài. Nếu tướng mệnh Cự Môn sinh năm Đinh hóa Kỵ, dù mệnh tốt đẹp cũng sẽ có họa thị phi do miệng lưỡi.