Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Tuesday, August 17, 2021

Nối tiếp thế hệ và bạch thủ hưng gia

 Sự nối tiếp của thế hệ đi trước trong một gia đình tức vận nhà khiến hệ cách cục định số biến chuyển theo khuynh hướng có tính khảo cứu tương đối hay. Thứ nhất thường một số người nghiên cứu tử vi có kinh nghiệm luận về truyền tinh của phụ mẫu tới nhân mệnh. Thứ tới là việc suy xét tính chất này có một đặc điểm quan trọng khi khảo cứu là xét sự biến dịch của tổ hợp tinh đẩu hung họa trong một gia cảnh tốt đẹp để định cách biến hóa của tổ hợp. Cách cục bản chất về tính cách hay bản tính không có sự sai biệt. Tuy nhiên về lý tưởng, tham muốn đạt được của hai trường hợp này đã ở cách xét mức độ rất khác nhau. Vận thiên hạ thắng vận nước, vận nước thắng vận làng, vận làng thắng vận nhà, vận nhà thắng vận mệnh. Đây là sự tác động nghịch với nhân mệnh. Tuy nhiên bản chất một nhân mệnh khí hóa cao viễn hay thậm chí bình thường vẫn có thể là tác nhân suy chuyển vận nước, việc này đúng với yếu nhân đứng đầu trong một tổ chức quốc gia. Trong bài viết này bàn về tác động của vận nhà tới mệnh cục. Thể chế, truyền thống, bản sắc một quốc gia sẽ tác động tới toàn bộ công dân của quốc gia này, từ hệ thống công trình cho tới giáo dục, y tế, kinh thương,... Đặc biệt là sự tác động của giáo dục sẽ tương đối mạnh. Tại đây tác động này sẽ hình thành nên sự sai khác giữa các quốc gia. Tức sự tác động của vận nước sẽ liên quan tới nhân mệnh quốc gia này. Vận làng tức xét hoàn cảnh sinh sống tại một địa phương. Và vận nhà là tác động của gia đình, phụ mẫu huynh đệ tới nhân mệnh. Nếu vận nhà cực thịnh, tức tổ nghiệp ở vị trí cao trong xã hội thậm chí quốc gia. Tính chất của toàn bộ tinh đẩu sẽ sai khác về tham muốn và lý tưởng. Thí như với lá số nhân mệnh đắc cách Cơ Lương cư Thìn hội Khoa Lộc Mã Xương Khúc Tả Hữu, sinh khởi trong gia đình phú gia địch quốc. Nhân mệnh đắc cách này có khuynh hướng phát tài phú tương đối mạnh. Tuy nhiên trong các lá số nghiệm lý, có nhân mệnh theo khuynh hướng tu đạo, có người rời bỏ gia đình ẩn cư tu đạo. Các bố cục định cách về khuynh hướng đã hóa hợp sai biệt tương đối mạnh. Tượng cách Cơ Lương có một phần tính chất ưa nghiên cứu đạo, thoát ly tăng đạo như cách Tử Tham. Khi định cách cục này có trường hợp nghiệm lý quả thực có kết quả trường hợp sai biệt. 



Với bố cục mệnh cách thừa hưởng kế tục được tước vị, hay tài sản rất lớn của phụ mẫu hay thậm chí gia tộc, dòng họ do tính truyền thừa, kế thừa. Nghiễm nhiên một số mệnh cách này đã có được khởi đầu rất tốt đẹp. Đây là điểm rất cần chú trọng khi xét gốc khởi ban đầu của cách cục. Thực tế trong giai đoạn hiện thực, tại tất cả các quốc gia khi xét ở phương diện doanh nhân hoặc chính trị có nhiều mệnh cách được sinh khởi trong gia đình có truyền thống lãnh đạo đứng đầu một tổ chức hoặc một quốc gia. Gốc khởi phát này như nguồn lực rất lớn tới nhân mệnh cũng dễ xét tới trong ngay môi trường xung quanh mỗi nhân mệnh. Tuy nhiên khi khảo sát về nhân mệnh đắc thành tựu khởi phát từ gốc vận nhà tương đối yếu thế, với cách cục Sát cách đắc lệnh vẫn mang ý nghĩa hoạch phát rất lớn. Nhân mệnh nếu khởi điểm không được nhiều thuận lợi, có thể trong hoàn cảnh rất khó khăn bằng nỗ lực tạo những thành công lớn tới xã hội cũng xuất hiện rất nhiều. Cách cục này để thành cách có những tinh hệ thường khi xét luận chủ có tính chất vươn lên, cầu tiến rất mạnh. Khi nghiệm lý toàn cục xét tính chất sao, cổ nhân phân định Khôi Việt là bộ sao quý nhân, tính chất vượt trội rất mạnh, an theo Thiên Can nằm ngoài bốn nhóm sao chính an theo Thiên Can. Thiên Khôi và Thiên Việt nếu nhập Mệnh ắt nhân mệnh hẳn không là người tầm thường. Lưu ý việc Khôi Việt nhập mệnh khác tam hợp chiếu, củng chiếu mệnh hoàn toàn. Khôi Việt thí như sự trọng đại, khi nhập mệnh mang ý nghĩa tăng trọng cung độ này. Nếu xét tính bộc phát, Khôi Việt có tính chất dự đoán, cát hóa bố cục hung cách. Không Kiếp bộc phát bất ngờ. Khôi Việt là cách cục chủ vươn lên, là thế trợ lực của hoàn cảnh tới nhân mệnh. Mệnh cách gặp Khôi Việt, nếu sinh khởi nhân mệnh hoàn cảnh khó khăn sẽ có sức vươn lên tương đối mạnh. Về phần định cách cục Khôi Việt một số bài người viết đề cập tới tính chất của tinh đẩu này. Thường xét luận 6 trợ tinh gồm Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt. Tuy nhiên nếu xét thực tế trên thiên bàn có 4 trợ tinh có thể hóa khí và có bàng tinh an theo trợ tinh này tức Tả Hữu Xương Khúc có Thai Tọa Ân Quý Cáo Phụ. Tả Hữu chỉ Hóa Khoa có 2 phụ tinh Thai Tọa. Xương Khúc có thể Hóa Khoa và Hóa Kỵ gồm 4 phụ tinh Ân Quý Cáo Phụ. Thực tế phân định hai tổ hợp của Thai Tọa và Quang Quý an theo ngày sẽ hình thành một số cách cục mang ý nghĩa cốt lõi trong trợ luận về độ số. 




Hai bộ Quang Quý và Thai Tọa an theo ngày nên không nằm cố định theo tổ hợp sao xác định từ trước. Tác động của hai bộ sao này tương đối mạnh, biến chuyển tính chất hoàn toàn của một cách cục cát hung. Người nghiên cứu tử vi thường nghiệm lý hai trường hợp Xương Khúc Ân Quý đồng cư Sửu Mùi và Tả Hữu Thai Tọa đồng độ tại Sửu Mùi. Bốn trợ tinh Tả Hữu Xương Khúc hợp hóa tương đồng, xung chiếu tại Thìn Tuất, tam hợp chiếu tại Tị Dậu Hợi Mão, đồng độ tại Sửu Mùi và đơn thủ tại Tí Dần Ngọ Thân. Sáu vị trí Thìn Tuất Tí Ngọ Dần Thân gặp trợ tinh Tả Hữu Xương Khúc không đủ bộ, đơn thủ. Do vậy cổ nhân luận cách Xương Khúc Tả Hữu đồng cư Sửu Mùi là cách cục nhập miếu cát hóa mạnh, đặc biệt khi giao hội Thai Tọa hay Cáo Phụ. Với Sát tinh Không Kiếp luôn đồng độ tại Tị Hợi, xung chiếu tại Dần Thân, tam hợp chiếu tại Mão Dậu Sửu Mùi, đơn thủ tại Thìn Tuất Tí Ngọ. Khi xét xong phân bố của Chính Tinh, xét Tứ Hóa, 4 trợ tinh, Không Kiếp để định khí hình gốc hay năng lượng của tinh bàn. Tại sao gọi là năng lượng ?. Do tính chất lưỡng đấu của Sát và Trợ tinh, hoặc vị trí kích phát treo của các tổ hợp này khi nhật hạn, nguyệt hạn, tiểu hạn với thời gian ngắn vận qua sẽ gặp biến hóa mạnh trong tư tưởng, hàm tính biến động, dao động mạnh. Năng lượng trong các tinh hệ Chính Tinh với các nhóm sao thủ mệnh sai biệt tương đối lớn. Xét cục nếu phần năng lượng của Sát cục lớn, hoặc trợ tinh lớn là điểm vượng suy của nguyên cục. Nếu Sát tinh có năng lượng lớn, sức áp lực, đè nén, bất ngờ, lo sợ và bế tắc, mất phương hướng,... sẽ phát khởi mạnh nếu không được chế hóa. Với trợ tinh lớn như Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt là sự phát triển, xu hướng tốt lên, tăng tính ổn định, thời vận, tuy nhiên năng lượng khởi phát không lớn mạnh, khởi tham vọng lớn như Sát tinh do tính cân bằng, ổn trọng trong tính chất tác hóa. Trên tinh bàn, xuất hiện các tổ hợp có sức tác hóa lớn, đây là mệnh phát triển bất ổn định, tức khi phát ắt hoạch phát tài danh, khi hung họa tăng mạnh tính hung. Bản chất khi xác định dòng khí hóa vận hành qua các hành vận tác động tới tư tưởng, Mệnh Thân việc gặp tai kiếp nạn ách thương tích, thương tật hay phá tán bại vong đều đổng đẳng tính chất hoạch phát, cát hóa, đắc tài lộc, gặp thời cuộc. Đều không là mệnh thường, tuy nhiên hai khuynh hướng rất sai biệt. 




Điều quan trọng, người nghiên cứu tử vi xét luận từ gốc định, có thể phân rõ năng lượng trong tổ hợp hình thành mạnh là cát hay hung. Sát tinh có thể phối hợp định cách đại cát, cát trợ tinh khởi phát tối hung. Điểm khẩn yếu này biến hóa vận động thực tế do mong muốn của lòng nhân. Thí như một loài sâu bọ, khi diệt loài này có thể mang kết quả tốt với con người tránh hại cây quả, tuy nhiên có thể kết quả xấu với tự nhiên khi mất cân bằng. Năng lượng hay khí hóa gốc của tinh hệ cũng vậy, ngược về gốc bất phân cát tinh hay sát tinh. Khi truy nghịch, nghiên cứu giải đoán lá số người nghiên cứu cũng suy xét từ nguyên căn, thứ tới phân định cát hay hung của chính nhân mệnh mới có thể thực tránh một số sai lầm khi luận giải. Nếu nguồn năng lượng khởi phát trên một số tổ hợp mạnh, hay chính yếu là tổ hợp cung trọng điểm sức tác động lớn. Nghiên cứu tử vi không chỉ nhìn xét cách cục luận theo phú giải. Tinh đẩu biến hóa phức tạp, một số người nghiên cứu thời gian còn chưa thực sự nhiều tuy nhiên do một phần tính huyền học của toán mệnh tương đối khó tiếp cận, người nghiên cứu cũng thường muốn tri kiến của bản thân được người biết như trên các trang mạng khi luận giải hay truyền đạt tới mọi người như sự nghiệm lý, tổng hợp phân định phú giải cần sâu dày cần tránh rơi vào sự tự tin dẫn tới tạo nghiệp quả khi dự đoán lá số tới người khác. Quan trọng phú luận có tính phổ quát, tổng hợp rất lớn, nếu không nắm rõ yếu tố cốt lõi rất dễ sa vào câu chữ trong phú luận. Điểm chế hóa của mệnh cách là sự dung hòa của cách cục. Như việc dung hòa được thuốc có tính độc trong cơ thể phá những bệnh huyết ứ trong đông y. Ngược lại bồi bổ những liều thuốc, thức ăn bổ nhiều sẽ phát sinh tới bệnh tật. Bổ cứu là điều quan trọng trong ngũ hành tương sinh tương khắc. Tức giữ được đạo trung dung vậy. Việc được mặt này mất điểm khác là quy luật của thiên địa. Cách cục tượng cách lạc quan và hướng lên phía trước khi thời điểm hoàn cảnh khó khăn nhất là cách cục mang ý nghĩa cát hóa mạnh. Mệnh tạo này có sức đột phá mạnh, luôn tìm kiếm cơ hội, giữ tích cực trong thời gian dài là điểm ít cách cục nhân mệnh có thể hình thành. Các tổ hợp an theo Địa Chi. Với nhóm Đào Hồng Cô Quả và nhóm Tuế Hổ Phù Tang Hư Mã Phượng Khốc hình thành nên các cách cục mang ý nghĩa sai khác về tính cách khi nhập Mệnh. Đào Hồng có tính bất ngờ, Đào Sát chủ đoạt lấy, giữ của bản thân, Đào Hồng là nguyên nhân, Cô Quả là kết quả. Tuế Hổ Phù và Tang Hư Mã là hai mẫu người khác nhau, một chủ quan điểm, lập trường, lý tưởng rõ ràng. Một chủ tính xã giao uyên bác, mẫn tiệp, thích nghi, đa năng. Nhân mạng phân định như trên, phối hợp cách cục chính tinh và các nhóm sao khác hình thành nên hệ tư tưởng, mẫu người riêng trong xã hội. Cũng như xét định nhân tướng phân định diện tướng sai biệt có những tính cách riêng rẽ, hoặc như mệnh cách chịu ảnh hưởng của hành khí Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ trong ngũ hành phân định tính cách riêng. 

Thursday, August 5, 2021

Con đường công danh

Phàm nam mệnh khi sinh khởi lấy chí tạo lập công danh làm đầu. Vượt qua những phép Đào hoa sắc hay vật dục để hóa cục tinh hệ tham muốn khởi phát thì được hưởng thành quả sau này. Điều quan trọng là sự tồn tại thực tế của thành tựu khởi đầu luôn khởi nguyên căn từ Đào hoa cách luận. Thí như khởi gốc từ vòng Trường Sinh tới giai đoạn Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan tới Đế Vượng. Vòng tác hóa khởi một vòng của tư tưởng cũng khởi phát theo nguyên tắc này. Do vậy thực tế, định cách của một thời vận trong thời gian chỉ một niệm rất ngắn đã phân đủ giai đoạn của Sinh Vượng Tuyệt tại ý niệm. Dài hơn là công danh một đời. Động lực là gốc cho việc cần hướng tới. Động lực khởi thường do Đào Hoa cách. Do vậy ngay khi khởi khí Trường Sinh, tiến khí chính là Mộc Dục, tức tư tưởng tham muốn của nhân mệnh sau đó mới chuyển sang hành khí của Quan Đới. Khi định cách lá số tử vi, nếu tham vọng bất kiến loạn, tức ẩn tính tham muốn vật dục, chuyên nhất vào mục tiêu lớn cách cũ đó thành cách. Thường hóa khí của tinh đẩu có tác dụng điều hướng thông qua tư tưởng của nhân mệnh ứng hợp với tính chất của Chính Tinh và phụ tinh hóa khí. Khi Cự Môn hóa thành Kỵ, trong tính chất của Cự Môn luôn hóa tồn nghi, lo sợ, loạn tâm về những vấn đề hình thành. Hóa khí Khoa Quyền Lộc tức dẫn hành khí tới về tư tưởng nghiên cứu, học hỏi hoặc xây dựng uy tín, quyền hạn, hoặc tích lũy, phát triển hướng lên khi dẫn cục. Hóa khí trong một quá trình tư tưởng có vai trò quan trọng để thành cách. Tuy nhiên tham muốn, tham vọng tức vị trí Mộc Dục của tư tưởng khởi phát trước vị trí Quan Đới có ý nghĩa quan trọng hơn rất nhiều. Lưu ý Mộc Dục người viết xét không nằm trên tinh bàn, chỉ quá trình vận hành của một vòng Trường Sinh ứng công danh khởi phát. Đây là điểm thường tương tự khi xét đoán khởi ý định cách tới như vòng Trường Sinh Bay của dòng Phúc Tông. Luận định về cực điểm của tứ tượng cũng không nằm ngoài suy vượng của khí hóa xét đương nhiệm. Thực tế, tính tất yếu sinh trụ dị diệt của toàn bộ khí hóa xét trong toán mệnh lý cần nắm rõ là điểm không thể tách rời với định cách độ số tử vi. 




Hung nhược bất hung, cát nhược bất cát điểm xét vượng suy khi phối hợp như âm hỏa đắc lợi rèn kim, hỏa vượng kim sắc, dương hỏa cực vượng kim chảy hóa thủy. Phàm bất quá thành hư nhược, phản tượng. Khí hóa của vòng Trường Sinh khi định cách của Đông A bản chất không xét định trên lá số tử vi, người viết đã có xét tại các lá số phát khởi thai tạo cùng ngày giờ tháng năm sinh, có đứa trẻ mang tai kiếp bệnh tật bẩm sinh, có thai sinh vừa khởi sinh đã lưu tới tử tuyệt. Vòng trường sinh của Đông A phái xét theo nguyên căn khởi gốc, có tính riêng biệt rất mạnh của mỗi nhân mệnh. Khi xét định Sát cách lấy vòng trường sinh khí hóa làm trọng, để luận định cát hung họa phúc. Một số người nghiên cứu tử vi có gửi tới người viết về những lá số chịu ác nạn của bệnh dịch hiện nay và xét định cách của đương số. Thực tế khi nghiệm lý xuất hiện có những sự tương ứng khí. Có nhân mệnh đang thời kỳ sự nghiệp rất mạnh, hành khí của đại vận cát hóa cường vượng, tiểu vận tương ứng khi xét Tài Quan cách mang ý nghĩa cát. Tuy nhiên khi xét gốc đại vận gặp Mã hội Lưỡng Lộc trùng phùng đại tiểu vận trong bố cục Cự Cơ Đồng. Thiên Di cung nguyên cục ngộ Sát Cô Hồng Đà Kiếp Bệnh. Một lá số nam mệnh đang làm chủ một doanh nghiệp lớn khi hội cách cục Mã Khốc Khách có Quyền Ấn trong tổ hợp Vũ Tham thành cách trùng phùng đại vận lưu về Tài cung gặp biến loạn bệnh ách. Thực tế phái Đông A khi xét khởi nghiệm lý rõ về tính khẩn yếu của Sát tỏa vận đồng khởi, từ vận làng, vận nước và vận thiên hạ có tính chất thấu triệt rõ ràng. Thí như quốc gia Ấn Độ khi đỉnh điểm dịch tới với khoảng 300 nghìn người mắc cũng như nạn diệt chủng tại Campuchia giai đoạn chiến loạn khiến khoảng 1/4 tầng lớp tri thức, tư sản của Campuchia tuyệt mệnh. Khi đó Khoa Quyền Lộc chỉ là cái áo bên ngoài, không thể vượt khỏi cương tỏa của Sát cục vận quốc gia. Khi xét tính chất của bệnh dịch covid-19 có điểm phát sinh là ngoài tính chất khu vực khi lây nhiễm xét nguyên cục hành vận sẽ chịu tác động lớn hơn. Thí như tại khu vực có khả năng lây nhiễm lớn, hành vận có Kỵ Hình Mã Kiếp hoặc Mã Khốc Khách hội Lưỡng Lộc trong thế đứng Cự Cơ Đồng hoặc Kình Mã Phượng khi hội vận Thiên Mã ứng cách phát sinh chuyển động phối hợp sao chủ Bệnh dễ gặp tình trạng bệnh tật khi di chuyển. 




Tại cách cục dịch chuyển ứng với tiếp xúc và truyền nhiễm bệnh. Qua khoảng 18 lá số nghiên cứu nghiệm lý mắc dịch bệnh có 10 lá số gặp cách cục chuyển động do Thiên Mã hội cách. Tuy nhiên khi nghiên cứu về mệnh lý nhập vận tử tuyệt số lượng chỉ 3 lá số. Trong đó 2 lá số hành vận có Thiên Mã hội Song Lộc trong thế Cự Cơ Đồng và Thiên Mã hội Quyền Ấn trong thế Vũ Tham. Hai lá số bất kiến Không Kiếp Kỵ Hình. Lá số thứ ba hành vận cách cục đắc cách may mắn Dương Lương cư Mão trong thế Âm Dương Lương có tính giao tiếp xã hội lớn. Tính khả  cứu của Dương Lương rất lớn khi hoàn chỉnh cách tuy nhiên do gốc Âm Dương Lương có tính xã giao, giao tiếp, Sát vận ứng vận làng tại vị trí địa lý sinh sống dẫn tới tai kiếp. Khi người viết đọc tin tức trên mạng, có trường hợp một gia đình có 9 người cùng mắc bệnh, trong 9 mệnh số này có người mệnh cách nhập hành vận bình hòa, bất hung, có thể có người đang lưu vận cát. Vấn đề nhiễm bệnh tại đây liên quan tới vận gia đình và tính chất của việc bệnh tật lây lan rất nhanh chóng khi tiếp xúc. Hạn bệnh tật liên quan tới sinh tử do nội thân tác động và do hoàn cảnh bên ngoài tác hóa. Có những nhân mệnh ăn uống không khoa học, uống nhiều rượu bia và hút thuốc tuy nhiên khi lão niên mới gặp vấn đề lớn tới sức khỏe. Tuy nhiên cũng rất nhiều nhân mệnh trong thế hệ thanh niên hoặc độ tuổi ban đầu của trung niên gặp ác bệnh trong cơ thể, các bệnh nan y như ung thư, tiểu đường, suy thận, xơ gan,...là những bệnh không thể chữa trị. Do vậy, thực tế trong nội cơ thể mỗi nhân mệnh phân định sai biệt. Kẻ gặp Tham ngộ Trường Sinh gia cát hay cách Đồng Lương đắc cách thường cơ thể sẽ có thể phòng chống được bệnh tật rất tốt. 




Một số nhân mệnh hạn tử tuyệt hiện trên diện tướng, tức tướng mạo đặc biệt tại vị trí ấn đường chủ Mệnh cung. Lại nhãn tướng biểu hiện. Suy xét khi nhân tướng tại tướng trạng hình tù pháp lý ứng hợp tính khả tín rất lớn. Tức diện tướng là nơi khí phát ra ngoài có thể dự đoán, huống tới nội khí trong luân chuyển tuần hoàn, khắc phá tương hợp có hữu tình hay không cũng phần dự đoán thời kỳ tiếp theo của nhân mệnh. Cách biểu thị nhân tướng để người đọc có thể thấu rõ hơn về toán mệnh tính dự đoán do sắc tướng là sắc, hiển lộ ra bên ngoài có thể dễ hình dung. Khi định vòng trường sinh khí hóa xét từ nguyên khí của tinh đẩu, sức cường vượng sai biệt. Như việc tướng quý, mệnh hỏa chủ vượng, tinh thần nhiệt huyết, thường cách cục dễ tạo nóng nảy dẫn tới tai họa. Khi hóa tú khí, nhân mệnh nhiệt huyết nghiêm chỉnh với lý tưởng đặt ra, tham cầu tới cùng. Xét đoán vòng Trường Sinh khí hóa, tức dẫn hóa của khí hình tinh đẩu có thể nhìn thấu triệt chủ khách khi định cách. Thí như một trường hợp, nam mệnh trong trường hợp chủ động thực hiện hành vi buôn bán chất cấm, khi bị bắt chịu xét xử hình pháp tử hình. Khởi của Mộc Dục tại đây, hay tham muốn của cách cục là lợi nhuận, tiền bạc. Bố cục liều lĩnh ắt thiếu Khoa, Xương Khúc trừ một số trường hợp rất đặc biệt có Văn tinh hội củng, tuy nhiên xét cách cục thường xảy ra nằm tại Hình Kỵ hội chiếu. Khởi vòng Trường Sinh, ý niệm là tài phú, phương cách hoạt hóa là quyết tâm ắt Sát Kỵ phải hội họp để định cách cục này. Trường hợp này, mệnh cách dẫn hóa là Chủ. Trường hợp một nam mệnh trong tình cảnh nợ nần áp lực rất lớn, phát khởi tham muốn kiếm tiền nhanh chóng để trả nợ vay lớn, mệnh cách dẫn nguyên cục là Khách. Khởi nguyên căn ban đầu thực hiện một hành động chính là khởi của một vòng Trường Sinh khí hóa. Khí hóa này cực vượng, có thể hóa toàn bộ thiên địa nhân, cơ định xung quanh phải theo nó. Khi nghiên cứu trên mạng thông tin, có bài báo người viết đọc được liên quan tới việc tác động của tâm thức khiến xoay chuyển về nhân duyên hoàn cảnh để thúc đẩy tham muốn của bản thân. "Khi mong muốn mãnh liệt sẽ khiến thế giới xung quanh hợp lực xoay quanh bản thân". Vòng trường sinh khí hóa của Đông A Phái xét nguyên khởi từ gốc nội tâm này. Thứ như xét định cách chế dụng của Sát cách cũng mang tính biến hóa từ nguyên căn trên. Vị trí Mộc Dục của tư tưởng có tính thiết yếu để định cách của vòng trường sinh khí hóa. 





Giai đoạn năm 2005, người viết có nhớ về một nữ mệnh với cách cục Vũ Phá Kình Kiếp. Trong thời điểm này, nữ mệnh lên thành phố Hà Nội và làm rất nhiều công việc nặng của nam giới để kiếm sống và chưa trị cho bệnh của mẹ nữ mệnh bị tai biến, cả dòng họ đều ở vùng nông nghiệp. Bản thân người viết có điều trị ở cùng nơi thời điểm này với mẹ của nữ mệnh. Bệnh tình mẫu thân trở nặng và có hỏi về cuộc đời của nữ mệnh sau này có được ổn định vui vẻ hay gặp nhiều sóng gió. Xét đoạn về nhân tướng, diện tướng lưỡng quyền cao, mắt nhạn, ngưu tỵ phối hợp. Khi xét luận về lá số, định cách cục Vũ Phá Kình Kiếp này, thành bại yếu tố chính do cách cục Phá Quân hội Kình Dương. Sau đó có hỏi nữ mệnh về dự định thành gia lập thất sớm tại quê nhà hay đi xa làm việc ? . Nữ mệnh đáp sẽ rời bản xứ tới đây để tạo lập sự nghiệp, trước lập thất sẽ tạo dựng tài sản và khi ổn định sẽ kết hôn. Xác định khí hóa của Vũ Phá Kình khi nhập hành vận này, phát sinh hai khuynh hướng do hành hóa vượng nhược biểu hiện khí ra bên ngoài sẽ phát sinh lựa chọn sai khác. Khi nghe bộc bạch của nữ mệnh, biết rõ nữ mệnh không nói lời phiếm. Sau khi người mẹ khuất núi, nữ mệnh tiếp tục ở lại lao động. Tới năm 2007 người viết được biết đã tạo lập một doanh nghiệp về chế biến vật liệu xây dựng, năm 2011 đã trở nên rất giàu có khi nhập vận VCD có Cự Nhật nội cách hội Lưỡng Lộc sau đó lập thân với một doanh nhân của Pháp. Khí hóa của Kình Dương hiện tướng ngưu tỵ thường khi hóa nguyên cục thành cát. Vũ Phá Kình tượng hóa nữ cường, thực tế bất kiến Hóa khí, với mệnh nữ vẫn có thể bạo phát lớn chỉ dụng cầu Không Kiếp thành cách. Khởi niệm của nữ mệnh rơi vào thời điểm biến cố loạn động của gia đình ứng với Tử Vũ Liêm hội Sát Phá Tham là cảnh bế tắc, Sát cách dẫn hóa cực vượng bởi khởi một niệm cương quyết, tạo dựng và phát triển tại đây. 

Monday, August 2, 2021

Tướng trạng của tinh đẩu trạng thái hóa khí

 Tướng do tâm sinh. Thực tế khi xét đoán tướng số là giai đoạn tương ứng hành khí của tinh đẩu. Lộ tướng và ẩn tướng do tư tưởng sinh khởi của nhân mệnh phát sinh cũng dự đoán một phần giai đoạn hoặc cuộc đời của đương số. Luận đoán tử vi hay tứ trụ cũng thường xét sắc tướng để định về vượng suy của nhân mệnh qua thời kỳ và tính cách của nhân mệnh. Người nghiên cứu tử vi thời gian dài thường thấy tương quan của diện tướng và năng lực, khả năng hoạch tài hay phát quan vị của nhân mệnh trong thời điểm xét đoán. Hành vận thay đổi tương tục, diện tướng cũng xoay dịch theo thời vận không sai khác. Có những ẩn tướng khi hiện lên báo hiệu tai họa tới rất gần, có thể hạn sinh tử của mệnh cách. Qua cử chỉ, phong thái, diện tướng cũng xét khởi một phần tính cách hay bản tính của mỗi người. Tương kiến khi nhìn người, chọn người và dự đoán về năng lực, trình độ, khả năng hoàn thành công việc. Dự đoán về nhân tướng có tương quan rất lớn với tử vi. Tướng trạng các sao trong tử vi tương ứng mà tạo nên sự tương hợp của định hành vận và xét diện tướng. Thường người nghiên cứu tử vi hiểu được Thiên Lương là "Ấm", Thiên Đồng là "Phúc". Chữ Ấm có các đặc tính cơ bản bởi tính nhân quả lành. Tập ấm, thừa ấm. Tính chất tập ấm cao là ấm thọ, thứ tới ấm sinh của tử tức quan lại trong triều đình. Thiên Lương do đặc tính cơ bản trên, đắc cách thường chủ được thừa hưởng, tiếp quản công sức của phụ mẫu, gia tộc. Chữ "Ấm" chủ mang lại rất nhiều ý nghĩa hay. Với chữ Phúc có đặc tính chủ được hưởng, thừa hưởng từ nội lực của bản thân và xét tới may mắn gặp thời vận nhiều hơn thừa hưởng từ phụ mẫu tổ tiên. Thiên Đồng luôn ở vị trí tam hợp chiếu với Thiên Cơ càng rõ tính chất may mắn, phúc phận gắn với thời cơ. Thiên Lương có thể giao hội với Âm Dương hoặc giao hội với Cơ Nguyệt Đồng thành cách Âm Dương Lương và Cơ Nguyệt Đồng Lương. Thiên Lương và Thái Âm luôn tam hợp chiếu, bên cạnh Thiên Lương sẽ có tính âm thầm che chở của Thái Âm. Do bố cục của tinh bàn, thế đứng của Thiên Lương sẽ tránh được sao Cự Môn. Thiên Đồng trong trường hợp Cự Cơ Đồng sẽ hội Cự Môn. " Công danh đợi tuổi tác cao, giáp Liêm giáp Sát một hào chẳng sai" là cách của Thiên Lương Sửu Mùi. " Lương tại Tị tắt tật du" xét Thiên Lương tại vị trí Tị. 




Thực tế khi xét định phú luận không nằm ngoài tính chất cơ bản khi phát sinh biến hóa của Thiên Lương. Trong cách Âm Dương Lương, đặc biệt khi Âm Dương lạc hãm hoặc đồng cư tại Sửu Mùi. Nếu mệnh cách ở vị trí Thiên Lương sẽ dễ tăng thêm khuyết điểm bởi tính thụ động, hưởng thành quả từ nhân quả lành trước mang lại. Ấm giám là công ơn của quan phụ mẫu được học Quốc Tử Giám. Chữ Ấm khi phát sinh biến cục sẽ khiến nhân mệnh khởi cách giải đãi, dễ hoàn cảnh mang lại tốt, hoặc nội tâm không đặt tham vọng lớn lao khiến giai đoạn tiền vận khó khăn trắc trở. Trong thời loạn lạc, hay thời vận bĩ cực của vận thiên hạ như chiến tranh, bệnh dịch. Cách cục của Thiên Lương và Thiên Đồng càng thể hiện rõ tính phúc ấm của nhân mệnh gặp may mắn. "Phúc ấm tọa Mệnh Thân bất phạ tai ương". Khi nghiệm lý về các cách cục của Thiên Lương hay Thiên Đồng nhập mệnh cung, hội họp Sát Kỵ giao hóa đều có những tai ách và giải cứu vô hình, may mắn tới phù trợ giúp nhân mệnh thoát khỏi hiểm nguy. Xét về diện tướng, Thiên Lương nhập mệnh phân trường hợp độc tọa và đồng độ. Với cách Cơ Lương chủ tướng mạo có phần hiền hòa, nhìn Cơ xét tới lông mày, ắt chủ cong, đặc biệt tại đầu chân mày, Lương chủ hạ đình có phần rộng, tướng mạo thường có nét vuông. Với cách Dương Lương cư Mão chủ mắt có thần sắc, tướng mạo chủ dương. Khi nghiên cứu nghiệm lý lá số tử vi, cần lưu ý tính chất quan trọng của Chính Tinh phối hợp định cách tại Mệnh, cũng tức diện tướng khởi của mệnh tạo. Dẫn tới một kết quả tương đối có ý nghĩa khi người nghiên cứu tử vi thường có khả năng xét đoán tới nhân tướng. Tướng pháp của nhân mệnh còn có thể sử dụng khi xét về chức năng ngũ tạng trong nội thân, bệnh tật tương ứng phát ra bên ngoài. Dịch bệnh gọi là covid-19 lây lan qua các biến chủng mới xuất hiện càng có tác động biến hóa mạnh, tiến hóa về đột biến. Thứ phát triển đột biến cũng chính là ý nghĩa tác hóa của Sát cục. Biến hóa thay đổi triệt để là tác động không hay đối với con người, tuy nhiên với bản thể virus mang ý nghĩa có lợi khi thích nghi và lây lan nhanh hơn. Sự thay đổi và đột biến của những điều tai họa, tai kiếp là điều đáng lo ngại nhất, tương ứng với tính chất của chính lục sát tinh Kình Đà Không Kiếp Hỏa Linh với đột biến không ngờ Thiên Không Địa Kiêp dẫn hóa. 




Tính chất thay đổi là tính chất quan trọng của Sát tinh, dẫn hóa bởi Kình Hao và Đà Hao. Tính chất linh hoạt hay cường động là nguyên căn cho sự thay đổi đột biến dẫn hóa hởi Hỏa Tinh và Linh Tinh. Nếu căn bệnh do virus này không phát khởi biến thể đột biến nhanh chóng, hoặc không có tính lây lan, tấn công đa dạng nhiều nguồn lây thì không là mỗi tai họa lớn. Bằng chính bản chất hoạt động của virus, ta nói virus có khả năng đột biến, biến hóa nhanh. Bằng chính bản tính của một người, ta nói người đó có khả năng hoạch phát mạnh. Thời kỳ của Lộc Tồn hay Lộc Tướng Ấn có tính chất đã biến hóa sai biệt rất nhiều so với thời kỳ lịch sử giai đoạn phong kiến, quân chủ chuyên chế. Thời kỳ hiện tại là giai đoạn của sự thay đổi, dời đổi nhanh chóng. Sự đột biến của một nhân mệnh có thể tới rất nhanh và tạo ra tài sản khổng lồ qua internet kết nối vạn vật so với kinh thương truyền thống, điều này qua nghiệm lý cũng xuất hiện rất rõ qua các lá số nhân mệnh có tuổi đời rất trẻ . Sự táo bạo của Sát tinh tạo ra thời cơ rất lớn cho nhân mệnh trong giai đoạn lịch sử hiện tại so với nhiều thời điểm trong quá khứ bị hạn chế bởi quyền lực trong hệ thống địa vị xã hội. Cơ hội vẫn nằm ở đó, rất nhiều trong một không gian rộng lớn mà mỗi người tiếp cận rất nhanh gọi là không gian mạng. Nơi tập hợp cơ hội rất nhiều, và người mệnh số gặp thời vận, cách cục hành vận hoạch phát vẫn nắm được thời cơ tại đây để tạo đột biến kích phát, người vận bình hòa vẫn không nắm được một cơ hội. Cự Môn hội Lưỡng Lộc vẫn luôn tìm kiếm những tri kiến, kiến thức chuyên sâu từ internet và dễ có thêm khả năng học thêm ngôn ngữ mới là tiếng anh do nghiên cứu chuyên sâu của quốc tế sử dụng ngôn ngữ này là phổ biến. Tính chất thích nghi là yếu tố cốt lõi để định cách tổ hợp Sát của thiên bàn. Không Kiếp là thế bĩ của thời vận, nếu ứng hiềm cách cục thích nghi ắt là thượng cách, có tính chất cát hóa biến hóa vô cùng. Thuộc kỳ cách. Kình Dương và Đà La rất quan trọng. Bốn nhóm sao an theo Thiên Can gồm Lộc Tướng Ấn, Kình Hao, Đà Hao, Thanh Phi Phục tượng cách như tổ hợp phân bố của Chính Tinh tới 12 cung độ. Không xét tính chất khuyết thiếu của tinh đẩu, đều có khả năng tạo hoạch lực đứng đầu xã hội tùy dụng thể hay bất dụng. 




Sự biến đổi phù hợp với thời vận không chỉ là cách Kình Hao, còn chính là cách Đà Hao. Khi rất đông số người đầu cơ nhà đất giai đoạn 2007 đến 2008 sau đó kinh tế suy yếu đã có nhiều gia đình rơi vào cảnh khủng hoảng, vỡ nợ. Trong thời điểm đó. Nếu Đà Hao suy tính cặn kẽ, có tính chờ đợi không táo bạo cướp thời cơ như Kình Hao, có lẽ giai đoạn về sau khi kinh tế phục hồi sẽ tạo nên khối tài sản lớn mang ý nghĩa hay hơn Kình Hao. Bốn nhóm sao chính an theo Thiên Can đều có đặc tính cát hóa hoặc hung hóa phù thuộc vào bố cục tinh đẩu hội họp. Trạng thái của nhóm sao này khi gặp Hóa Khí sẽ hình thành nên tổ hợp sao có tác động kích phát mạnh khi bộc lộ ưu điểm hoặc khuyết điểm của cách cục. Trong trường hợp nhóm Lộc Tướng Ấn, Hóa Lộc hội họp tác động trực tiếp tăng cường tính chất tích lũy, phát sinh lộc tại trong nội tính chất, do vậy cách cục Lưỡng Lộc hay Song Lộc có tính chất lớn mạnh. Với Đà La, khi Hóa Kỵ hội cách trực tiếp tăng cường tính chất âm tàng, thu ám và hình thành tính chất lớn mạnh. Với Kình Dương, khi Hóa Quyền hội cách tăng cường tính quyền biến, uy áp, quyết đoán của Kình Dương khiến cách cũ ý nghĩa tăng mạnh khi hợp hóa. Với nhóm Thanh Phi Phục, tính chất điều hòa, phục khí khởi từ tan rã tức Phi Liêm tới hoàn lại Phục Binh và tiến khí Thanh Long hội cách Hóa Khoa ứng hợp tính chất mạnh. Thanh Long đứng đầu nhóm sao này chủ thanh danh, danh tiếng. Phân định sâu bên trong của bốn cách cục này là cả một nghiên cứu dài. Khi hóa khí hội cách cùng nguyên cục nhóm sao riêng rẽ này sức tác hóa sẽ lớn mạnh hơn rất nhiều. Trong đó nhóm Lưỡng Lộc sẽ thường mang ý nghĩa tốt chủ phát phú, đắc danh lợi, khả năng tích lũy, thịnh vượng. Đà Kỵ sẽ thường mang ý nghĩa không mấy hay chủ cản trở, khi tốt đẹp hưởng chữ kỳ tài, ẩn sĩ, mưu lược. Khi người nghiên cứu nghiệm lý tiếp theo về các vị trí hình thành Lưỡng Lộc hay Đà Kỵ của các thiên can sẽ xét định từng Thiên Can với các vị trí đặc biệt hình thành cách cục này. Với can Giáp, Lưỡng Lộc chỉ xuất hiện khi Liêm Trinh cư tại ba cung Dần Ngọ Tuất. Tại bố cục này, Song Lộc hội nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm có thêm Khoa. Cách cục Khoa hội Lưỡng Lộc có lợi với can Giáp rất lớn. Tại can Ất, cách cục Song Lộc hóa khí từ Thiên Cơ hình thành khi mệnh cách gặp nhóm Cự Cơ Đồng tại Hợi Mão Mùi. 




Trong trường hợp này, cách cục thường theo khuynh hướng chuyên môn kỹ thuật cao, trình độ sinh ra tài lộc. Thường gặp mệnh tốt tại cách Cự Cơ cư Mão ngộ Lưỡng Lộc. Cách cục Kỵ Đà hình thành bởi Thái Âm cư tại Dần Ngọ Tuất. Trừ tại Tuất cung có phần tốt các cách cục còn lại mang ý nghĩa không mấy hay. Xét định gốc niên can sẽ hình thành nên các thế đứng cơ bản của tinh bàn dựa trên hóa khí phối hợp chính tinh và nhóm sao an theo Thiên Can. Phàm khi hội Lưỡng Lộc thường là vị trí đắc thời, tại cách Đà Kỵ dễ có cản trở, khó khăn. Đây là điểm cần chú trọng khi xét định cách cục theo nguyên cục. Nếu hội Không Kiếp hay Hình Sát tại cách cục đều là cách chủ hung. Trong trường hợp này, hành vận sẽ có tác động cát hóa nguyên cục, nếu vận hung thì mệnh khó thành tựu, hạn hành trùng phùng Sát Kỵ, dễ tuyệt mệnh. Trong giai đoạn dịch bệnh lan truyền nhanh, việc hiểu biết và phòng tránh tức Hóa Khoa hay Xương Khúc và Tuần Triệt là điểm quan trọng. Luận khán sinh tử vận là phần luận thường sai biệt rất lớn khi định số. Người viết có cơ may được tiếp cận với một số thai nhi sinh khởi ở tại bệnh viện mắc bệnh di truyền bẩm sinh hoặc một số bệnh tật nặng khác khiến nhân mệnh không thọ trường, tuyệt khí. Cũng trong thời điểm này, các thai sinh khác cùng giờ sinh bình thường. Khai thị vấn đề này, khởi vận cổ nhân truyền lại tính nhân duyên với phụ mẫu. Đa phần các trường hợp sinh khởi bình thường khi xét định lá số tử vi sẽ khán được hạn quá khứ và dự đoán nguyên cục cát hung xét phú, quý, bần, tật, thọ, yểu. Như cách cục Sát Kỵ trùng khởi mệnh và niên vận thứ nhất, xét hạn sinh tử khảo cứu cũng không có tác dụng rõ nét do những sự cố sau khi sinh được y thuật tiên tiến hỗ trợ rất nhiều trường hợp tránh được hạn tử tuyệt. Cổ nhân xét định phần định cách tính chất sao thường luận "Phi yểu tắc bần". Tức mệnh số khí hóa gốc cường vượng không gặp yểu cách thì sẽ bần hàn. Không nên nhầm lẫn bởi Sát cục có thể tạo đột phá lớn tới sự nghiệp, cuộc sống của nhân mệnh tuy nhiên tính Sát liên quan tới bổn mệnh luôn tương động rất rõ. Người viết có người họ hàng ham mê về cờ bạc, dẫn tới tham gia trên mạng thua hết gia sản, số tiền có thể tham gia chơi rất lớn và cách thức chơi không quá khó khăn. Rất nhiều nhân mệnh có khuynh hướng tuyệt mệnh khi mắc phải khoản nợ lớn khi tham gia đỏ đen dẫn tới cuộc sống về sau chuyển hướng hoàn toàn. Không gian kết nối mạng có thể phát sinh những tri kiến, những công việc kinh thương tạo giá trị tài sản rất lớn, cũng có những điều mạo hiểm khiến nhân mệnh có thể thất bại hoàn toàn. Lâm "tứ đổ tường" rất phức tạp, đặc biệt về cờ bạc có thể khiến mệnh cách tiêu tán sản nghiệp nhanh chóng. Trong những vấn đề trên, thường hình thành tại mệnh cách có Thiên Diêu hội nhóm Tang Hư Khách, hoặc hội Hỏa Linh trong cách cục Diêu Kỵ hay Diêu Đà. Tác hóa của tham muốn trở nên loạn động lớn khi tham gia cờ bạc, khiến đa phần mệnh tạo dần trở nên mạnh bạo, mạo hiểm đặt cược số tiền rất lớn sau một thời gian và tạo nên khoản nợ rất lớn. Tướng trạng cách cục Diêu Hỏa Linh có thể gây ra tai kiếp với Tài cách nhiều hơn cách cục Kỵ Kiếp Hình. Đây là điểm rất quan trọng khi luận cách cục định Sát cách. Tại một địa điểm đặc biệt, thí như chịu áp bức lớn, cách cục Khoa Quyền Xương Khúc có thể không tốt đẹp bằng Kình Hổ. Cũng vậy, khi xét định khí hình vận tức tướng trạng thực điểm của tinh đẩu trong thời điểm xét định là điểm quan trọng để định cách cục. Bản chất của tổ hợp cần xét đắc dụng với thời hay không, nếu đắc dụng như vị thế của cung Điền Trạch trong giai đoạn đất đai tăng giá mạnh, cũng là cách Tài vượng.