Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Wednesday, October 4, 2023

Yếu tố cơ bản của mệnh lý và luận định số cơ bản

Sát cách có khả năng cát hóa lớn hơn Cát Tinh. Bố cục Sát Kỵ có tính chất biến hóa cực đoan và khả năng tác động rất mạnh tới lá số cùng trợ tinh, gây biến đổi hoàn toàn tổ hợp.

. quan niệm cho rằng mệnh quý hay thượng cách là mệnh hội họp Cát Tinh và tránh được Sát Kỵ là sai lầm: đúng là trước đây cháu toàn xem theo hướng này, cứ chính tinh miếu vượng và tránh được Sát Kỵ là mệnh tốt hơn tất cả, từ bây giờ cháu sẽ thay đổi quan điểm này lại.

. Trong các giai đoạn biến đổi xã hội, tức hệ tư tưởng chung tác động tới toàn bộ nhân mệnh do vận thiên hạ sẽ ảnh hưởng lớn tới vận số của nhân mệnh. Khi định cách cục Sát luận của Đông A phái lấy khởi từ sự biến hóa này, là thời vận khiến Sát cục chế ngự thành hoạch phát. Tuy theo thiên hướng và khả năng của mệnh cách sẽ có chế hóa Sát cách khác nhau.

 

 Rất nhiều và đa phần lá số đứng vị thế đầu xã hội có các cách cục Sát cách hợp hóa thành cách. Cũng như thứ khiến các quốc gia thuần phục khi xung đột, hoặc sợ hãi là răn đe về hạt nhân, răn đe quân sự, không phải là những điều tốt đẹp, cao cả trong tinh thần. Trong tự nhiên cũng vậy, dã thú hay các loại có độc tính như rắn, rết sẽ ở vị thế an toàn bản thân cao hơn những vật thuần như trâu bò, thỏ, nai. Đây là điều người viết thí dụ không mang tính suy xét quá sâu về nội hàm. Thời hiện đại, vẫn có những việc vì lợi ích một quốc gia lớn sẽ thu nguồn tài nguyên của quốc gia khác bằng việc thuộc địa hóa, hoặc có những thời điểm phát xít hóa và tất nhiên là có thiệt hại nhiều về sinh mạng. Và nghiễm nhiên sao Tử Vi là đế tinh, bởi Tử Vi là đường lối, chính nghĩa, hệ tư tưởng. Với Đức Quốc Xã, người Do Thái thường bị coi là thông minh và muốn thống trị, thao túng thế giới. Và nguyên nhân dẫn tới hơn 10 triệu người tuyệt mệnh bởi một quyết định bởi hệ tư tưởng Tử Vi như chính nghĩa tạo bởi hệ thống đứng đầu Hitler. Bởi vậy Sát tinh tức bạo lực, vũ lực, hay quyền sát là thứ cần thiết để đứng vị trí cao trong xã hội. 


Vòng Trường Sinh:

. Luận tử vi tức xét định do tính chất của bản tính dẫn tới số mệnh, khi thời vận hình thành là giai đoạn phát triển, khi bế tắc phát sinh là giai đoạn suy. Vượng suy dịch chuyển thay đổi liên tục nối tiếp như một vòng tròn. Là vòng Trường Sinh. Cháu vẫn chưa thể hình dung rõ lắm về vòng vượng suy dịch chuyển thay đổi này, hy vọng thầy có thể giảng kỹ thêm và cho ví dụ ah.


Thường nghe thấy vòng luân hồi. Hình tròn không có điểm đầu và cuối. Vòng tròn trường sinh là vòng tròn mô tả cơ bản của tất cả vạn vật. Sinh trụ hoại diệt, sinh lão bệnh tử, sinh ly tử biệt. Chữ đầu tiên và kết thúc có thể xét theo chu kỳ. Thí như ngoài hạn 10 năm tức đại hạn, ta có tiểu hạn chỉ 1 năm. Ta còn có nguyệt hạn theo tháng và nhật hạn theo ngày. Biết kết cục của mọi nhân mệnh là chết đi. Những các kết cục nhỏ là chết một giai đoạn, nhỏ hơn là chết đi cái xác nhỏ để lấy chỗ cho xác lớn. Nhìn rộng ra, sự chết đi của tế bào và phân chia ở thời gian ngắn, tạo nên sự phát triển mới lớn hơn gọi là trưởng thành. Trong cái chết nhỏ tạo nên sự phát triển mới. Chúng ta rụng răng sữa để thay răng vĩnh viễn. Và trong những thứ cần thay đổi, tự nhiên vẫn giữ được thứ gọi là ký ức. Và sự tiến hóa khiến rất tự nhiên ký ức luôn giữ lại, tất cả vạn vật sẽ có lưu trữ. Thí như hình ảnh của ngôi sao đã tận diệt từ lâu vẫn được nhìn thấy trên bầu trời. Cũng điều vậy, tiền nhân suy xét những hành động của bản thân nhân mệnh đều được tạo hóa ghi lại, nằm trong hải tạng thức, nơi đồng nguyên với vũ trụ. Và sự luân hồi chuyển tiếp không dựa vào thân xác thịt, lưu lại bởi những chủng tử nghiệp duyên, liên quan qua lại như những sợi dây nối để làm nhân phát triển tiếp ở kiếp kế tiếp trong chu kỳ vạn vật. 


Mệnh & Thân:

. Mệnh là bản tính, thể tính ban đầu của nhân mệnh, có tính chất bản năng, tác động khi ngay giai đoạn ban đầu cuộc đời khi nhận thức, ý thức chưa rõ.

. Cung an Thân tác động khi có ý thức, tức không mang tính bản năng, do suy nghĩ tư tưởng tác động, tính chất không thường trực như Mệnh cách. Cung an Thân tác động mạnh khi hình thành nhận thức phân biệt, tức bản thể. Cung an Thân biến đổi nhận định tư tưởng của Mệnh cách. Ví dụ: Mệnh Cự Cơ, Thân Thiên Lương.

. Mệnh ở thể tĩnh, Thân ở thể động tức tác động từ thay đổi biến động của dòng tư tưởng. Cung an Thân còn mang ý nghĩa là thân thể.

. Trong thế bị động, Mệnh cách tức bản tính phản ứng rõ. Trong thế chủ động khi suy nghĩ, cung an Thân tác động phối hợp Mệnh.

. Mệnh khởi phát, cung an Thân dẫn hóa tới kết quả. Do đó mệnh cách tác động trong mọi giai đoạn. Cung an Thân tác động khi có suy nghĩ tư tưởng.

. Khi trưởng thành Mệnh Thân thường phối hợp cùng tác hóa. Do đó mệnh Mệnh Thân đồng độ luận tính chất khác cung an Thân tại Tài Bạch, Quan Lộc, Phúc Đức, Phu Thê hoặc Thiên Di. Đây là điểm rất quan trọng cơ bản khi luận tử vi.

 

Khi không có sự suy nghĩ của nhận thức, động vật linh trưởng vẫn có thể hoạt động sống, săn bắt dựa trên phản ứng vô thức có mục tiêu là sinh tồn, những chủng tử từ nguyên thủy vẫn hoạt hành trong chính bản thân của nhân mệnh. Trong quá trình vận động, xử lý, phản ứng với hoàn cảnh sống, có thể thí dụ về vận hành của máy tính để sát với đời sống, hiểu như những phần cần cho hệ thống máy tính, ứng dụng luôn chạy ngầm là Mệnh, ứng dụng cần thiết cài thêm để sử dụng hoàn chỉnh theo đúng khả năng của máy tính là Thân. Hoặc khi xét tới rộng hơn là trường hợp toàn bộ máy tính. Mệnh có thể hiểu như những thứ dữ liệu và tập ứng dụng được lưu trữ trên hệ thống đám mây, còn Thân là những phần cứng tạo nên chiếc máy tính. Bởi vậy tại sao cổ nhân luận Thân chuyên chở Mệnh ?, Thân là thân thể ?. Bởi khi không có Thân là phần cứng, Mệnh không mất đi, vẫn nằm trong hệ thống đám mây, cho tới khi có máy tính khác mở ra. Thí như Thân hư, tức chiếc máy tính này hư, thì Mệnh cần một chiếc khác để truyền tải, sử dụng. Việc nhập xác được mô tả không chỉ một khu vực nhỏ, địa phương nhỏ trong thế giới rộng lớn mà cả toàn cầu đều ghi chép từ sử sách cổ tới hiện tại về hiện tượng này. Ngay khi chiếc máy tính chuyên chở những dữ liệu này, hệ ứng dụng này như trên một số điện thoại apple cá nhân hóa, hư hỏng phá hủy hoàn toàn ( như cơ thể chúng ta đối mặt với sự chết), bắt buộc một chiếc máy khác có thể kém hơn, hoặc tốt hơn về chất lượng nếu truy cập được mã khóa đó trên hệ thống đám mây, sẽ nhận diện đúng chủ nhân của dòng dữ liệu ( hồn, mệnh ) này, mà cũng không phải là chính người đó hoàn toàn vì những ứng dụng, dữ liệu trên khi được hiển thị trên máy khác sẽ có thể thí như hình ảnh mờ đi, do cấu hình chất lượng thấp hơn, hoặc chạy tốt hơn do cấu hình cao. Thì toàn bộ Mệnh Thân ( ứng với hệ thống cá nhân từ ứng dụng dữ liệu tức Mệnh, và phần bên ngoài cơ học của chiếc máy cũ Thân) đã không còn tồn tại. Và thứ mới hay hệ thống cá nhân thích nghi với chiếc máy mới sẽ hình thành, việc sử dụng thêm và biến đổi kế tiếp trong thời gian tiếp theo sẽ là phối hợp giữa Mệnh và Thân mới. Và mô tả toàn bộ các ứng dụng chính là toàn bộ tính cách của con người. Điều này khi đọc sẽ có một số phần tương đối khó hiểu. Vấn đề này người viết muốn xét tới để dễ hiểu hơn, không hoàn toàn liên quan tới học thuật về vi tính, máy tính, chỉ hiểu sơ lược về nguyên tắc vận hành của máy tính khi kết nối toàn cầu để nhìn bóng chỉ trăng và người đọc có thể bỏ qua giúp người viết về vấn đề hiểu biết kỹ thuật công nghệ số. 

Điều người nghiên cứu tử vi phải biết, vạn vật thông linh kết nối như những hệ thống mạng máy tính, tức giả sử nhân duyên quả nghiệp kết nối vạn vật như việc tất cả mọi người đều phải sử dụng máy tính dữ liệu chung, như những hệ thống liên kết các ngôi sao, hoặc như những liên kết liên phân tử. Đặc tính liên kết, kết nối này đã là đặc điểm cốt yếu chung của vạn vật. Vì vậy điều nằm ở gốc của ý thức không phải là bộ não, mặc dù bộ não như chính là chiếc vi xử lý quan trọng nhất của máy. Điều quan trọng là các cá thể người đều nằm trong hệ thống liên quan tới nhau và nghiệp lực và nhân quả. Trong hệ sinh thái máy tính chính là hệ thống dữ liệu đám mây. Thứ gọi là ý thức, bản thể để luân hồi, quay vòng Trường Sinh mới có thể hiểu nôm na chính là hệ thống cá nhân hóa về ứng dụng và dữ liệu được lưu trên hệ thống đám mây chung như 1 một thứ bám là Tâm, hay phần Thức. Và người khống chế được vòng Nhân Quả chính như người tuy vẫn nằm trong hệ thống mạng nhưng đã xóa hết bản thể cá nhân. Điều ngưởi viết nói đến không phải là máy tính hay mạng, là việc vận hành của con người trong xã hội. Có rất nhiều thí dụ để sử dụng tuy nhiên tác giả suy nghĩ mô tả dễ hiểu có thể dùng vấn đề trên. Trong tạng hải a lại da thức chính là tạng chủng tử thức chứa nghiệp quả của từng nhân mệnh. Điều này được triết học phương Đông trong các đạo Phật, Ấn suy xét rất sâu sắc. Và Phật giáo rất hiển nhiên với những vị đức hạnh không nói dối như giới cấm quan trọng không phủ định việc khi chứng được quả vị trong thiền định sẽ nhìn thấy hay khai mở được những điều nổi bật ghi nhớ trong nhiều kiếp sống trước.  

Wednesday, July 19, 2023

Nhập môn khám phá tử vi

 Mở đầu khám phá Tử Vi


Từ giai đoạn kỳ cổ, con người đã đặt câu hỏi về sự tồn tại của chính bản thể của chính nhân mệnh. Những thông tin được truyền không có tốc độ nhanh chóng như hiện tại. Nội tâm của một số nhà tri thức khi ở địa vị và hoàn cảnh sống tạm thời ổn định bắt đầu hiện nên các câu hỏi và trả lời về ý nghĩa sống, triết học. Tôn giáo cũng đồng hành song song, tuy đại đồng tức hướng con người tới cái Thiện tính ở cả hai phương Đông và Tây. Tuy nhiên có điểm tiểu dị bởi, lực lượng tinh thần siêu nhiên ở hai nền văn hóa có khuynh hướng dị biệt cho tới ngày nay. Từ học thuyết Âm Dương, lịch pháp, sự nhìn nhận xoay chuyển của thiên văn, địa lý, cũng mới cách đây vài nghìn năm, trong quá trình lịch sử dày đặc của thiên địa. Học thuyết âm dương biến hóa đúng tới mức độ áp dụng với vạn vật, từ đó sinh khởi tiếp đến Tứ Tượng, là thể âm và dương lẫn. Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm. Từ Thái Cực cũng như một điểm vật chất theo thuyết hiện đại nổ Bigbang và phát sinh vạn vật. Từ Tứ Tượng sinh khởi tiếp Bát Quát 8 quẻ Chấn, Đoài, Khảm, Ly, Tốn, Khôn, Càn, Cấn. Sinh khởi tiếp 64 quẻ hay gọi quẻ dịch. Đây là sự mô tả vận hành của Âm Dương. Phàm mọi hiện tượng, vạn vật trên thiên địa đều tuân theo diễn tiến này. Điều này được kiểm chứng là đúng với thế giới vi mô và vĩ mô. Coi dòng đời của một con người là một dòng chuyển động từ ký ức quá khứ tới tương lai. Đây là một hiện tượng, bởi vậy có thể dụng thuyết Âm Dương Ngũ Hành trên chính cuộc đời của một sinh vật. Cổ nhân luận là Toán Mệnh. Đi sâu về thiên văn, chúng ta nhìn thấy thêm một yếu tố hay, NGÀY được khái niệm là Dương. Và ĐÊM được khái niệm là Âm. Thực chất NGÀY nếu với người không có mắt, sinh vật mù mắt, thì cũng không khác về ĐÊM. Theo vật lý là sự chiếu của ánh sáng tức photon mang tác động tới không gian. Tại sao cổ nhân biết NGÀY xếp vào trong chữ Dương. Và kế tiếp, theo tiến hóa của sinh vật, Mắt là sự tiến hóa cần thiết qua thời gian phát triển của các sinh vật trong tự nhiên theo thời gian từ dòng nguyên thủy tới hiện tại. Và sao Thái Dương ( Mặt Trời) cũng chính tên một trong Tứ Tượng. Từ việc có bộ phận mắt, chúng ta hiểu rằng khi nhìn vật rõ ràng, mang tính Dương. Cũng vậy có mắt nhưng không nhìn thấy vật khi trời đêm, không rõ ràng, mang tính Âm. Thể Âm cũng là một phần vật chất tối, không gian tới của cả vũ trụ, ngoài thể Dương là những ngôi sao, thiên thể, khu vực chúng ta nhìn thấy. Phân tiếp ra thiên đàng và địa ngục. Những điều này đều nằm trong thế giới ý thức phản ánh từ thế giới bên ngoài qua nội tâm của nhân mệnh. Và khi phân được trắng và đen, sáng và tối, thuộc tính của vạn vật, tác động qua lại có giá trị của vạn vật tới chúng ta. Thì tiền nhân quy về cùng hệ quy chiếu Âm Dương Ngũ Hành, và THỜI, KHÔNG để truy tìm nguyên gốc của mệnh căn. Và nếu Mặt Trời không ở gần để tác động tới chúng ta mà cách chúng ta xa hơn nữa thì không khác các sao khác, không có giá trí để xét trong mối nhân duyên của nhân loại. Mặt trăng cũng vậy. 




Và tự nhiên cũng tuân thủ quy luật Âm Dương Ngũ Hành tới cả những thiên thể xung quanh Thái Dương hệ, vì đây là quy luật hiển nhiên của trời đất. Vạn vật có khai sinh, có kết thúc, có chuyển hóa. Vậy, đi chết là tìm sống, và khi sống cũng đã hướng tới chết. Điều này rất hay khi cần giải thích một quá trình phát triển vốn có của vạn vật, Thành Trụ Hoại Không, Sinh Trụ Dị Diệt. Tuy nhiên tại đây không phải đường thẳng. Mà chính là một vòng tròn. Điều hay chúng ta nhận ra là tuy một vòng sinh trụ dị diệt có thể khởi từ một sự vật hiện tượng với thời gian hoàn thành một vòng là ngắn như vòng đời của một sinh vật đơn bào, hoặc dài như thiên thể ngoài vũ trụ. Tuy nhiên các dấu hiệu của các giai đoạn trong 4 giai đoạn trên của sự vật này luôn được nhận định. Vậy chu trình chết tự nhiên của con người, nhân mệnh theo giai đoạn cũng hiển hiện.Sự tuân theo của quy luật từ quy luật tất yếu là thuyết Âm Dương Ngũ Hành, dần co cụm phạm vi là ảnh hưởng của Thái Dương và Thái Âm tới con người, cho tới nhỏ hơn là quy trình của thời gian tương ứng Lục Thập Hoa Giáp, và nhỏ hơn nữa là nguyệt, nhật, thời tức tháng, ngày, giờ. Và như một lưới bắt được chu kỳ, mỗi thời khắc thai sinh sẽ chứa đựng các thông tin có sẵn được lập ra bởi việc phối hợp giữa Không gian và thời gian được biểu hiện qua Lục Thập Hoa Giáp ( 12 thiên can và 10 địa chi ). Về diễn giải vận hành của Lù Thập Hoa Giáp rất phức tạp người viết không bàn ở nội dung bài viết này. Bởi vậy theo hệ thống thời gian phương tây, thời gian trải qua không có điểm lặp lại như trong thời gian tại phương đông. Cũng như xét ngọn nguồn tại bốn quá trình Sinh Trụ Hoại Diệt. Dòng thời gian của Phương Tây không gắn được tác động mạnh của thiên thể như Mặt Trời và Mặt Trăng tới hệ đếm. Và ba mô tả chính của vận hành liên quan trực tiếp tới thảy sinh vật tồn tại trên địa cầu là ba yếu tố. Thứ nhất năm mặt trời hay 1 năm là chu kỳ của thời tiết, là thời kỳ trái đất quay quanh mặt trời. Mọi sinh vật trên trái đất cũng chịu tác động như trên. Một vòng khoảng 365,24 ngày. Thứ hai, tháng mặt trăng biểu thị sự quay của mặt trăng xung quanh trái đất, có độ dài gần 29.5 ngày. Thứ ba, việc tự quay tròn của trái đất quanh trục 1 vòng là 12 canh giờ. Ba yếu tố này đều mô tả sự vận động rất rõ ràng và cơ bản của địa cầu với thái dương hệ. Và xét gắn theo âm dương ngũ hành vẫn tuân thủ quy luật này. Điều quan trọng của 1 ngày là tìm được chính ngọ sẽ đoán được chính xác tất cả thời điểm còn lại qua hệ đếm. Điều quan trọng 1 tháng là thời điểm mặt trăng trở nên tròn hoặc khuyết. Một năm là 4 ngày chí cực. Và 1 lục thập hoa giáp là thời điểm nhuận. Từ 1 lục thập hoa giáp ta luận được tất cả các thời điểm về trước và sau. Hết 1 vòng 60 năm lại vận hành kế tiếp tương tục. Việc diễn giải này có thể trừu tượng hơn các phần khác người nghiên cứu có thể đọc chậm để hiểu. 




Và 60 năm này bao gồm rất nhiều thông tin hiện trong hai chữ can chi của năm trong Lục Thập Hoa Giáp này. Khởi từ năm Giáp Tý tới Quý Hợi là 60 năm. Bắt đầu của Thiên Can từ Giáp đến Quý là 10. Bắt đầu của Địa Chi là Tí đến Hợi là 12. Điểm đầu và cuối đều khớp với quy luật. Các môn toán mệnh bắt buộc đều phải dựa trên thông tin gắn với việc thời khắc sinh ra tương ứng thời điểm nào trên một vòng Lục Thập Hoa Giáp 60 năm.  Suy cùng tất cả đều xét dựa trên những chuyển động lớn của trái đất, mặt trăng. Và việc chuyển động thu thai, thai sinh của mỗi người là chuyển động nhỏ trong đó. Cũng như một bánh xe lớn đi quanh thành phố là quỹ đạo. Một cái đinh gắn trên bánh xe như một sinh mệnh, cũng sẽ theo quỹ đạo lớn này. Để cái đinh thoát khỏi bánh xe tức nằm ngoài luân hồi là việc khó khăn. Bởi vậy tiền nhân gọi là bánh xe luân hồi. Vì vậy tại sao Phật thuyết nhân mệnh muốn thoát khỏi lực chi phối rất khó khăn bởi nhiều vướng mắc trên, tuy nhiên chi khi nhìn rõ bởi tri kiến mới thấu thị được những quy luật của vị trí sống đã vận vào chính mỗi nhân mệnh. Bởi vậy việc thần thánh hóa các sao trong tử vi, hay các môn huyền học về toán mệnh khởi từ việc mê tín là điều không nên xảy ra. Khi rõ ràng các hệ quy chiếu trên gắn với mọi sinh vật, kể cả con người thì khi một nhân mệnh được thai tạo vào thời khắc chứa những đặc điểm trên được ấn ký bởi chính những thông tin chứa trong thời điểm năm, tháng, ngày, giờ đó bắt đầu tồn tại ngoài môi trường sẽ luận được một số biến động của đời người theo quy trình trên. Vì vậy cũng giải thích được những tác động như tai nạn tập thể, chiến tranh quốc gia khiến nhiều nhân mệnh chưa tới số tận đã chịu việc hoại diệt sớm để bắt đầu một vòng tròn luân hồi mới. Và tất cả môn toán mệnh đều sử dụng 4 yếu tố năm, tháng, ngày, giờ gắn với vận động để làm yếu quyết dự đoán cuộc đời. Một bộ môn tử bình giản lược rất lớn những thứ phức tạp vẫn có thể cho dự đoán có tính chính xác rất kỳ lạ. Từ những sự vận động này, xếp thành thiên văn, sinh ra toán pháp, thần số, toán mệnh lý. Và con người, cũng là một sinh mệnh trên trái đất, nằm trong vòng cương tỏa này. Việc một số nhà tiên tri nhìn thấy được sự chuyển dịch, sự kiện lớn có tác động toàn cầu cũng là điều có thể có thực. Bỏ đi một lớp huyền huyễn, người nghiên cứu dần thấy mọi thứ rõ ràng hơn một phần. Cũng bước vào một thế giới mới, nơi đôi mắt nhìn thấy rõ hơn về quá trình vận động, dự kiến vận động và những điều thịnh suy tuyệt của mệnh lý. Số mệnh không phải được sắp đặt bởi nhân duyên mà được xoay chuyển trên con đường mòn, nếu những quyết tâm thay đổi vẫn được đánh giá cao như việc "Đức năng thắng số". Và nhân mệnh có thể kiểm chứng, việc dự đoán bản thân, nhìn ra yếu điểm và thay đổi bản thân so với mệnh số. Toán mệnh cũng cho thấy được sự trần trụi của việc tự cho rằng con người có suy nghĩ và tự tư duy tất cả không nằm trong quy luật nào là có điểm khiếm khuyết.