Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Thursday, November 1, 2018

Tài cách đắc cách và thành tựu cách.


Trong huyền học mệnh lý và ứng với Âm Dương Ngũ Hành ngoài thực, vạn vật luôn tồn tại những quy luật tất yếu ảnh hưởng từ bên ngoài vô tri tới bên trong tư tưởng tâm trí. Tư tưởng nội tâm cũng gặp thăng trầm, nhiệt huyết hoặc bế tắc, tuyệt vọng. Quy luật về Sinh Vượng Suy Tuyệt và bản thể Không ấn trong toàn thể vạn vật không đổi. Trong bài viết này người viết luận về Tài Cách với định Sát cách của Đông A phái, do đó phần luận phức tạp hơn khi định cách về tổ hợp cơ bản của tinh đẩu. Một cuộc đời người bình thường kéo dài khoảng 80 năm. Sự tồn tại của quốc gia kéo dài có thể ngàn năm. Sự tồn tại của thiên địa có thể rất dài. Tuy nhiên đều phải trở về trạng thái của Không là giai đoạn tuyệt. Trong Không cách rất mạnh về thể hình, tuy nhiên bài viết chú trọng ở phần định Tài cách của các cách cục mệnh tạo. Vạn vật vượt trội hơn đồng dạng khi ở giai đoạn bộc phát. Vạn vật đã tồn tại luôn có thế khó khăn, bế tắc tức là tính chu kỳ, thăng trầm bao gồm cả tư tưởng và nội tâm. Người thường ở bất kỳ vị trí, địa vị, quyền hạn, tài bạch, đều luôn có thế khó khăn, bế tắc trong một giai đoạn cuộc đời tức nội tâm ở thể loạn. Không có trường hợp tất cả thời cuộc sống đều an ổn, hoan hỉ thực sự do gắn liền với quy luật tất yếu ngoại thể tức Thân là lão, bệnh, tử. Quy luật tất yếu nội thể là tư tưởng thăng trầm, thái bĩ, ổn định, loạn động. Khi định lá số Tài cách cũng không nằm ngoài các giai đoạn trên. Vạn vật là dịch biến, vô thường tức tính động tương tục. Tài cách cũng vậy. Trong giai đoạn tích lũy tài sản ứng với khả năng, tài năng kinh thương là chủ luận bố cục Tài cách. Cũng là khả năng nhận biết, định rõ về kinh thương trao đổi. Tài cách tối quan trọng ở tính tích lũy. Ở thể quan trọng là bộc phát trong hai chữ vượng suy. Khuynh hướng của Sát cách là nghịch truyền thống. Do đó đứng đầu trong Lục Sát Tinh là cặp Không Kiếp. Đứng đầu trong Sát tính là Hóa Kỵ. Thành tựu phát phú là ở dụng thời cơ. Trước đó thăng trầm, bĩ thái xoay dời được luận là đời thời cơ. Thời hiện đại khi luận một giai đoạn thường gọi là bong bóng trên thời sự hay báo đài. Kinh tế gắn với tiền bạc. Trong vạn vật hay sự việc tất cả luôn có thịnh suy qua thời giai đoạn. Có điểm cực vượng và điểm suy. Sát cách định hóa cho giai đoạn cực vượng là khí thịnh. Sát cách định hóa cho giai đoạn cực suy là khí tuyệt. Giai đoạn bộc phát là gốc của bố cục Sát. Cũng do tính chất này khiến Sát tinh đa phần luận mang ý nghĩa tai kiếp, bại cách, yểu vong. Tuy nhiên cổ nhân nghiệm lý các cách cục tử vi mệnh quý đa phần không ngoài Sát cách dụng hóa. Hiện nay thông tin được lưu truyền kết nối khắp thế giới với rất nhiều những nghiệm lý thực tốt về một mệnh cách đứng đầu xã hội hay về mệnh yểu tử. Cũng như vậy với các thông tin giai đoạn dài về kinh tế rất rộng. Việc mang lại lợi ích rất lớn khi một giai đoạn được thống kê thành hình vẽ qua thời gian biểu hiện tính thăng trầm của toàn bộ quá trình nghiệm lý. Ngay cả những biến động về sự phát triển kinh tế đất nước, biến động về giá của vàng bạc, cho tới biến động về những vật phẩm, cung cấp và nhu cầu. Hoặc các cơ hội, thời cơ tới trong một giai đoạn của cuộc đời. Cả về giai đoạn bệnh tật, thời gian may mắn, đen tối không may. Biểu hiện là tính toán thống kê con số, thời cơ, là sao Thiên Cơ. Cuộc đời là sự thăng trầm, đột biến. Thí như mệnh cách đắc Tài cách tại vận từ thất thập hoạch phát không luận là mệnh phú. Cũng mệnh đắc Tài cách tuy nhiên đại vận thứ hai nhập cách cục vong mạng không là mệnh phú. Trong giai đoạn trưởng thành tới trung niên thành tựu Tài cách là mệnh phú. Đây là điểm quan trọng tránh luận sai lầm khi mệnh cách tốt tuy nhiên vận hành giai đoạn đầu và trung niên bất hợp. Cũng vậy khi luận Mệnh tạo phát tài quan trọng nhất ở tính chất sai khác với mệnh thường. Như một trường hợp có luận mệnh cách.




 Trong kinh thương mua bán có điểm bộc phát và thoái trào. Một giai đoạn ổn định dẫn tới kích phát và thoái lui hoặc lao dốc. Trong tất cả trường hợp khi bộc phát càng mạnh thoái trào cũng vậy. Đây cũng là đặc điểm tính " Hoạch phát hoạch phá tựa thì sấm ran". Một trường hợp không may như bệnh tật, lại thêm tán tài, gia đình suy dốc là điểm bộc phát của việc không may. Với may mắn như việc được tiền của, lại thêm được trợ giúp đắc lực, thân thể vô bệnh. Bố cục điểm kích phát Tài vượng, ứng thể tích lũy khí hình mang tính chất cốt tủy định Tài cách. Kẻ linh hoạt đa năng nắm bắt được thời cơ. Mệnh cách tham muốn lớn như cách Tham Hỏa Tồn tạo ra những cơ hội. Tham muốn là gốc của tích lũy Tài cách. Trong một giai đoạn dài nỗ lực, tích lũy tăng dần sẽ đạt tới giai đoạn bộc phát. Cũng với Tài cách luôn xảy ra những giai đoạn hoạch phát và hoạch phá, hiện nay gọi là bong bóng. Khi sự việc đẩy lên đỉnh điểm luôn tạo ra sụp đổ, dần trở về trạng thái ổn định. Người nắm được quy luật tuy căn bản nhưng sức diệu dụng lớn. Đa phần kẻ mệnh thường gặp giai đoạn ban đầu đổ xô như quần chúng. Điền trạch đất đai là việc thấy rõ. Trong các giai đoạn do đồn thổi hoặc nhìn thấy lợi ích lâu dài dẫn tới hết thảy tập trung kinh thương đầu tư vào đất. Dẫn tới việc giá trị thực lên nhiều lần trước khi nhìn thấy được thành quả. Sau đó là giai đoạn chững lại và đa phần mọi người tín với kết quả tốt đẹp cho tới khi theo quy luật vượng suy. Trong giai đoạn giá tăng dần luôn gặp những tin tức thông tin tốt đẹp, những lời đồn đoán lan rộng cho tới khi giá xuống tạo loạn động. Trong dịch lý, tích lũy là giai đoạn ổn trọng phát triển, tới điểm chuyên nhất là Vượng. Suy thoái là giai đoạn bắt đầu loạn động tới Tuyệt. Rất nhiều những sự việc có quy luật trên, vạn vật sau đủ thời gian tích lũy sẽ tạo nên đột biến và suy bại ngay sau đó. Kẻ mệnh đắc Tài cách là kẻ may mắn hoạch phát giai đoạn đầu và tránh được suy bại. Kẻ thành tựu Tài cách là kẻ nắm rõ được các giai đoạn để tạo lợi ích cho bản thân.  Như việc kinh thương, khi lợi ích giá ở giai đoạn ổn định tới hoạch phát đột biến tăng giá trị cường vượng lớn. Cũng khi quần chúng chạy theo thì bản thân giữ tâm ổn định suy xét. Cũng vậy, đa phần nhân mệnh cách cục bình thường khó tích lũy được tài sản lâu dài, thường sử dụng để phục vụ các mục đích của bản thân nhu cầu. Đây là giai đoạn tán tài. Cách tích lũy là Lộc Tồn. Tích lũy để sinh tài là Lưỡng Lộc hay Song Lộc là cách cục mạnh của Tài cách. Cũng do tính cấp số nhân của tích lũy khi bộc phát nên phú sinh do cách cục này. Lộc Tồn mang ý nghĩa khác với Hóa Lộc. Khi định cách sơ lược thường chưa chú trọng tới tính chất của hai tinh đẩu này. Tuy nhiên khi định cách cục trợ cách cần rõ xét toàn cục. Lưỡng Lộc tốt là tích lũy theo cấp số nhân. Lộc Tồn tốt là tích lũy được tài sản hoặc do dành dụm. Do đó Lưỡng Lộc là cách cục kinh thương. Cách Lộc Mã giao trì cũng mang ý nghĩa này do gặp sao Tang Môn chủ giữ. Thiên Mã có tính động. Nếu luận cách cục không rõ tính chất tổ hợp khi xét bố cục sẽ gặp sai lầm. Thực tế phú quý, đại phú cũng do tư tưởng hành động hình thành. Nhanh nhạy của Tang Hư Mã là tính chất tốt trong kinh thương.




Trong một giai đoạn sốt sắng thì sau sụp đổ là giai đoạn giá trị có thể ở dưới mức ban đầu do số đông không còn nhu cầu như thời kỳ đầu, cũng dễ gặp sai lầm do tâm loạn động, khủng hoảng. Cách cục khủng hoảng về tài sản là Vũ Phá, Vũ Sát khi Tử Vũ Liêm hội Sát Phá Tham. Đặc biệt cách Vũ Sát do nhầm lẫn dẫn tới phá cách. Hoặc khi Lộc Tồn hội Không Kiếp Đào trong bố cục Cự Cơ Đồng. Mua rẻ bán đắt là cách cục Song Hao khi tốt đẹp tức có Kình Hao hoặc Đà Hao. Thiên Cơ chủ tính toán hội cách cục này giao lai Tài Cách cường vượng chủ phát phú. Như tính toán về Điền Trạch sự phát triển giao thương, tập trung buôn bán, nhu cầu tăng lên khiến giá tăng. Khi định trợ cách chế hóa Sát trong Tài cách tùy bố cục sai biệt tính chất khác nhau để luận. Trong mỗi mệnh tạo cuộc sống trung bình đều có thể tích lũy số tiền dựa thời cơ tạo hoạch phát. Tham Hỏa Lộc tốt do lòng tham muốn lớn về vật chất tới tiền bạc mãnh liệt. Lưỡng Lộc tốt do tạo ra của cải dựa trên số tiền đã tích lũy tức theo lũy tiến. Vũ Phủ Lộc Tồn mang ý nghĩa sự quản lý kho tài sản lớn. Các cách cục khi luận định cách rõ thì xét tới trợ cách tới tùy chính tinh thủ mệnh, cách cục khuyết thiếu. Cách cục Vũ Sát Hóa Lộc khi định Tài cách phòng ngừa việc thiếu quan sát, nhầm lẫn dẫn tới phá tán. Tướng Không Kiếp chủ hoạch phát do tương trợ tuy nhiên cũng thường hoạch phá. Tài cách cũng sinh do đóng góp, vị trí đảm nhiệm hình thành công trạng. Tài Quan thường tương hỗ trong nhiều trường hợp. Tử vi không nằm ngoài thực tế do mô tả dự đoán về nhân mệnh ứng với xã hội. Cũng không còn chức tước công khanh, tam thai. Cần rõ tính chất cơ bản và biến hóa ứng hợp của cách cục.


Wednesday, October 3, 2018

Niềm vui và tài danh trong cuộc đời.




Quy luật lão bệnh là thường của nhân mệnh. Rất cảm ơn những đạo hữu đã hỏi thăm sức khỏe của người viết. Có một số hỏi đáp người viết tới hộp thư nhiều ngày nhưng chưa thể giải đáp kịp thời hoàn toàn mong được thông cảm. Quyền là khả năng định đoạt của mỗi mệnh cách tùy vị trí gánh vác đảm nhiệm hoặc khả năng chi phối của bản thân. Quyền luôn hàm chứa Sát tính, phát khởi do tham muốn để giữ vững phát triển. Quyền tồn tại là gốc thâm sâu của bản tính. Quyền lực, quyền hạn là do phát triển. Trong tử vi hóa khí của chính tinh thành Hóa Quyền biểu hiện rõ nhất về tính chất. Quyền hạn liên quan tới vị trí xã hội, vị trí nhiệm vụ trong xã hội của mệnh tạo và phát khởi một phần do khuynh hướng của xã hội. Quyền căn bản là tồn tại. Quyền hạn lớn nhất là lệnh sinh sát với nghĩa nghịch. Tứ Hóa gồm Khoa Quyền Lộc Kỵ không chỉ biểu thị bởi hóa khí trực tiếp của chính tinh hay trợ tinh mạnh Xương Khúc Tả Hữu. Toàn cục các tinh đẩu đều phân ý nghĩa của Lộc Quyền Khoa Kỵ. Vạn vật do xung đột khởi nguyên của phát động biến chuyển. Vàng tính trường tồn do ít biến động. Tiền hay vàng là thứ trao đổi, thực hiện khởi nguyên chuyển động. Lộc chính là lợi lộc, có tính thu về, giá trị trao đổi. Lộc có động thì thành kim tiền. Do đó Lộc Mã giao trì mang ý nghĩa tài sản là vậy. Quy ước chung trao đổi không mang tính cố định, thực chất cũng chỉ biến động do chính nguồn cung cấp và tham muốn, cầu của con người. Tiền của một đất nước suy yếu không còn nhiều giá trị như ban đầu. Tiền của đất nước vững mạnh có giá trị rất lớn. Cũng vậy, vũ khí trong giai đoạn hòa bình không có trị giá lớn như trong giai đoạn chiến tranh. Lộc Mã giao trì đắc cách là kẻ mua rẻ và bán đắt hoặc giữ lại giá trị lâu dài. Thực phú định cách cục có phần ngôn từ hán nghĩa nên có phần tượng trưng. " Lộc Mã giao trì phát tài viễn quận". " Lộc Mã giao trì chúng nhân sủng ái". " Thiên Lộc Thiên Mã tối hỉ giao trì". Lưu ý cách cục này thực tế là bố cục Tang Hư Mã giao hội Lộc Tướng Ấn mang ý nghĩa phối hợp rộng. Phú cách hay Tài cách thực tế là cách cục của dịch lộc. " Tử Phủ Kình Dương tất cự thương". Bố cục này khi dụng Tài cách mang ý nghĩa kinh thương, có tính đại diện tổ chức. 





Các cách cục Tài cách phân rõ về bản chất, cũng như các chính tinh hóa khí thành Hóa Lộc mang ý nghĩa riêng biệt. Người luận tránh định cách sai thì xét bố cục khó khăn. Như bố cục Lộc Mã giao trì phân Hóa Lộc và Lộc Tồn tính chất khác nhau hoàn toàn. Cũng không chỉ các sao mang tính chất tài sản định Tài cách. Tham Hỏa đồng độ là cách cục đặc biệt mang ý nghĩa tham muốn vật chất, lấy kim tiền làm động lực do tính trao đổi mặt giá trị. Đặc biệt Tham Hỏa hội Tam Không có Tồn Ấn là cách cục Tài cách cực vượng song hành với nội tâm biến động lớn, khi tham muốn cực độ, khi lòng tham không còn tồn tại. Tùy bố cục phát khởi biến động tư tưởng theo vận. Hoạch phát hoạch phá tài danh ứng hợp bố cục này do chế dụng của toàn cục. Nhầm lẫn với cách cục khuynh hướng Tài Quan gây tai họa lớn khi định cách lá số tử vi. Trong các cuộc chiến thì mỗi bên đều là chính nghĩa. Các bên đều mang lý do cao lớn để tác động tư tưởng, khiến hi sinh tính mạng của binh sĩ. Trước là chế độ phong kiến với tư tưởng trung nghĩa, lấy ơn ban phát cho dân, đất đai để phong lập tước vị. Tài Danh tức thụ ấm đương hiện. Tại đây Quan cách dẫn hóa Quyền cách và Tài cách. Trong thời kỳ xã hội giai đoạn khác nhau phân định sai khác về toàn cách cục ứng hợp. Giai đoạn phong kiến là quyền tập trung, dẫn tới dòng họ khai công thụ hưởng tập ấm quan trọng. Tài Cách phát khởi do Quan Cách mạnh hơn do kinh thương. Lấy đất đai làm tài nguyên quan trọng do nông nghiệp đứng đầu. Người thậm thâm về dịch lý rõ về biến dịch lý của toàn xã hội ở vận nước tác động tới toàn thể bên trong. Do tính vận hành từ lớn tới nhỏ về chính sách. Khi biến chuyển dịch thì cơ hội phát sinh, nguy cơ cũng đồng thời phát khởi. Thiên cách do tính quy luật của dịch lý mỗi mệnh số là sinh lão bệnh tử. Sau mỗi giai đoạn lịch sử xã hội lại biến động, từ tầng lớp cao nhất tới thấp nhất, dịch lý biến động không ngừng, từ thay đổi về trật tự, thể chế, cơ may, tai kiếp do mỗi mệnh cách đứng đầu, tổ chức từ tập hợp những mệnh cách đứng đầu, toàn xã hội cũng vậy, lại tác động từ bên ngoài. 




Do mỗi bản thể mệnh cách tư tưởng biến động, do đó xã hội biến chuyển không ngừng. Những may mắn và tai kiếp. Nhiều bệnh có thể chữa được do khả năng trình độ y học điều kiện của mỗi quốc gia. Mỗi vận làng, vận nhà cũng vậy. Nơi phát triển hơn chữa bệnh tốt hơn. Nơi kém phát triển mệnh cách có thể tuyệt mệnh vì bệnh không chữa kịp thời hoặc không đủ khả năng cứu chữa. Cũng vậy, vị trí địa lý có giá trị lợi ích có thể gây ra sự tranh giành giữa các quốc gia lớn. Hiện tại thông tin phát triển người nghiên cứu có thể hiểu rõ. Trong nạn đói năm Ất Dậu là cách cục như câu " Cầm vàng nhìn đói". Tính quy đổi của vàng không còn tính giá trị như ban đầu do tính biến động của thiếu hụt lớn lương thực. Người đứng đầu xã hội cũng không thể nằm ngoài chữ lão, bệnh và tử. Khi đắc tài danh là thỏa nguyện tham muốn. Thực tế nguyên bản cũng không nằm ngoài tham cầu. Tuy mỗi mệnh tạo mà tham cầu khác nhau. "Ta dại ở rừng núi, người khôn tới chốn lao xao". Tham muốn trong Đào Hoa cách khi định Tham Hỏa Đào Tồn phân biệt khuynh hướng cũng vậy. Tham khởi dụng từ Hỏa. Có tính dẫn hóa mạnh tới loạn động. Kẻ đứng đầu về địa vị hay kẻ có tài sản lớn nhất không phải là kẻ có niềm vui. Hỏa vượng hóa Sát là nội tâm thường bất định. Cũng khởi do tham giữ, tham cầu với sự rời bỏ bởi luật sinh, lão, bệnh, tử khiến nội tâm loạn động. Trong thời của biến đổi về nội tư tưởng bản thể mệnh cách và toàn tư tưởng của xã hội hướng tâm tới thụ hưởng vật chất hợp hóa với tài danh. Các tư tưởng tôn trọng, đánh giá biến hóa vậy. Giá trị xã hội thay đổi thì đạo đức ắt dời đổi. Như trong cách cục Tử Vũ Liêm với Tử Vi đường lối, lý tưởng, định hướng thay đổi tư tưởng thì chuẩn mực đạo đức tức Liêm Trinh thay đổi. Nhân mệnh được thất thập đã là quý. Ngũ niên thì thân tâm suy tổn. Với thời gian ngắn trải qua như cõi mộng thoắt đã tới lục tuần. Tiền nhân nghiên cứu uyên thâm gốc rễ mệnh lý thường đứng bên ngoài nhìn vào cuộc sống. Mỗi nhân mệnh đều có một may mắn là giai đoạn an vui, hạnh phúc, được đáp ứng tham muốn nhất thời. Mỗi nhân mệnh đều có một điều không may là suy yếu, bệnh hoạn và giai đoạn tử tuyệt. Sinh tuyệt là tính công bằng của thiên địa.

Monday, September 10, 2018

Nữ mệnh cách Thất Sát đắc dụng



Nữ mệnh cách cục Thất Sát cư Tí đắc cách ứng hợp hoàn cảnh bên ngoài. Trường hợp ứng hợp khuynh hướng dụng Văn cách phù hợp nghiệp. Thất Sát ứng hợp Văn Cách bố cục Sát chế hóa ổn định. Nữ mệnh ngũ hành Thổ. Cục thuộc Mộc. Cung độ hành vận tác hóa mạnh tới mệnh cách. Luận Mệnh Thân tác động tới tính cách khi phối hợp định cách mệnh vận chủ tư tưởng không tác hóa mạnh như đại vận tác động biến đổi. Mệnh cách Thất Sát độc tọa cư Tí trong bố cục Sát Phá Tham hoàn chỉnh, cách cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm tại đối cung. Mệnh cách Thất Sát bản cung ngộ Tuần, có Không Phi nhập vị trí Mộc Dục. Thất Sát ưa khám phá, cũng có tính tranh đoạt trong mệnh cách. Nữ mệnh Thất Sát trong cách Sát cư Tí Ngọ có tính chất ưa thu về, trong khi Thiên Lương ưa phát ra. Thất Sát với Phi Không Tuần là cách khá tốt. Do Không Tuần mạnh ở tính trung, Tuần Phi là một vòng tròn. Với nữ mệnh Thất Sát có Tuần Không cuộc sống trong vòng tròn của đè nén, được mất. Nữ mệnh cách một chữ Phi ngộ Sát là chia đôi. Phi Liêm có tính tan rã, Lộc Tồn chủ hợp lại. Do đó mệnh cách Phi Liêm giao hội toàn bộ tổ hợp Phi Phục Thanh. Với Sát Phá Tham hội Phi Phục Thanh là cách cục khá tốt, chỉ sau bố cục Kình Hao. Phi Phục Thanh là chờ đợi, với Phục Binh có tính chất chờ, Thanh Long là sao thay đổi. Sát Phá Tham hội Phi Phục Thanh trọng danh, có tính trầm ổn do Binh Tuần, cũng chủ có hiếu, mang ý nghĩa chăm sóc tới người khác, đây cũng là cách cục chủ tranh đoạt danh tiếng, nữ mệnh cương nhu đều tồn tại trong tính cách.  Mệnh cách không giao hội bố cục phức tạp. Cách cục Thanh Phi Phục hội Sát Phá Tham khiến bố cục này giảm hóa tính Sát, do Thanh Phi Phục khi bất hội Lục Sát Kỵ Hình là cách cục hòa bình, an ổn, bản thân Sát Tuần cũng chủ hiền hòa, giảm Sát tính của sao này. Thanh Long có tính quyền biến, hội Tham hình thành cách cục có khả năng quan sát, nắm bắt mong muốn của người khác, thích ứng tốt. Với nữ mệnh Sát cư Tí trong bố cục này với mặt gia đình an ổn khi Sát tính của Thất Sát hóa Quyền, thành tín nhiệm, bố cục tình cảm hội tại cung an Thân. 




Tuy nhiên bố cục này tới đại vận thứ ba Liêm Triệt hội Tồn Kiếp Đào Hồng với Tử Tướng Diêu từ 23 tới 32. Trong đại vận này xét cách cục bất ổn về tình duyên. Mệnh Sát tới vận Liêm Triệt thành cách cục thanh danh, với Tướng Hồng Kiếp Diêu Tồn chủ có thị phi, tình cảm gặp khó khăn trong vận này do hình thành Đào Hoa cách mạnh trong khi mệnh Sát Tuần có Sát tính chế hóa không mạnh. Trong đại vận thứ ba nếu nữ mệnh bình ổn về tình cảm, tình duyên khi Sát cách chế hóa hoàn toàn tổ hợp sao mạnh Đào Hồng Không Kiếp Tướng Diêu thành các Hình Diêu Không Kiếp hội Tử Tướng, không gặp nhiều khi luận cách cục chế hóa mạnh cách cục này. Với cách cục Thất Sát độc tọa cư Tí Ngọ Dần Thân thuộc nữ mệnh, hướng tư tưởng tới sự nghiệp thì đắc cả tình duyên. Mệnh cách Sát cư Tí tương đối ổn định do không hội sát tinh, tuy nhiên điểm đặc biệt của cách cục này là không Sát thì khó phát, dụng Văn Cách chủ nghiên cứu, khám phá học thuật ổn định nhưng khó thành tựu lớn. Với Thất Sát hội Sát Kỵ nếu thành tựu đột biến thì tình duyên trắc trở do Sát hóa thành cô khắc, tính tài năng của Sát tăng cường, tuy nhiên cũng là cách cục nội tâm chủ cô độc, bất ổn. Sát Phá Tham với mệnh nữ không hội Sát Kỵ cuộc sống bình ổn, bình thường cách cục chủ hóa Sát Tuần thành âm nhu, không táo bạo cương quyết tranh đoạt như Sát Phá thực hội. Gần đây người viết luận một lá số nữ mệnh Bính Thìn cũng cách cục độc tọa cư Tí bản cung Sát Diêu Kiếp, cung an THÂN hữu Liêm Kỵ Khốc. Vận hành đại vận ứng Đào Hoa cách. Nữ mệnh kia khuynh hướng Đào Hoa cách, sắc diện vượt trội, quản lý truyền thông của đoán ngoại giao, tuy nhiên tình cảm gia đình khó khăn. Với lá số nữ mệnh, cung an THÂN có Tử Tướng Đào Diêu Kiếp là Đào Hoa cách, khuynh hướng dụng Văn cách nên bố cục này không tác họa lớn tới mệnh tạo. Thất Sát cư Tí bản tính hướng tới tính quan sát, định đoạt. Với bố cục Tử Sát hóa Quyền là phản tác tinh tường. Trong trường hợp Sát độc tọa cư Tí chủ suy xét, quan sát khá cẩn trọng. 




Sát Phá Tham cách cục này dụng Văn Cách, chủ khám phá, hiểu biết, ưa nghiên cứu sâu nên Thất Sát đã hóa cục, dụng Văn cách. Sát Phá tối hỉ ngộ Tuần Triệt. Với Sát Phá ngộ Triệt chủ tinh tường. Sát Phá ngộ Tuần chủ đề phòng. Nữ mệnh cách Thất Sát ngộ Tuần chủ tính phòng bị đề phòng tốt. Cách cục Sát Phá có tính chất ưa khơi tạo khám phá, không có Khoa Quyền cần tới vận khai thông. Thân Mệnh phối hợp là tính cách, biến đổi qua các vận, mệnh là bản tính khởi tạo ban đầu. Nữ mệnh Sát Phá rất cần thiết cung an Thân tại vị tri Phủ Tướng, chủ về tính suy nghĩ, tức ý thức thiên về tình cảm. Với Thất Sát bản tính là tranh đoạt. Tử Tướng cư cung an Thân tại đây không mấy hay. Tử Tướng ngộ Kiếp Hồng Diêu giao hội Vũ Phủ Tồn Đào với Liêm Triệt. Tướng dụng Không Kiếp chủ tăng tính tương trợ, giúp đỡ người lúc khó khăn. Hóa cục Thất Sát thành cách cục chủ giỏi quan sát, quan tâm tới người khác. Tuy nhiên Tướng không chế hóa được Tồn Đào Hồng Không Kiếp hội Hình Diêu thành Hình Diêu Không Kiếp hội Tồn Ấn là tồn tại tai họa. Thất Sát nhập tới vận này có tình phòng bị tuy nhiên cũng khó tránh tai họa tại đây. Cung an Thân Hồng Kiếp còn chủ dễ gặp bệnh tật về máu. Đại vận nữ mệnh may mắn qua hai vận Triệt tại bản cung phối hợp mệnh thành cách Sát Phá ngộ Tuần Triệt chủ phòng trừ tốt trước tai họa của Đào Tồn Kiếp Diêu, hóa cách cục tuy nhiên cũng sẽ gặp biến động. Cung an Thân an tại Phối cung, với Tướng Hồng thì phối ngẫu là người có ngoại hình tốt, tuy nhiên trong tình duyên với cách Tướng Hồng Diêu ắt có người đa tình. Tử Vi đồng độ với Thiên Tướng trọng tình nghĩa khi khó khăn, tuy nhiên Tử Vi tối kỵ giao hội Không Kiếp Triệt Đào là cách cục không mấy hay, chủ tư tưởng thường thiếu định hướng, Tử Vi là sao chủ trách nhiệm, hình thành cách Tử Tướng ngộ Nhị Không là lộ bí mật, không hoàn thành trách nhiệm. 




Nếu công việc hướng tới Binh Hình Tướng Ấn tức trong một tổ chức, là Tướng Diêu Y tức thầy thuốc, có Hồng Kiếp là máu huyết, tai kiếp là cách cục khám phá, y tế cho người gặp tai họa với máu hay bệnh tật thì cách cục chế hóa được Tử Tướng ngộ Đào Kiếp Hồng Tồn Hình Ấn ứng với thế cát hóa cho nữ mệnh. Khi đó Tử Tướng thành cách cống hiến, tương trợ cho kẻ gặp tai kiếp khiến Tử Vi cát hóa được Nhị Không, chủ khách phân biệt, Sát cách cát hóa khi mệnh cách nắm chủ động. Trường hợp nếu nghề nghiệp theo khuynh hướng như vậy hợp cách ứng khí hình vượng, nếu khí hình suy thường mệnh tạo ắt có tai kiếp với cách cục này.  Trường hợp đa phần là tai họa trong tình cảm gia đình. Diêu tại Tướng cách Diêu Y trong Binh Hình Tướng Ấn hợp cách. Bố cục Hình Ấn tốt đẹp với Tử Phủ Vũ Tướng Liêm một phần nếu hình thành cách Tướng Diêu Y. Cách cục này thường nếu người nghiên cứu tử vi chưa lâu luận là cách cục tai họa khi nhập vận. Trường hợp nữ mệnh cách cục này là đắc cách, tuy có một số khuyết điểm, do sao Tử Vi tác hóa. Một lá số nữ mệnh khác với mệnh Sát cư Dần, cung an Thân tại Liêm Tướng Ngọ cung có Hình Diêu với cách Tướng Diêu Y tuy nhiên hội Linh Việt Tồn Kỵ Kiếp , làm việc công tác bảo trợ xã hội, nhập vận này hình thành tan vỡ tình cảm, bản thân gặp bệnh tật nặng, phải mổ xẻ. Trong cách cục này cũng hình thành Vũ Tồn Kiếp có Kỵ Hình Linh tác họa, bản thân gặp tai họa. Với bố cục Tử Tướng này nữ mệnh dụng Văn cách phù hợp, hành vận tốt đẹp cho tới đại vận Thiên Di là vận hung. Trong nội tâm nữ mệnh khó định hướng được tình cảm và lý tưởng của bản thân. Tử Tướng là cặp sao mạnh, có tính chế hóa Sát vượng tuy nhiên là cách không hoàn chỉnh, đặc biệt khi bố cục Tử Tướng không giao hội Thanh Phi Phục. Với cách cục nữ mệnh, lưu ý dụng cách bất dụng Quan Cách và Tài Cách. Chỉ dụng Văn Cách, công việc vậy phù hợp, có thể phát triển theo khuynh hướng nghiên cứu, danh tiếng, bằng cấp. Bố cục cân bằng, nếu ưa thay đổi tránh việc thay đổi việc làm cách cục ổn định. Hành vận nữ mệnh tốt ứng với Mệnh tốt không bằng Thân tốt, Thân tốt không bằng Vận tốt. Cung an Thân tại đây không mấy hay, tuy nhiên ứng hợp nghề nghiệp do Vận cát hóa, khi tới đại vận xấu cách cục phá cách, bản thân dễ gặp họa do bệnh tật máu huyết như vậy, đặc biệt tại vận Vũ Phủ Tồn Đào Kiếp Hình, vận này nhập cung Thiên Di ứng Tật Ách, tuổi tác cao nên cẩn trọng. 




Sát Phá Tham cách hoàn chỉnh có đặc tính chủ tranh đoạt, khai phá, tuy nhiên do hàm chứa Sát tính nên có khuynh hướng bộc phát khi vận dẫn hóa. Trường hợp Sát Phá Tham giao hội Tử Vũ Liêm là trường hợp cuộc sống bất ổn, khó khăn. Mệnh cách Sát Phá theo khuynh hướng mô phạm, khoa học, khám phá là cách chính yếu hợp mệnh tức bản tính. Về cung an Thân hợp với tương trợ, nghiên cứu khoa học về y học liên quan tới tiêu diệt hay phòng trừ là hợp cách với mệnh thân, do tính đóng góp của khoa học tới cuộc sống khiến Sát Phá mang tính tương trợ. Nữ mệnh cách cục này Thất Sát đắc cách do bố cục ứng hợp bên ngoài dụng Văn cách. Lá số tử vi mỗi người tùy theo hoàn cảnh mà dụng bố cục ứng hợp bên ngoài nghề nghiệp theo khuynh hướng khác nhau. Nếu nữ mệnh dụng Tài cách chủ kinh thương làm trọng hay Quan cách ưa việc chính trị, bộ máy thì dễ gặp họa, bế tắc. Cách cục nghiên cứu sâu có tính mô phạm với nữ mệnh phù hợp, thiên về chiều sâu, có tính khai phá hợp cách của Thất Sát độc tọa. Khả năng dụng của Thất Sát tại điều hòa tính áp lực của sao này. Khi dụng hóa là bản thân tự tạo áp lực để phát triển. Khi xấu là chịu đè nén từ ngoại cảnh hoặc ngay nội tâm. Đây là điểm quan trọng trong hóa Sát tính chất của Thất Sát. Nội tâm cần luôn giữ ổn định, nữ mệnh theo khuynh hướng nghiên cứu do Văn cách tác hóa nên tự hóa nguyên cục. Tuy nhiên đây là lý cơ bản tránh Sát tác hóa. Nữ mệnh Thất Sát luôn đặt chữ đề phòng và tỉnh giác lên hang đầu. Do Sát thuộc âm kim, tác họa tính bất ngờ gây thất kinh. Mệnh Sát Phá Tham dụng Văn cách là hướng đi hợp cách với mệnh nữ, cũng là may mắn cho mệnh số. Mệnh Sát do bố cục trợ cách bất vượng, cần xét đại vận để tạo thành tựu lớn, tính chất tài danh cũng không bền, đa phần sẽ phải đánh đổi một mặt với Thất Sát. Tại đây mang ý nghĩa mất đi ít nhưng được nhiều. Xét khí hình cách cục này với áp lực. Khi gặp khó khăn lớn hơn tức khí hình ứng tăng cường vượng, hoạch phát sẽ lớn hơn. 

Sunday, August 26, 2018

Sao Thái Âm tổng luận





Thái Âm là tinh đẩu thuộc nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương khi hoàn chỉnh. Trường hợp khi Thái Âm giao hội với nhóm Cự Nhật hình thành cách Âm Dương Lương. Sao Thái Âm và Thái Dương là hai sao tượng âm dương trong tử vi. Thái Âm luôn tam hợp với Thiên Lương. Khi luận cách cục giao hội luôn phối hợp bởi cách Âm Lương với các Chính Tinh. Luận tính chất Thái Âm thủ mệnh khi xét chung là luận tổ hợp Âm Lương. Thái Âm luôn nằm trong nhóm Âm Dương Lương hoặc Cơ Nguyệt Đồng Lương tạo tính chất riêng biệt cơ bản của hai bố cục. Đây là hai nhóm sao hiền hòa, ổn định, không hàm chứa Sát cách nên mệnh tạo Thái Âm hoặc Thiên Lương có bản tính đa phần âm nhu, hiền lương. Nữ mệnh cách nhập mệnh hai chính tinh này hợp cách. Thái Âm có âm tính. Trong vạn vật đều chứa âm dương. Mệnh cách có Thái Âm thủ mệnh tính âm nhu vượng, tuy nhiên không phải mệnh cách hoàn toàn không có dương tính. Chính tinh nhập mệnh chủ tính cách thường trực, qua vận hay tác động của hoàn cảnh biến đổi. Khi giao hội với bàng tinh, tính chất cơ bản chủ âm không thay đổi, tuy nhiên phối hợp định cách biến hóa phức tạp. Thái Âm nhập mệnh phân hai trường hợp độc tọa hay đồng độ với Chính Tinh khác. Trường hợp độc tọa tại cung Tị Hợi Thìn Tuất Mão Dậu. Giao hội với Thiên Cơ tại Dần Thân, với Thiên Đồng tại Tí Ngọ và Thái Dương tại Sửu Mùi hình thành tổ hợp Chính Tinh luận phối hợp tính chất cơ bản của tinh đẩu khác biệt với trường hợp độc tọa. Thái Âm có tính chất âm khi dụng thể chủ che dấu, âm ám, mưu tính, quyền ngầm. Trường hợp tăng tính chất suy nghĩ, tính toán khi giao hội với Thiên Cơ tại cách Cơ Âm. Với cách cục Cơ Âm cũng tăng mạnh tình ôn nhu, hiền lương tại tâm tính và tướng mạo của mệnh tạo.





 Trường hợp Thái Âm đồng độ Thiên Đồng hình thành cách Đồng Âm chủ ưa đóng góp lợi ích tập thể hơn bản thân, Đồng Âm cách có tính cách nhi đồng, chủ do phối hợp tính chất từ Thiên Đồng. Xét về cách cục Cơ Âm có phần sắc sảo, tính toán hơn với mệnh cách Đồng Âm. Với cách cục Đồng Âm ngộ Tang Môn với nữ mệnh đắc chính cách của Đồng Âm, thường luận phẩm chất tốt ưa đóng góp âm thầm tới cộng đồng. Trường hợp giao hội Sát cách không luận vậy, biến hóa theo Sát Kỵ. Mệnh tạo cách cục Đồng Âm ứng hợp chữ phúc hậu, được đánh giá tốt hơn với Cơ Âm. Tuy nhiên về tài năng, khả năng ứng biến mệnh cách Cơ Âm luận hay. Hai cách cục trên hình thành khi nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương hoàn chỉnh. Trường hợp còn lại thuộc cách Âm Dương đồng độ cư Sửu Mùi. Ba cách cục đồng độ trên xét tính chất không xét tới vị trí sáng tối của Thái Âm. Âm Dương đồng độ cư Sửu Mùi tam hợp chiếu Thiên Lương và cung độ VCD ngoại Cự Cơ xung. Đây là cách cục có một phần thị phi do bản cung VCD chịu tác động của Cự Môn trong cách cục Cư Cơ Đồng. Âm Dương Lương tại đây có tính chất ưa thay đổi, chủ thời gian ổn định, là cách cục quan hệ xã hội. Do mang ý nghĩa ổn định, may mắn nên không gặp khó khăn bế tắc tạo kích phát tới bố cục. Âm Dương Lương chịu tác hóa của Thái Dương giao hội Thái Âm. Thái Dương có dương tính, ưa công khai, nhiệt huyết. Âm Dương đồng độ chịu tác động của hai chính tinh này nên có phần rối ren trong bố cục. Khuyết điểm thường chủ chóng thay đổi khi chưa thành tựu gặp khó khăn, không bền vững, bằng lòng với cuộc sống. 




Trường hợp Thái Âm độc tọa tại các cung Tị Hợi Mão Dậu Thìn Tuất phân hai cách cục Âm Dương Lương và Cơ Nguyệt Đồng Lương định cách toàn bố cục, các vị trí của Thái Âm nhập vượng hoặc hãm tác động tới sứ cát hóa của sao này. Thái Âm cát hóa mạnh khi nhập Hợi cung. Đây là cách cục Nguyệt Lãng Thiên Môn thuộc Âm Dương Lương cách với Thái Dương đồng độ Thiên Lương có tính hướng lên, phát triển. Thái Âm nhập mệnh bố cục này chủ hưởng thụ, thuộc cách cục ưa bình ổn, khó tiến nếu không Sát hóa toàn cục. Nếu nữ mệnh nhập cách cục này chủ tâm tính ưa việc an ổn, cuộc đời ít biến động lớn tuy nhiên cũng khó thành tựu. Với nam mệnh cách Thái Âm cư Hợi cần giao hội Sát cách chủ khó khăn hóa Âm thành Quyền cách luận tốt, thứ tới dụng Văn cách. Mệnh cách Thái Âm cư Hợi thường được luận tốt ở phẩm chất, luận sự nghiệp thành tựu không đắc trợ cách là mệnh thường. Cách cục Âm Dương Lương tại đây chủ mối quan hệ xã hội. Khi tốt là bản thân có các mối quan hệ tại tầng lớp cao của xã hội, gia đình xuất thân đa phần tốt đẹp do Phụ Mẫu định cách bởi Âm Dương. Khi Sát hóa mệnh cách Thái Âm tùy từng bố cục luận sai biệt chủ tính chất âm ám, tàn nhẫn, mưu mô, tranh đoạt. Đây là trường hợp Thái Âm giao hội Sát cách hóa Quyền. Khi Sát hóa được chữ bất lương. Thái Âm là sao chủ nội âm, thuộc âm thủy. Khi định cách Chính Tinh thực lý bên ngoài cuộc sống khi ứng hợp. Thái Âm hóa cạnh tranh ngầm, mối quan hệ ngầm. Thái Âm là những việc không bộc lộ, công khai. Do đó hàm chứa Tài Cách, bí mật kinh doanh không nên để lộ dễ bị phá hoại, trong kinh thương rất quan trọng việc tranh đoạt, cạnh tranh âm thẩm với nhau. Lợi ích bằng tiền không nên lộ ra dễ phá tán hoặc gặp cản trở. Tài vượng do hóa âm cách. Trái với Thái Dương chủ Quan cách, trong công danh sự nghiệp hay chính trị thường bộc lộ công khai bên ngoài nhiều hơn. Khi Thái Âm tốt đẹp chủ hiền hòa, hi sinh âm thầm, chịu đựng. Thái Âm chủ tiếp thu, lắng nghe, suy nghĩ. Thái Dương thường có Cự Môn chủ tiếng nói. Bố cục Âm Lương tam hợp luôn chịu tác động của Thiên Lương tại hoàn cảnh tới mệnh tạo, hướng tư tưởng ưa phân biệt phải trái, lý nghĩa. Thái Âm trong bố Âm Dương ưa hội Tang Hư Mã. Do tính chất giao tiếp, xã giao của nhóm sao này với nhóm Tang Hư Mã chủ khoa trương, đặc biệt khi hội Hóa Khoa. Tang Môn tăng tính âm cho Thái Âm chủ tài ngầm. Thiên Hư hợp với Âm Dương. Tuy nhiên cách Âm Dương Lương hội Tang Hư Mã dễ biến hóa theo khuynh hướng tác họa tới gia đình hoặc phụ mẫu khi hội Sát Kỵ với Lưu Sát Kỵ. 

Wednesday, August 22, 2018

Ngũ hành của mệnh cục.



Số mệnh và số phận là điều thường mỗi người được nghe và suy nghĩ. Những đứa trẻ sinh ra đã gặp tai kiếp, bệnh tật hay những đứa trẻ sinh ra có cuộc sống hạnh phúc, đầy đủ. Tai kiếp cũng tới với cả một gia đình không may, tới cả một dòng họ, một ngôi làng hay một quốc gia. Khi đó người đời luận với số phận, số mệnh. Cuộc đời luôn biến động, thời gian biến dịch. Mệnh đế, vương giả, tri thức, quan cách, binh tướng, bần nông, nô bộc thời trước hiện tại tất cả đã về cát bụi. Luận tử vi thì tất cả mệnh tạo đều phải tuyệt mạng nếu không bởi tai kiếp thì bệnh tật. Tuy nhiên lá số thực đại vận tới 12 cung hành vận rất dài so với tuổi thọ. Ngũ thập tri thiên mệnh, người tới tuổi này đã rõ được số mệnh của bản thân. Số mệnh tại đây là bản tính, tính cách cố hữu của bản thân tuy biến hóa nhưng cơ bản không thay đổi lớn, khác với tâm tính biến động theo vận. Như kẻ có nghiệp tới khẩu ngôn, tức khi người đánh giá mệnh tạo thường chủ định lời nói, khẩu ngữ mệnh tạo. Về lâu dài vạn vật đều phải suy tuyệt, tức khi biến đổi thái quá. Khi luận tử vi là định về bản tính ban đầu và phẩm chất tính cách dời đổi khi ứng hợp với khí hình của mệnh tạo. Mệnh, Thân và Vận rất quan trọng. Tuy nhiên có một số định cách cơ bản khi luận phối hợp mệnh vận tức biến đổi tính cách người luận có thể sai biệt khi luận. Vạn vật đều biến động phân thể và dụng, khí gốc và hình hóa là lý chung. Khi xét tới lá số tử vi. Ngũ hành mệnh và ngũ hành của cục thường định trước khi luận mệnh cách. Thường người luận xét Mệnh sinh Cục, Mệnh khắc Cục, Mệnh Cục bình hòa và trường hợp ngược lại của Cục. Luận tương ứng với hành vận tốt và xấu, cũng luận tương đối như Cục sinh Mệnh và Mệnh Cục bình hòa là tốt đẹp. Thứ tới là Mệnh sinh xuất Cục và Mệnh khắc Cục. Xấu là Cục khắc Mệnh. Tử vi đông a không luận cách xét như vậy. 



Thực lý với trường hợp theo luận trên sẽ có sai biệt khi các lá số Cục sinh Mệnh và Cục khắc Mệnh có bố cục lá số tử vi và khí hình có phần tương ứng luận bố cục tốt đẹp thành tựu rất lớn không gặp khó khăn. Thực sinh khắc không có tính tổng quan toàn lá số vậy, nếu vậy vận đại hung trùng phùng Sát Kỵ tác họa như cục sinh mệnh thì không phải vong mạng. Luận như vậy có phần khiên cưỡng. Cũng không xét luận trên là sai lầm, tuy nhiên không nên dụng khi chưa rõ để tránh rối loạn khi định cách. Người viết luận cách cục xét hợp hóa ngũ hành mệnh và cục để phối hợp định biến hóa thể dụng giữa mệnh cách tức bản tính ứng với các đại vận thay đổi tương ứng với ý nghĩa bố cục. Như Cục sinh Mệnh tác hóa của đại vận biến đổi tới tính cách ban đầu mạnh. Lưu phi tinh tác động tới đại vận ý nghĩa biến động mạnh hơn khi tác động tới mệnh cách. Mệnh sinh Cục chủ tác hóa của bố cục mệnh cách tới đại tiểu vận mạnh, biến đổi vận phối hợp mệnh, mệnh cách nắm lệnh. Trường hợp sinh là dấu cộng khi định cách phối hợp luận cát hung. Trường hợp Mệnh khắc Cục hay Cục khắc Mệnh luận ngược lại. Trường hợp khắc là dấu trừ khi định cách phối hợp luận cát hung. Xét phối hợp rất quan trọng tại tính chất cơ bản của tinh đẩu và toàn tổ hợp Mệnh với Vận. Do đó khi định cách được tính chất toàn tổ hợp khi giao hội mới cần thiết xét ngũ hành mệnh cục luận khuynh hướng biến đổi. Nếu không thì cũng không cần thiết tránh khó khăn khi luận tử vi. 



Như người viết đã từng luận về Tử Vi Đông A khởi nguyên mạnh thời Trần. Khi trải qua các vua Trần từ Trần Thái Tông tới Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông. Quân Nguyên Mông sang xâm chiếm Đại Việt gồm ba lần, đều bị đánh bại tan tác. Quân Nguyên Mông tức Mông Cổ và nhà Nguyên về sau. Sử còn ghi rõ vua Nguyên Thế Tổ tức Hốt Tất Liệt khi thua trận vẫn rất muốn đưa quân sang đánh nước ta. Tuy nhiên, các năm sau đó đều gặp đại hạn, có năm tướng lĩnh chết, năm phó tướng chết, trắc trở không thể xuất binh, cuối cùng Hốt Tất Liệt chết, đời sau không  gây chiến Đại Việt. Các đời vua Trần đều lấy Không làm dụng, thể là tham muốn hòa bình phát khởi Không cách, vận nước do vua, đều lấy tư tưởng tính Không để định khí hóa. Trước đó Đạo Lão định Không cách bằng hai chữ vô vi tuy nhiên tính chế dụng có phần chưa triệt để thực lý trị nước có phần chưa thực hài hòa. Tới Không cách của Phật Giáo từ đời Thái Tông tới Anh Tông đứng đầu quốc gia đều là nghiên cứu thiền học trở thành thiền sư thâm lý Không cách dụng thể tính. Đắc trợ cách hóa cục vận nước từ thế Tuyệt địa phùng Sinh, sức cát hóa hiển hiện, chủ không ngờ mà thành, việc như khó cùng. Sau khi thái bình thảy kẻ tinh thông toán mệnh, nghiên cứu mệnh lý đều rõ sự việc. Đông A Phái cũng nghiệm lý toàn cục, thấy rõ vạn vật không phải thực có số mệnh như trước đó lấy đạo mệnh làm gốc. Vạn vật sinh vượng suy tuyệt đều nhập Không là giai đoạn khó định cách. Trong Không cách hàm chứa vạn vật, những điều không tưởng xảy ra gặp từ cổ chí kim. Biết rõ không có số mệnh, chỉ có nhân quả hợp thành, từ tính cách mà sinh tai họa hay thành tựu, tính cách lại biến đổi tương tục qua mỗi thời điểm. 




Người đời sau luận tử vi qua phú luận nhìn vào Khoa Quyền Lộc Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt không định rõ Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp Tuần Triệt thì luận cách cục nghiệm lý khó toàn diện. Với Không cách thể dụng không mang ý nghĩa bản mệnh cách gặp Thiên Không Không Vong, Triệt Lộ Không Vong, Tuần Không Không Vong mà trong nội bản tính của tinh đẩu đều có thể dụng Không cách ứng hợp. Các sức bộc phát không ngờ, đột biến rất lớn rất nhiều bố cục do cách cục này tác hóa. Trong khi thể là Không lại dụng tham muốn, tham vọng cực vượng. Đây là trợ cách mạnh của tử vi. Với những người đứng đầu quốc gia, sẽ đứng đầu tại lý tưởng. Thời trước có một số cách luận về Tuế Hổ Phù và Tang Hư Mã. Do tác động lớn của phẩm chất quân tử ở đạo nho giáo tới việc định cách đạo đức, luân lý nên có sai biệt khi luận về hai nhóm sao này. Trước thời thế trọng chữ tín, nghĩa. Cũng do ý nghĩa của Thái Tuế chữ Thái là thực. Thiên Hư chữ hư là giả dối. Xét về giá trị đạo đức thường luận Tuế Hổ Phù tốt đẹp với Tang Hư Mã. Việc phân biệt vậy cũng như phân biệt Khoa Quyền Lộc Tả Hữu Xương Khúc và Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp Kỵ Hình. Vạn vật biến động, dịch lý không ngừng. Bố cục hai nhóm sao trên không chỉ mang ý nghĩa vậy. Tang Hư Mã khi tốt như phú luận cách Đồng Tang ưa giúp đỡ, từ thiện với người. Tuế Hổ Phù khi xấu là đưa ra quan điểm sai lệch nhằm che dấu tội ác, chứng minh bản thân đúng như lý tưởng của Pôn Pốt, lý tưởng Hitle, lại có quần chúng theo tức Phượng Khốc. Chữ thực giả cũng biến đổi liên tục như quy luật dịch lý vạn vật. Chữ thực giả không mang ý nghĩa đạo đức. Cũng không luận khi mệnh tạo có Tuế Hổ Phù chủ lời nói thực. Kẻ mệnh tạo gặp Tang Hư Mã thường lời nói dối. Cũng như mệnh tạo không có Thiên Cơ vẫn tính toán bản thân trước người khác. Tính cách luôn thay đổi từng ngày hoặc từng giờ. Vòn đại vận là 120 năm. Thực tế không có mấy người đi được hết vòng này là tới cửa tử dù vận về sau tốt đẹp. Khi luận tử vi nên luận sự biến động thường trực với tất cả mọi cách cục, tính cách, tài danh, ngay cả toàn cục của tử vi. Vạn vật cũng do biến đổi hình thành tính tích lũy hoặc suy bại. Kẻ thất bại nhiều lần sẽ tích lũy được kinh nghiệm. Sát cách khi dụng hóa thành tựu thì tạo hoạch phát. Như kẻ rèn luyện nỗ lực thì dễ thành tài. Có những kiến thức khó truyền đạt từ tính mô phạm mà chỉ tự nghiệm lý mới có thể thấu rõ. Tử vi đông a luôn luận giải các lá số qua các thời kỳ của xã hội, luận định cách do tính dịch biến khi mỗi thời kỳ có phần sai biệt khi cái bên ngoài thấu lộ từ bố cục tinh đẩu là ngoài đời thực thay đổi, xã hội thay đổi, vị thế quốc gia với vận thiên hạ cũng thay đổi biến động từ mọi mặt. 

Thursday, August 16, 2018

Tính chất cách cục ứng thành tựu



Từng cách cục dẫn tới khuynh hướng thành tựu khác nhau. Luận riêng rẽ và luận toàn tổ hợp nhóm giao hội khác nhau. Từng nhóm sao mang ý nghĩa khác nhau về đặc trưng. Mỗi người đều có tất cả các đặc tính của toàn bộ tinh đẩu. Với tinh đẩu nhập Mệnh là bản mệnh hướng mạnh, tụ hội với tính chất của tinh đẩu hình thành tính cách bản thể. Lưu ý cách cục mệnh là bản tính, không phải toàn tư tưởng. Mệnh tạo có Tuế Hổ Phù không phải luôn nói sự thực. Mệnh tạo có Hư Mã Tang không phải luôn nói lời xã giao, giả dối. Trong tính cách của mỗi mệnh tạo hàm chứa toàn bộ cách cục trên lá số. Người luận tử vi thường nhìn vào bố cục mệnh cách đánh giá về tính cách, bản tính tốt xấu của mệnh tạo dẫn tới sai lầm khi luận giải về sau. Lưu ý về Bản tính, tính cách và lý tưởng khác nhau. Bản tính chủ hình thành có tính vô căn. Tính cách là thể động, thay đổi biến động theo vận. Lý tưởng chủ đường lối của mệnh tạo hướng tới. Lý tưởng, hoạt động đã thành hành động, thành kết quả, do đó có giá trị so với suy nghĩ trong nội tâm. Bản thân có tồn tại thì có tham muốn, sinh ra vị kỷ. Bản thân khi ngũ hành còn hợp hóa thì nhân mệnh còn, ngũ hành tan rã thì tuyệt mạng. Bố cục ngũ hành tan rã khi một hành khắc chế quá lớn khiến vòng tương sinh không cân bằng. Cũng do tính bất ổn vậy nên mệnh cách thành tựu lớn cũng thường thiên lệch về ngũ hành tương sinh, tương khắc. Như Hỏa lấn át thì Kim suy. Mệnh tạo khởi Kim thì gặp hung hiểm. Sự ổn định không tạo nên đột phá. Lại Kim được cứu giải bởi Thổ sinh thành bổ cứu rất quý. Sự thiên lệch của ngũ hành sinh khắc khiến mệnh tạo biến động mạnh trong cuộc sống. Tính cách hay bản tính có thể quy về ngũ hành, vạn vật cũng vậy. Vật cùng tắc biến, hay vật cực tất phản là biến hóa căn bản của dịch lý. 




Thể dụng của chế hóa tử vi bởi lý quy luật căn bản của vạn vật, không phải thứ kỳ bí, hữu thần. Một dân tộc khi bị xiềng xích phải đứng lên đấu tranh. Một kẻ bị áp bức sẽ đứng lên phản kháng. Khi lâm vào thế cùng thì vật phản kháng rất mạnh. Trong trợ cách chế hóa Sát tính tích lũy qua khó khăn, bế tắc trước khi tới thời điểm hoạch phát rất quan trọng. Trong quá trình dịch biến tạo áp lực, đè nén lớn tới bản thể, dẫn tới rối loạn, loạn động do Sát cách hoạt động mạnh bởi tính chất cơ bản. Một người thành tựu từ chữ không sẽ luôn có giai đoạn quyết định khó khăn. Trong trường hợp này kẻ liên tục bám nắm, lâm nguy không loạn, không sớm từ bỏ hoặc ra quyết định sai lầm thì thời cơ phá vỡ thế bế tắc, hoạch phát tới. Đây là điểm cát hóa khí hình của Sát cách. Hữu cách cục chế hóa Sát có hai mặt, là dao hai lưỡi bởi Sát tinh là tinh đẩu có sát tính, có tính chất tác họa, trực tiếp tới chữ Sát, được mất, đánh đổi, khi hội đủ cách cục liên quan tới tài, danh hay nặng hơn là tính mệnh. Lại mỗi mệnh tạo do bản tính, tính cách giao hội Sát cách mang tính dụng khác nhau. Bố cục này chỉ luận cho mệnh cách, tức vận số của bản thân khi xét lá số tử vi của mệnh tạo. Với vận làng tới vận nước, vận thiên hạ có sai khác. Với vận thiên hạ như bệnh dịch hạch tại Châu Âu. Ở vận làng có nơi gầm như cả làng tử mạng. Ở vận nước tức khu vực này tử mạng khoảng 1/3 dân số. Ở vận thiên hạ xét thế giới cứ 5 người có 1 người vong mạng. Dịch bệnh hầu hết xảy ra tại Châu Âu tác động chủ tới vận nước. Chỉ khoảng 4 năm chưa đầy nửa đại vận cũng gần một nửa dân số Châu Âu tử mạng. Vận nước trong nạn đói năm 1945 Ất Dậu. Tại Thái Bình có làng ngàn người chết chỉ còn vài người. Trong chưa đầy tiểu vận nạn đói khiến cả triệu người tử mạng, nhiều làng quá nửa dân số chết vì đói. Khi Sát cường vượng không thua kém trong thời vận chiến loạn. 




Những cách cục vậy, không phải tất cả đều có lá số tử vi hạn tam hình, sát kỵ giao hội. Cũng không phải do ứng hợp cách cục tuyệt khí hay do mệnh ác nên chịu quả báo như phú thường luận. Khí hình vận tác hóa của vận nước nặng nề, đều không nằm ngoài quy luật  nhân quả. Nguyên nhân do chính sách của Nhật, chính quyền Pháp. Luận tử vi phải rõ lý biến dịch bất biến của vạn vật. Trợ cách của Tử Vi Đông A là khởi từ mệnh tạo, trường hợp không gặp tai kiếp bởi vận nước, vận thiên hạ là ngoại tác. Thực tế là chỉ thay đổi trong tư tưởng dẫn hóa cách cục,  dụng trợ cách biến hóa bố cục mệnh cách. Như một kẻ có tài năng nhưng chưa bản thân chưa tận dụng, hoặc một kẻ có tai kiếp báo trước trên lá số cần phòng tránh ở nội sự việc trong chính lá số. Với ngoài lá số tức các vận khí lớn hơn tác động không mạnh trừ việc khí hình cường vượng ứng hợp. Lá số tử vi chỉ là một tờ giấy ghi cố định bố cục  mệnh thân vận, lập từ tứ trụ, cần khí vận ứng hợp thấu xuất ra ngoài nên phải thua vận làng, vận nước. Trợ cách dụng cũng không thể vượt qua, chỉ điều hòa cát hóa cách cục theo khuynh hướng hợp cách. Thời hiện nay, thời vận bình ổn các lá số đều có khuynh hướng luận theo khí hình tương ứng khí Sát không lớn, lá số tử vi vận hung họa tác động mạnh tới mệnh tạo. Ở thời vận làng, vận nước xấu, mệnh hạn tốt đẹp còn gặp họa lớn, nếu  trùng phùng Sát Kỵ dễ tuyệt mạng. Ở thời vận làng, vận nước bình ổn, mệnh hạn tức vận của bản mệnh, số mệnh trùng phùng Sát Kỵ cũng dễ gặp hung họa. Vận nước là bên ngoài tác động. Vận số mệnh là tự bên trong tác họa.





Một số định cách cơ bản khi luận quan trọng tuy nhiên do thường cố hữu nghiên cứu các sách tử vi do một người biên soạn chứa quan điểm của bản thân người luận dẫn tới định kiến sai khi luận giải lá số nên có điển tích người viết sử dụng lại tùy bài viết luận khác nhau. Cốt rõ được lý của luận tử vi. Trong luận cách cục định cách tương ứng. Sát Phá Tham là nhóm sao đánh đổi, có tính độc lập lớn, ưa đột phá, khám phá, chịu áp lực lớn do sức tác hóa của toàn cục. Tử Phủ Vũ Tướng Liêm là nhóm sao xây dựng, chủ đường lối đứng đầu trong bộ máy tổ chức. Cự Nhật là nhóm sao chủ lập trường, thái độ, ngôn ngữ. Cơ Nguyệt Đồng Lương là nhóm sao hướng tới tinh thần, mối quan hệ tình cảm xã hội. Mỗi cách cục có tính chất khác nhau, thành cách khác nhau, tác họa cũng sai biệt, dụng Sát cách biến hóa tùy tính chất phù hợp. Thay đổi bản thân trước mới có thể thay đổi thiên hạ với tu thân đứng đầu. Với người trẻ khi gặp bế tắc lớn luôn là trước lúc thành tựu đột phá. Khi lắm kẻ bỏ cuộc, đầu hàng thì một số ít chịu áp lực tìm kiếm thời cơ vượt qua. Trong thiên hạ, cũng chỉ rất hiếm kẻ thành tựu lớn lưu danh. Cuộc đời như cõi mộng, thoắt đã tới gần tuổi trời cho,  thực công danh trước mắt trôi như nước. Người theo binh nghiệp thời loạn thường nhìn thấy rõ thế sự cuộc đời sinh tử phút chốc. Nếu có tham muốn lý tưởng theo đuổi là ý nghĩa của sao Tử Vi. Đây là chính tinh có tính chất rất quan trọng trên lá số cũng là tên của môn toán mệnh tử vi lý số. Thời phong kiến tiền nhân khuyên an phận thủ thường. Thời hiện nay nếu có tham muốn, lý tưởng lớn nhất định nên cố gắng thực hiện, nếu không gây hại đã là tốt, đóng góp được tới xã hội thì không nên do dự. 

Thursday, August 9, 2018

Luận về mệnh cách Cự Đồng.



Lá số mệnh cách Cự Đồng cư Sửu đắc cách, có địa vị cao trong xã hội. Phần luận cách cục này học trò luận. Về cách cục đã có cái nhìn tổng thể về tử vi, ứng hợp đúng với mệnh tạo ngoài thực tế người viết đã từng luận, trình bày luận tương đối đầy đủ về định cách cơ bản, xóa bỏ được một phần cách luận thiên lệch trước đây. Người nghiên cứu tử vi không nên nóng vội, nghiệm lý từng cách cục nhỏ, từ cơ bản nắm rõ, thực lý rõ thì gốc vững, gốc vững thì luận không gặp rối loạn. 

 Bố cục chung Thiên bàn phân thành 4 nhóm sao đó là TPVTL, SPT, Cự Đồng Cơ và Âm Dương Lương.  Tinh hệ này là tinh hệ Tử Vi cư Ngọ, đương số sẽ có những phẩm chất hơn người, chí ít là ở hoàn cảnh. Tử Vi độc tọa, lý tưởng và tính chất bộc lộ rõ ràng, không bị ảnh hưởng  và bộ Âm Dương sáng tạo điều kiện tốt cho đương số. Trò luận đương số có chính kiến, có lý tưởng. Đó là xét về chính tinh. Xét tiếp đến Bàng tinh, Không Kiếp Kỵ Hình Linh Hỏa không tụ tập. Các sao tăng mức độ quan trọng tụ tập nhiều ở cung độ Thái Âm Khoa  Khôi  Việt Đại. Thực ra trò vẫn khó phân biệt cung trọng điểm. Các trường hợp rõ ràng như lá số của trò có thể ngay lập tức nhận ra. Nhưng nhiều lá số rất khó. Ở đây trò vẫn nhận định cung trọng điểm là cung quan lộc với chính tinh Thiên Cơ ngộ Hữu Việt Hư  Mã Không Kiếp nhập Sinh. Ở đây là bố cục khá xấu nhưng may mắn nhập được Sinh Vượng mà hóa cát. Người này sẽ gặp nhiều nghịch cảnh nhưng lại vượt qua được mà thành công. Tuy nhiên cũng không hoàn toàn hạnh phúc.


Mệnh cung chủ ý chí, nghị lực con người, cũng là nơi bộc lộ phẩm chất và tính cách. Bố cục chung Mệnh Tài Quan là Cự Cơ Đồng ngộ Tả Hữu Việt Quyền Kình Tiểu với Tang Hư Khách có Tuần Triệt Không Kiếp nhập Sinh Vượng. Cự Cơ Đồng là nhóm sao chủ bất mãn, phản đối, dễ sinh thị phi, bất đồng mà đưa đến phản bội, mang tính chất nội bộ. Ở đây Cự Đồng Cơ ngộ Kình Hao, tính phản kháng càng thêm mạnh, nhưng chỉ là Tiểu Hao, tính chủ động bị hạn chế, trong lòng chứa nhiều bất mãn. Cự Đồng cơ ngộ Tang Hư Khách, can Quý Cự hóa Quyền, Tang Hư Khách hợp với Thiên Đồng chủ từ thiện, làm phúc, lại có Thiên Việt thật tốt quá, đương số tốt bụng, thương người, hay giúp đỡ người khác mà cũng được giúp đỡ lại. Tuy nhiên cũng hình thành các cách xấu như Đồng Không Kiếp, Cự Không Kiếp, nếu không làm phúc sau này tai họa tất đến, dù cho Không Kiếp đắc địa đi chăng nữa. Bố cục nhập Sinh Vượng nên vượt qua được những khó khăn, năng lượng lớn, có ý chí, có sức khỏe: “Thân Mệnh đồng cung tối hiềm nhập Mộ hoặc cư Tuyệt xứ. VCD hoan phùng Tả Hữu Sinh Vượng hóa hung vi cát chung thân vượng hưởng phúc tài”. Đương số lại được sinh ra trong gia đình giàu có, được học hành đầy đủ, do vậy hưởng phúc tài lại càng đúng. (Câu phú nói đến VCD nhưng trò nghĩ là tính cả chính tinh, không biết đúng k thầy?). 
Mệnh cung cũng là đại vận đầu tiên là Cự Đồng ngộ Tang Kình Quyền nhập Vượng  có Tuần Triệt án ngữ. 



Mệnh Thân đồng cung, đương số khá thống nhất trong suy nghĩ và hành động, ngôi sao Tử Vi độc tọa tại Ngọ chủ lý tưởng. Người này có ước mơ và phấn đấu theo ước mơ đó.  Mệnh Thủy, Đồng Cự cũng đều là hành Thủy, luận theo cả 2 sao. Ở đây dụng Thiên Đồng có lẽ tốt hơn so với Cự Môn do hình thành cách Đồng Tang hay hơn Cự Kình không có Phượng. Cái hay là Tuần Triệt án ngữ nên được hưởng 2 chữ phòng tránh, hai cung Tài Quan tuy rằng không đẹp nhưng cũng khó ảnh hưởng đến Mệnh Thân. Mệnh có Tang Môn, đương số có nét buồn trên gương mặt. “Tang Hổ Điếu Binh vị chi tứ Hung, nhược ngộ Đồng tinh nhi hóa cát”, đương số phẩm chất tốt, đây là người tốt bụng, tuy nhiên công việc không tốt, dễ gặp tai họa tác động trở lại cung Mệnh, khiến Mệnh cung có điều bất mãn, lo nghĩ. Cung Quan Lộc với cách Cơ ngộ Hư Mã Không Kiếp có Việt chủ phát sinh khó khăn, tai họa và đánh giá sai thời cơ. Mệnh cung phản kháng lại bằng sự bất mãn Cự Kình nhưng chỉ là Tiểu hao, phản kháng và sự thay đổi cũng không mạnh mẽ, không được ủng hộ của Phượng Các. Tuổi nhỏ đi học, có lẽ đương số kết quả học tập không được tốt.
Phú có câu: “ Cự hãm tứ Mộ đa ngôn, phản phúc nghi hoặc học càng tối tăm” Đa ngôn là nói nhiều, lại nói tầm bậy cái gì cũng nghi ngờ, cái gì cũng phản đối. Từ chỗ cái gì cũng nghi ngờ, cái gì cũng phản đối đến vô tình hay cố ý phản bội người. Mệnh tại đây ta là người có khuynh hướng tạo phản, đồng thời cũng là kẻ bị hại.


Đại vận thứ hai nhập cung độ Tham Lang. Tham Lang ngộ Tuần Triệt Đào Tồn Kỵ. Tham Đào ham chơi, lại gặp cách cục xấu “Kình Đà hiệp Kỵ vi bại cục”. Tam hợp là Phá Tướng Ấn nhập Tuyệt và Thất Sát ngộ Xương Hồng Bệnh. Đại vận này bất lợi cho tình cảm, lại Phá Quân nhập Tuyệt không lợi cho phá bỏ.  Mệnh Cự Đồng đến hạn Cáo Phụ, Tồn Kỵ khéo còn mang tiếng hỗn láo với người trên, trong lòng tồn tại bất mãn. Tuy nhiên Tham ngộ Tuần Triệt lại hướng đương số đến Không cách, huyền học tu đạo: “Tham Đào tại nhàn cung, nữ mệnh độc phụ chi nhân ngộ Triệt Tuần tâm hồn thư thái”. Ở đây trò nghĩ cả nam và nữ, Triệt Tuần ở đây giúp đương số bớt ham chơi mà thay vào là được giáo dục tốt, nhưng bại cục vẫn là khó tránh khỏi. Ở đây luận khí hình biến đổi theo hướng tĩnh, đi theo Thiên Đồng, dụng ngôi sao này, ở đây trò khó khăn trong việc luận khí hình vận, mong thầy giảng thế nào để đánh giá là khí hình mạnh/cao, thế nào là khí hình thấp ạ. Đương số sinh ra trong gia đình giàu có nên khí hình gốc vượng. 

Đại vận thứ 3 hội họp nhiều sao quan trọng, đến đây đương số bắt đầu gặt hái được thành công, nhưng nhìn chung nếu là một người xuất thân bình thường các đại vận trải qua trò thấy không nổi bật cho lắm, thành công cũng không được vang dội. Ở đây có lẽ do hoàn cảnh đương số sinh ra trong gia đình như vậy nên mới được làm Tổng giám đốc, nếu không có lẽ cuộc đời sẽ rẽ sang hướng khác.

Sunday, August 5, 2018

Hình pháp cách cục của Cự Liêm



Sao Liêm Trinh có đặc điểm tư tưởng bản tính mạnh về phân biệt phải trái, đạo đức, thanh danh, được luận hình tinh, có tính chất âm hỏa do Tử Vũ Liêm chủ bí mật. Khi giao hội Tử Vũ Liêm với Sát Phá Tham. Hình tượng cơ bản khuôn mặt dài, xương cằm nhô. Tùy theo vị trí độc tọa và bàng tinh giao hội định cách. Một số trường hợp khi giao hội Hình Sát diện tướng thuộc khuôn mặt lưỡi cày. Liêm Trinh có tính chất Sát, do âm hỏa hóa thành. Liêm Trinh đứng với Thất Sát là cũng có thể luận cách Hung Tú Càn Nguyên do tính chất phối hợp của Hình Tinh và Sát Tinh. Liêm Trinh nhập mệnh có tính chất chuyên quyền, cũng không phải mệnh cách hiền hòa, hàm chứa sức phản kháng lớn. Hai cách cục Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham và Tử Vũ Liêm giao hội Phủ Tướng hình thành bố cục mang ý nghĩa khác nhau. Liêm Trinh hóa cục thành hai khuynh hướng cơ bản nóng nảy và thâm trầm. Mệnh cách Liêm Trinh ổn định nếu trong bố cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm hoàn chỉnh cát hóa đa phần sinh trưởng có phần ổn định lớn, cuộc sống ít thăng trầm hơn cách cục xung đột với Sát Phá Tham. Nếu Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham, sao này bắt đầu tác hóa với Sát cục. Mệnh cách cục này đắc thành tựu đa phần do trợ tín chế hóa cách cục Liêm hội Hình Sát. Liêm Trinh đắc khí hình vượng mệnh cách có khuynh hướng theo hệ thống chính quyền, đặc biệt hình pháp. Như hình tướng, nếu mệnh cách Liêm Trinh hội Hình Sát ứng hợp võ cách, tướng mạo lưỡi liềm cách cục này Liêm chủ thâm trầm, sắc bén, có khả năng dò xét, phán xét rất tốt, cũng có tính âm thầm làm việc, giữ bí mật thân phận bản thân. Nếu mệnh tạo có sắc tướng không ứng Sát hình khắc, thiên lệch chủ bố cục này thường mệnh Liêm Trinh trong cách cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm cát hóa bởi trợ tinh, Sát Kỵ bất kiến. Với Liêm Trinh nữ mệnh trong bố cục này khó thành cách ổn định nếu không giao hội tam hóa, Khôi Việt Tả Hữu Xương Khúc.  




Khi luận phú về cách cục của Liêm Trinh. Liêm dụng võ cách, chế hóa Sát hình thành cách cục liên quan tới hình pháp, chủ dương tính mạnh, ưa thực hiện ký tưởng giữ công bằng, thực hiện công lý. Có một số câu phú trích dẫn sai hoặc bình giải sai với sao này. Người luận tử vi khi nghiệm lý phân biệt các lá số chính tinh độc tọa nhìn được điểm chung của mệnh cách có chính tinh thủ mệnh. Nếu nghiên cứu kinh sách chính yếu thì không gặp sai lầm với các câu phú. Như câu phú thường được dụng với các trường hợp Liên Trinh đồng độ Bạch Hổ sau. " Liêm Trinh Bạch Hổ hình ngục nan đào". Cách cục này xét tới khi Liêm Trinh đồng độ Bạch Hổ. Tức giao hội với nhóm Tuế Hổ Phù. Với Liêm Hổ mang ý nghĩa mạnh về dương tính, hình họa. Sao Bạch Hổ kỵ đồng độ với Sát Tinh như Thất Sát hình thành cách cục Sát Hổ tai ương. Sao Liêm Trinh do hung tính gặp Bạch Hổ trở nên bộc lộ mạnh ra bên ngoài mạnh. Liêm chủ suy xét, điều tra, cũng chủ thanh danh, liêm chính hay bất liêm chính. Do đó cách Liêm Hổ nếu mệnh cách theo hình pháp, hay liên quan tới chính trị. Trong tính chất cơ bản của Liêm Trinh, không phù hợp với Bạch Hổ do nhóm Tử Vũ Liêm ưa ẩn. Cách cục mệnh Liêm thường thành tựu do tính thâm trầm. Tuy nhiên cách cục Liêm Trinh ngộ Bạch Hổ nếu không trong bố cục Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham thì mang ý nghĩa tốt. Trong cách cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm giao hội Tuế Hổ Phù là đường lối rõ ràng, với Liêm chủ phân định đạo đức, hình pháp cho lý tưởng của toàn cục. Với bố cục Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham có Tuế Hổ Phù mệnh tạo Liêm Hổ đều trong cục diện khó khăn do xung đột giữa hai lý tưởng, có tính tranh đoạt và Sát Tinh lớn do Vũ Sát của hai nhóm sao tạo ra. Do đó Bạch Hổ đồng độ Liêm Trinh tại đây không mấy hay. Tuy nhiên xét cách cục xấu cần gặp thêm Hình Ky, Tồn Kiếp mới có thể định họa hay đại họa. 




Liêm Trinh tối kỵ hóa Đào Hoa cách thì luận mệnh phá cách, khó thành tựu lớn với nam mệnh, do xung đột trong chính nội cách và khuynh hướng ứng hợp của mệnh tạo khi Sát cần hóa Quyền do tham vọng. Do đó cách cục Liêm Tham hay Liêm Khúc Xương, hoặc Liêm Đào Hồng mang ý nghĩa không mấy hay. Trường hợp giao hội Xương Khúc cần xét thêm. Với cách cục Liêm Tướng khuynh hướng mạnh tính tương trợ, võ cách. Liêm Phủ mạnh tính dò xét, phán xét tuy giao hội nhóm sao tình cảm nhưng mang ý nghĩ khá tốt. Nếu có kiến thức cơ bản do chính thư và nghiệm lý rõ thì người nghiên cứu đa phần có thể xét được bản tính, hình tướng ứng hợp chính tinh nếu được thông tin sự kiện cuộc đời. Khi truyền tử vi ra ngoài. Một số người nghiên cứu chưa tinh đã giải thuyết về thời gian bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông ứng hợp các biến chuyển của trời đất tới toán mệnh tức xét tứ trụ. Như mệnh sinh các mùa phân biệt, lại giờ phân biệt nên bản tính dự đoán phân biệt. Lại luận nơi không có đủ tứ mùa mệnh các toán mệnh bất ứng hợp do các mùa do ngũ hành định cách thành Thập Lục Hoa Giáp. Thực tế bản tính ở tất cả nơi đều xuất hiện tương tự, không phân biệt do vị trí hay khí hậu có đủ Xuân Hạ Thu Đông. Khí hậu tức mùa là dụng thể của ngũ hành theo quy luật. Toán mệnh lý dùng tứ trụ xét theo ngũ hành bất xét theo khí hậu do đều là thể dụng của thuyết âm dương ngũ hành. Không có tính phụ thuộc lớn. Không thể xét hai cành cây khác nhau trong cùng một gốc, khi tra xét quy luật phải từ thân cây tới cành cây. Liêm Trinh mạnh về chính trị do khả năng nắm thông tin, điều ra, xác định. 




Cự Môn mạnh về nghiên cứu, tác động do bất mãn, phản đối, khám phá tạo ra. Mệnh cách của công tố viên đặc biệt Robert Mueller từng là giám đốc điều tra Liên Bang của Mỹ ứng hợp với Liêm thủ mệnh. Cự Môn dùng miệng, Liêm Trinh điều tra, dò xét, cũng do âm ám khi hóa Sát thành âm quyền tức quyền ngầm, bất hiển lộ. Với Liêm Trinh tốt ta lấy được thông tin của đối phương do âm thầm điều tra, thu thập. Với Cự Môn với khẩu ngôn với hình pháp. Mệnh cách của công tố viên Mueller sát hóa tính chất cơ bản Liêm. Hóa Liêm Trinh thành võ cách. Ứng hợp hoàn cảnh theo binh nghiệp. Mệnh tạo tham gia quân dịch và phát triển mạnh trong quân đội, thực chiến tại Việt Nam. Khi Sát hóa Liêm Trinh khí hình tăng vượng, hoặc tuyệt khí do Sát tác họa. Liêm Trinh ứng hình pháp chỉ khi giao hội Sát Hình. Liêm Trinh và Cự Môn là hai sao mạnh về hình pháp. Mệnh tạo đắc cách thường học luật, ưa nghiên cứu chính trị. Với Cự Môn khi xấu là tai họa do can gián, miệng lưỡi. Với Liêm Trinh khi xấu do hậu quả của lòng tham, đánh mất thanh danh do phạm hình pháp. Liêm Trinh và Cự Môn nhập mệnh đều có dương tính mạnh. Cổ nhân luận Liêm Trinh tốt hơn Cự Môn do tính Ám của Cự mang ý nghĩa phản đối, chủ bất mãn. Tính Ám của Liêm Trinh mang ý nghĩa điều tra, theo dõi, nắm bắt. Hai sao đều có tài năng lớn. Tuy nhiên Cự Môn dễ hoạch phát, Liêm Trinh được bền vững. Cự Môn thường chủ động tấn công, mang ý nghĩa của Kình tạo thị phi tới thanh danh đối phương khi tranh đấu. Liêm Trinh thường âm thầm, mang ý nghĩa của Đà La, điều tra, tìm sai phạm của đối phương khi tranh đấu. Cự Môn có đồng minh là Phá Quân chủ đa mưu, giỏi ứng biến, khám phá, lợi ích. Liêm Trinh có đồng minh là Thiên Lương chủ chuẩn mực xã hội, đạo đức, lương tính. Trong chính trị hai sao Phá Quân và Thiên Lương đều rất mạnh. Khi uy tín và đạo đức chuẩn mực rất quan trọng do hệ thống chính trị đứng đầu pháp luật. Phá Quân thường thắng thế Thiên Lương. 




Điểm tựa của Liêm Trinh nhập Sát cách là thanh danh và pháp luật. Mệnh Liêm Sát ngộ Hình Ấn hội trợ tinh đắc cách chấp chưởng quyền hành pháp. Nữ mệnh Liêm Trinh đắc cách chủ tư chất đoan chính, không ưa tà vạy. Liêm Trinh nắm giữ nhiều bí mật, do đó tính thâm trầm do ứng hóa khiến Liêm tránh được tai họa so với sao Cự Môn thường bị cổ nhân luận xấu do tính thị phi. Liêm Trinh khi bất hợp cách thuộc bố cục thâm hiểm, do sao Tử Vi đường lối sai lầm. Trong các hệ tư tưởng luôn có đối lập lẫn nhau, mâu thuẫn lẫn nhau. Liêm Trinh rất đắc lực với Tử Vi. Khi đắc cách là thanh danh viễn bá. Khi phá cách hay nhập vận xấu thường gặp họa về bệnh tật, tai tiếng, hình tù với mệnh cách Liêm theo hình pháp. Bản tính của mỗi người ở mọi địa vị đều có thể phân thành các tính cách chính, đặc trưng. Mệnh Cự Môn khẩu ngữ làm trọng. Mệnh Phá Quân tính khai phá, đột biến làm trọng. Mệnh Thiên Cơ lấy lợi làm trọng. Trong chính trị, khi có kinh nghiệm nhìn người thì có thể phân lập tính cách khi tiếp xúc. Trong thương nghiệp cũng vậy. Mỗi tính cách riêng biệt có những ưu khuyết điểm riêng. Người đứng đầu đất nước với tư tưởng, tính cách có tác động quan trọng tới vận nước. Trong tổ chức cũng vậy. Cũng có thể xác định lá số tử vi khi rõ chính tinh thủ mệnh và sự kiện quá khứ khi có trụ ngày. Trung Quốc nhiều người rất uyên thâm trong toán mệnh, thường dụng cả nhân tướng để rõ hơn về đối tác hoặc đối thủ. Như tướng mệnh Thiên Cơ nếu sinh năm Mậu thì Hóa Kỵ tác động mạnh tới tính cách. Thường xuất hiện kỳ tài khả năng mưu tính sâu xa, đắc lực nếu ứng hợp bên ngoài. Nếu tướng mệnh Cự Môn sinh năm Đinh hóa Kỵ, dù mệnh tốt đẹp cũng sẽ có họa thị phi do miệng lưỡi. 



Sunday, July 29, 2018

Tử vi với nhân duyên phụ mẫu, dòng họ


Mối quan hệ với nhau rất bền vững. Thầy lang sai lầm thì giết một người. Thầy địa lý sai lầm thì tạo tai họa tới cả dòng họ. Thời hiện nay mối quan hệ của họ hàng có phần giảm với trước đây, khi các đô thị xây dựng dân cư di tản quê hương. Trong toán mệnh tử vi tính thông linh, việc nhân duyên sinh mệnh khởi nguyên tứ trụ định toán mệnh cách cục ứng hợp với Phụ Mẫu rất lớn. Cung độ Phụ Mẫu, Phúc Đức có liên quan tới mối quan hệ của mệnh tạo bên ngoài. Với lá số tử vi tức tứ trụ của mỗi người đều có thể luận liên quan tới sinh tử của phụ mẫu dù hai mệnh số là hai lá số tử vi riêng biệt, hai nhân thể riêng biệt nhưng có liên hệ qua việc khởi duyên sinh. Điều tất yếu cách cục luôn biến hóa với hoàn cảnh bên ngoài. Như một số tổ hợp trọng điểm cách. Nếu gặp cách cục Âm Đà Diêu Hổ Kỵ Khốc nhập vận trùng phùng lưu Sát Kỵ thì là hạn xấu cho nữ giới trong nhà ứng hợp, hoặc bệnh tật, tai họa với cách cục nặng thì tuyệt mệnh. Với Cự Nhật Tồn Kiếp Phù Khốc Khách nhập vận trùng phùng lưu Sát Kỵ là cách cục tang với phụ tức cha, trong gia đình là đàn ông. Với mệnh cách do bố cục Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham trong đa phần các trường hợp dù cát hóa lớn đều ứng với cuộc sống gia đình thuở nhỏ bất ổn như phụ mẫu chia rẽ, hoàn cảnh khó khăn,.... Do cách cục này Sát tính vượng không gặp Phủ Tướng chủ ổn định bởi tình cảm, tương trợ cho cách cục. Duyên khởi mối nhân duyên dẫn tới linh ứng trên lá số tử vi của bản thân, xét sinh tuyệt của người thân là điểm huyền diệu của vạn vật. Mối quan hệ của phụ mẫu với mệnh tạo rất lớn. Ứng hợp dự đoán trên lá số của mệnh tạo. Vạn pháp khởi do duyên tức nguyên cớ, cũng do trong nội tâm chứa, trong tử vi cũng có mối liên hệ mang tính dự đoán như vậy. 



Vạn vật tuân các quy luật có khả năng  dự đoán, khởi sinh bởi duyên nhân và quả, đôi khi lấn át việc tự tính độc lập do ý thức sinh không thể dự đoán số mệnh mà bản thân thường lấy làm riêng biệt. Tính huyền diệu của tử vi là dự đoán quả do khởi nhân và thiên cơ định ứng hợp với các mệnh tạo tính tương hợp rất lớn giữa phụ mẫu với tử tức. Với lá số của mệnh tạo khởi sinh như tứ trụ định mệnh cách Liêm Sát, Vũ Sát, Tử Sát, đều là cách cục biến động rất lớn trong gia đình, tính bất ổn và ly tán mạnh. Lá số của mệnh tạo luận thông căn với phụ mẫu, cũng thông căn với họ hàng phúc tổ. Với cách cục tuyệt cách ứng Phụ Mẫu thì đồng thời là lúc phụ mẫu gặp tai họa. Dòng khởi của vòng Trường Sinh không gián đoạn liên tục từ Sinh tới Tuyệt lại khởi Sinh cho chính tác động trường tồn của duyên khởi vậy. Trong thời gian nghìn năm từ lá số của đời trước với đời sau vẫn định cách toán mệnh được như việc sắp xếp trước của thiên tạo. Đôi khi tri thức của bản thân khiến ta không tin vào những sự thực ngoài hiểu biết. Nếu người không nghiên cứu sâu, không thực lý chứng thực toán mệnh thì khó tin. Việc lấy tứ trụ của bản thân để xét tai họa phụ mẫu càng khó tin. Với liên kết của dòng họ với bản thân mệnh tạo cũng vậy. Những việc sử dụng nội khí gây kình lực hay trường hợp của cụ Hà Châu cũng dễ khiến bản thân người khó thể tin, dù thấy tận mắt. Do đó khi nghiên cứu các môn toán mệnh người thầy chân chính là nghiệm lý. Cũng như việc chứng minh một quan điểm đúng thì cần nghiệm lý để có kết quả. Khi nhìn rõ và thực lý mối quan hệ của vạn vật thông căn. Lợi ích cho xã hội phong kiến, suy tôn người đứng đầu là thiên tử tức con của trời để rõ tính hợp vị và danh thuận tránh tai họa bất mãn xung đột do Cự Phá tạo ra. Tuy nhiên việc vậy ảnh hưởng tới sự phát triển của toán mệnh về sau. 




Hiện nay những tri kiến của huyền học không còn nhiều người lưu giữ lại do cuộc sống hướng tới văn minh và thông tin trên các báo mạng, thế hệ trước đây kinh sách chữ Nho là nhiều, kiến thức uyên thâm của lớp nhà nho đa phần không còn. Tử vi sách nhiều phần còn luận giải trên cơ sở các câu phú cứng nhắc. Các môn huyền học hàm chứa tri kiến và là khởi nguồn nghiệm lý của thuyết nhân duyên quả hợp cũng như Âm Dương Ngũ Hành. Thường người lầm tưởng cái Không là sự kết thúc, chấm dứt thời gian dài. Tuy nhiên vạn vật thực chưa từng tồn tại Không cách như vậy. Không cách chỉ là một trạng thái của tính biến chuyển, dịch lý, không bền vững. Trong luận thuyết Âm Dương biến chuyển, sự tương tục luôn tiếp diễn, không có điểm dừng cố hữu, chỉ có điểm dừng tạm thời. Kẻ không thấu rõ, nhìn có cái mất vĩnh viễn, thực không tồn tại một thứ cố hữu và vô hữu, vạn vật luôn biến chuyển. Tên gọi nắm bắt vật chỉ là một điểm trong quá trình biến chuyển, trong thời điểm xác định như một cái ảnh của một cuốn phim, lầm tưởng ảnh đó là thực về vật, chấp rằng các bức ảnh thời gian ngay sau đó cũng là một vật. Như một thỏi vàng, sau 1 khoảnh khắc vẫn là thỏi vàng. Thực tế không có tính cố hữu, luôn biến động. Do không có tính cố hữu, chỉ có tính biến chuyển nên không có tính vô hữu, chỉ là do duyên khởi thành vật, tính hợp tan là vậy. Trong lòng vật chất tạo nên vàng đang biến động, nhân duyên tác động tới cũng biến động. Trong hư không cũng vậy, nhìn thực chỉ Không nhưng không phải vậy. Bản thân con người cũng biến đổi như vậy, Mệnh và Thân tức tâm và thân biến động liên tục theo lý Âm Dương. Nhân duyên không bao giờ dứt. 




Tử vi luận Mệnh Thân do thế của Âm Dương và Ngũ Hành, Thân do thể ngũ hành hóa hợp. Thể của vật như chất da tóc, ngũ tạng, khởi tạo Thân đều hóa từ ngũ hành. Thể của tâm tức mệnh biến hóa theo tính chất dụng tức tính động khi biến đổi của ngũ hành. Như Hỏa có tính nóng, nhiệt huyết ở dụng. Tại thể chủ sáng, phát nhiệt. Thân và Mệnh là thể và dụng vậy không khác với vạn vật. Tử vi cũng chỉ là lá số cố hữu với tứ trụ của mệnh tạo. Không có số mệnh, tuy nhiên có kết quả do bản tính tạo ra. Không cách là bố cục rất mạnh. Do khi xuất hiện chữ Không, tức chuẩn bị có sự biến đổi lớn xảy ra. Vì vậy Không Vong có tính tác hóa mạnh gồm Thiên Không, Tuần, Triệt. Mang ý nghĩa cát hung tùy cách cục. Ngũ hành hóa hợp dẫn tới Thân Mệnh hình thành nên bản tính sợ chết và tan rã của mỗi mệnh tạo. Cũng vô thức tránh các tai họa tiếp xúc bên ngoài. Từ sự hóa hợp âm dương ngũ hành và khuynh hướng ngẫu nhiên của vật vô tri. Nhân duyên khởi thành sự sống. Các chất vô cơ hình thành hữu cơ, phát triển thành vật sống. Sau hình thành nhận thức, phân tách dần nhận thức với thân thể thành Mệnh và Thân. Trước vật hướng tới sinh tồn, tìm kiếm thức ăn. Người đã hình thành tri kiến và lấy nghiên cứu chính vạn vật trở lại. Tham muốn là gốc của phát triển. Tri thức phát triển bởi nhà khoa học. Đa phần người thường hướng tới tham muốn về vật chất và địa vị, tình duyên. Nhân duyên về tình cảm gia đình, tư tưởng hướng tâm tác động khiến gia đình là một thể tách so với người còn lại. Dòng họ cũng vậy, trước một người làm quan cả họ được nhờ, việc mối quan hệ trong dòng họ rất quan trọng, cũng do địa lý thường sống tập trung giúp đỡ lẫn nhau. Trong luật pháp cũng quy định về gia đình dòng họ là các mối quan hệ nhân duyên ràng buộc. Hiện nay thì thường ly tán do xã hội phát triển mức sống. 





Một câu chuyện buồn là sự việc tai nạn gần đây khi ngày hỉ sự hôn phối của người trẻ xảy ra tai nạn giao thông khiến 13 người trong họ tuyệt mạng khi rước dâu là tai kiếp đồng ứng. Những tai kiếp mang tính bất ngờ, thuộc về vận khí của dòng họ. Mỗi người trong xe đều có thời vận bản thân riêng, có người đang vận may mắn, có người đang vận xấu, ứng hợp tác động của vận của người điều khiển xe. Bản thân mỗi người thường trong đời ít là một lần gặp may khi tránh được tai kiếp trên đường. Tại đây là đồng cộng tai kiếp ứng hợp. Trong khi lái xe đường dài, việc buồn ngủ thường gặp, trên đường giao thông là nơi nguy hiểm, khí Sát vượng do nếu bất cẩn thì dễ xảy ra tai họa. Những việc nguy hiểm, tỉ lệ tử mạng lớn, như chiến sự, công nhân xây dựng cũng ứng hợp khí Sát vượng. Có một mệnh tạo người viết luận lá số trước đây làm công việc lái xe  đường dài, có những lúc ngủ gật nguy hiểm như linh tính tỉnh thức tránh được một số lần tai kiếp tới tính mệnh của bản thân và hành khách. Trên xe người điều khiển ứng Quyền cách, mang tính định đoạt. Nếu mệnh tạo gặp cách cục ứng tai kiếp do Sát thì tai họa tới là cộng nghiệp. Cũng như kẻ cầm quân, đứng đầu nắm binh quyền là quyền sinh sát, khi bản thân sai lầm thì binh lính vào thế tử tuyệt. " Nhất tướng công thành vạn cốt khô" mang ý nghĩa về tính chất quan trọng quyết định của tướng lĩnh cầm quân. Có những dòng họ bản thân chứng kiến khi suy tuyệt ly tán, tai kiếp bất thường tới nhiều người. Trong gia đình tức vận nhà cũng vậy, khí suy tuyệt gia đình từng người gặp tai họa ập xuống. Khi nhân duyên bất khởi thì tử vi ứng hợp ý nghĩa biến hóa khác. Trường hợp dị biệt mệnh tạo có khuynh hướng cách ly tu đạo, đây là trường hợp nhân duyên đều dứt, đa phần chỉ còn ứng hợp với phụ mẫu. Các bố cục Tài Quan bất ứng, hóa thành nhân quả ứng tư tưởng, tham muốn của mệnh tạo. 

Sunday, July 22, 2018

Thế bao vây tiến công với Sát cách



Hai thế phát triển của Tử Vi tại vị trí của Đà La và Kình Dương. Một trước, một sau của Lộc Tồn. Thế của Kình Đà là thế thay đổi. Lộc Tồn là thế tích lũy. Quy luật của vạn vật cũng theo hai thế vậy. Kình Dương và Đà La được luận là Sát Tinh. Đây là hai sao quan trọng trong Lục Sát do khí sát của tính chất. Kình Dương chủ tiến công, cạnh tranh, chiếm đoạt. Với Kình Dương thiên về chiều sâu. Kình Dương có dương tính, mang ý nghĩa chủ động. Đà La chủ phòng thủ, cạnh tranh, chiếm đoạt. Với Đà La thiên về chiều rộng. Đà La có âm tính, mang ý nghĩa bị động khi phối hợp với các sao chủ nghe theo. Mệnh tạo luôn gặp một trong các cách cục cơ bản an theo Thiên Can gồm Kình Hao, Đà Hao, Lộc Tướng Ấn hay Thanh Phi Phục. Với Lộc Tướng Ấn và Thanh Phi Phục thường luận cách cục chủ cát. Bố cục Kình Hao và Đà Hao chủ sát. Do tính chất quan trọng của bốn cách cục cơ bản nên tác hóa tạo nên bản tính riêng của mệnh tạo, phối hợp với bố cục Chính Tinh thành tổ hợp. Người luận tử vi thường đánh giá tốt với Kình Dương hơn Đà La. Trong quan trường, thương trường hay chiến trường tức dụng tới tranh đoạt, hàm chứa Sát luôn gặp bố cục Kình Đà, biến hóa liên tục thay đổi tùy thời cơ sử dụng. Do đó Kình Đà luôn gặp Hao tại tam hợp tức hai sao chủ thay đổi phối hợp. Đà La có đặc tính quan trọng do âm kim, chủ mưu kế, mang tính chất bành trướng. Kình Dương do dương công thường bộc lộ, dương tính thực chất có khuyết điểm. Kình Đà luôn tồn tại khi có cạnh tranh, phát triển. Do thuộc Sát Tinh bố cụ thuộc Sát cách có tính bộc phát, hoạch phát lớn.  




Báo quân đội có viết về sự phát triển của viễn thông quân đội. Chiến lược đặc biệt của Viettel dụng thế của Mao Trạch Đông chiến lược " Lấy nông thôn bao vây thành thị". Trong trận đánh Điện Biên Phủ lấy chiến lược tạo từng thế bao vây chắc chắn từng bước xiết chặt vòng vây, lấn, tấn, dũi. Hai chiến lược trên chủ tính chất của Đà La. Trong kinh thương hay chính trường không nằm ngoài hai thế Kình Đà. Cạnh tranh chủ thay đổi. Với bố cục Sát cách, thế bị động là thế chủ tai họa. Đà La chủ âm kim, mang ý nghĩa mưu kế, chủ lấy thế mở rộng, vây lấn đều là thế chủ động. Kình Dương chủ dương kim, mang ý nghĩa tiến công, lấy thế chiều sâu, đột phá làm trọng. Mệnh cách tùy Kình Đà cát dụng chế hóa Sát cách. Với Đà La trong bố cục Linh Xương Đà Vũ Kỵ đa phần mang họa với việc nghe theo, dễ rơi vào tai họa, hạn chí đầu hà khi ứng Đà La. Kình Dương trong bố cục Cự Hỏa Kình đặc biệt khi có Không Kiếp chung thân ải tử, tức phẫn uất mà sai lầm khi ứng tính chất Kình. Kình Đà khi thành tựu mang ý nghĩa hoạch phát rất lớn, tăng mạnh vị thế, khí hình của mệnh cách. Một Kình Dương nhập mệnh chế hóa Sát thành công với quyết định táo bạo, quyết đoán tấn công trong quan cách hay tài cách. Một Đà La nhập mệnh chế hóa Sát thành công với quyết định tính toán, bày mưu tính kế, chờ đợi thời cơ trong thế chủ động. Câu chuyện phát triển của Viettel mang ý nghĩa ứng hợp với sức phát triển mở rộng, mang tính chất của Đà La ngay ở hiện tại. Thành đi liền với Bại. Với Sát cách hoạch phát đi liền với hoạch phá do thời vận. Dễ biến hóa theo chiều hướng cực đoan nên luận có tính Sát. Tính hoạch phát rất lớn, đặc biệt nếu có Không Kiếp tới mức độ không ngờ mà được. 




Kình Dương và Đà La luận từ vận thiên hạ, vận nước tới trong cơ thể. Bệnh tật là thứ nguy hiểm. Mệnh có Kình Tang giao hội Sát cách ứng hợp nội ngoại. Nếu bên ngoài cuộc sống khó khăn, chống lại hoàn cảnh, bế tắc. Cách cục Kình Tang chính là Kình Mã. Phú luận " Kình tứ mộ, Mã triều lai biên cương ắt hẳn trổ tài võ công". Hoặc bố cục Kình Phượng hay chính là Kình Khốc câu phú " Đồng Âm Kình Dương phùng Phượng Các nhất thế uy danh". Bố cục Cơ Nguyệt Đồng Lương với thế Đồng Âm và Cơ Lương. Bố cục Cơ Lương chủ thời cơ, cơ may. Đồng Âm chủ âm tính, phối hợp chung. Đồng Âm chủ âm nhu, với Kình táo bạo, tại đây là Kình Khốc luôn có Phượng chủ táo bạo được thời vận mà thành tựu. Hai cung độ Tí Ngọ chỉ hình thành được bố cục Kình Tang Khốc. Bố cục Tuế Hổ Phù không giao hội Phượng Khốc tại đây. Cách cục Đồng Âm ngộ Kình Phượng là bố cục Đồng Âm Tang Kình Mã Khốc Khách. Bố cục Đồng Âm có Tang Môn là cách cục chủ hình thành phe phái đồng lòng, với Kình Khốc đứng đầu. Câu phú thứ hai là bố cục trợ tinh giao hội của Kình Mã. Các câu phú cần rõ tính chất của bố cục tránh sai lầm khi luận. Nếu bố cục Đồng Âm Kình Phượng hội Tả Hữu tối hỉ. Kình Dương các câu phú luận đều rõ ý nghĩa cơ bản chủ táo bạo, dương công của sát tinh này. Phân biệt rõ Kình Dương giao hội Tang Hư Mã, Tuế Hổ Phù. Trong hai cách cục trên có thể gặp Phượng Khốc với sao Thiên Khốc hỉ ngộ Kình Dương tăng dương tính và thành tựu của bố cục. 



Với sao Đà La phú thường luận mang ý nghĩa không mấy hay do Đà có tính ám, chủ âm tính thuộc âm kim tính Sát tức sát tinh. Do âm ám, chủ mưu kế. Thời Nho Giáo lấy nhân trí tín lễ nghĩa làm trọng, thường Sát tinh với Đà La mang ý nghĩa mưu kế thủ đoạn, dẫn tới định cách ý nghĩa xấu với sao này. Đà La bố cục phức tạp hơn Kình Dương và khó thành cách hơn Kình do Đà chủ bị động, bố cục chế hóa Đà La chủ mang ý nghĩa định đoạt, có tính chủ động tranh đoạt. Đà La thường luận trong cách cục Cự Đà Kỵ với câu phú thường gặp " Cự Môn phùng Đà Kỵ tối hung". 
Đà La và Kình Dương đều có tính dồn nén, bộc phát. Đà La chủ chịu đựng lớn và phản kháng tính Sát khi bộc phát rất mạnh. Trường hợp thứ hai chủ chờ thời cơ dụng mưu kế. Kình Dương chủ thẳng, Đà La chủ vòng. Với Kình Tuế chủ quan điểm, bày tỏ rõ ràng. Cách cục Đà Tuế chủ lời nói vòng vo, phối hợp chính tinh chủ ngôn ngữ như Cự Môn và Thiên Phủ tính chất tăng mạnh. " Phủ Đà Tuế đóng Tỵ cung 
Cuồng ngôn loạn ngữ nói rông tháng ngày".

Đà La do không phù hợp với Tuế Hổ Phù ở tính chất quan điểm. Khi giao hội với Tang Hư Mã hình thành cách cục Đà Hư chủ ưa nói sai sự thật, chủ che giấu nên khó đắc cách hơn với Kình Dương. Với bố cục Đà La thành tựu đa phần tính thâm trầm, ít nói. Đà La do âm kim khi hóa Quyền cách thành uy quyền do Sát, cơ mưu lớn. Tuy nhiên đa phần mệnh cách Đà La thường là bố cục bị động, tác họa do Đà La chủ nghe theo. Hoặc cách cục Âm Ám gồm Diêu Đà Kỵ tức Tam Ám giao hội. Đà La khi tốt chủ cơ mưu tính toán hơn người, mở rộng bành trướng. Thường mang ý nghĩa trái biệt, phi thường như cách Cự phùng Đà La sinh dị chí. Đà La thường gặp trong các bố cục bộc phát khi dồn nén, chủ loạn trí nên khi giao hội hình thành cách Đà Hỏa hay Linh Đà khó cát hóa. Với cách Linh Đà Kỵ Khốc chủ ác tâm do dồn nén mà ra tay làm hại mang ý nghĩa âm ám. Bố cục tốt của Đà La giao hội Văn Cách. Đà La tối hỉ ngộ Khoa, Xương Khúc. Đà La giao hội Phượng Khốc đồng độ với Phượng tốt hơn với Thiên Khốc. Với cách Đà Khốc khi tác họa thường bản thân gặp oan khốc. Bố cục Đà Hao cát hóa phức tạp hơn với Kình Dương. Tuy nhiên thành tựu đa phần lớn hơn do tính bộc phát rất mạnh.