Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Monday, October 30, 2017

Tử vi luận hạn phối hợp mệnh


Luận giải lá số tử vi cần rất nhiều kinh nghiệm luận đoán đặc biệt khi luận về chuyển động bắt đầu của lá số tử vi qua các cung đại vận theo chiều nghịch tức qua cung Phu Mẫu tới cung Phúc Đức, cung Điền Trạch và cung Quan Lộc là qua nửa đại vận tới tuổi trung niên, ở cách này mệnh cát luận theo chiều hướng Quan Lộc cách, đường đi của mệnh qua các cung độ có các tên riêng mang ý nghĩa đặc trưng của lá số tử vi. Hướng đi theo chiều thuận qua các cung Huynh Đệ, tới cung Phu Thê, cung Tử Tức và tới cung Tài Bạch theo chiều nghịch với cung Quan Lộc. Ở đây hướng đi thuận theo chiều Tài Cách. Ở bố cục này cũng mang tính đặc trưng đặc biệt khi hội họp bố cục mệnh tạo theo các tổ hợp phát về tài thì tài vượng, trung niên thành tựu về tài. Ở đây lá số tử vi Mệnh tốt thì cần tới trung niên tức từ tuổi 42 hoặc muộn nhất tới 46 bắt đầu nhập Tài Bạch cung hoặc Quan Lộc cung nhìn về cung Mệnh. Hợp với ngoài thực tế nếu xét tới năng lực của bản thân của đa phần, ở đây mệnh tạo qua các cung vận đầy đủ này cũng mang ý nghĩa hoàn toàn đã được nhận ít nhất một cơ hội vì nếu mệnh tạo xấu nhất sẽ yểu mệnh khi qua các vận, bằng không dù cách cục Sát thì cũng đã được một lần hoạch phát tài danh trong đời, quan trọng có biết nắm giữ, hóa cách cục Sát vi Quyền, lấy táo bạo để làm thực hiện mục tiêu lớn, giữ vững và phát triền tài danh.



Thực tế người viết luận chưa thấy việc một người bình thường tới tuổi trung niên chưa có một lần cơ hội, không được một lần cơ hội trong đời mà đa phần đã được may mắn lớn trong một giai đoạn, quan trọng như việc khi ta có một khoản tiền lớn thời gian ngắn tức là vận phát thì ưa tiêu pha, sử dụng nên số tiền dần mất không còn khả năng tái sản xuất, mệnh tạo thường có khuynh hướng bằng lòng với bản thân hoặc không thay đổi khi gặp khó khăn hay nắm chắc phát triển mạnh hơn. Ở đây khi vận chuyền theo hai chiều hướng đại vận đi thuận tới Tài Bạch hay nghịch tới Quan Lộc nhấn mạnh tính chất của mệnh tạo. Nhua cung Thiên Di khi vận chuyển theo hai hướng đi thì qua 7 cung đại vận dù thuận nghịch tới tuổi 62 đến 66 tùy theo cục đa phần thường mệnh tạo nhìn lại về cuộc đời, tính cách của bản thân, nếu ở xa có khuynh hướng trở về quê hương bản xứ, tức cung Thiên Di mang ý nghĩa tác động rất mạnh do vận hạn tới đây. Ở các cung độ khác cũng luận như vậy. Lưu ý một đường đi tới cung Nô Bộc trước Thiên Di hoặc cung Tật Ách trước Thiên Di mang ý nghĩa khá hay khi luận tác động tới mệnh tạo, như nhiều người quan trọng xã hội bàn luận về bản thân khi qua cung Quan Lộc, nhiều người quan tâm tới Tật Ách tai nạn, bệnh tật khi qua cung Tài Bạch. Tên riêng của các cung độ mang tính chất lớn nhất, và đặc biệt khi vận hành đi qua theo các chiều hướng mang tính chất đặc biệt khi phối hợp cho lá số, khi chuyển động tức theo chiều cuộc sống.




Khi luận lá số tử vi cũng cần nhìn việc khó khăn lớn gặp là phối hợp Mệnh tạo ý nghĩa cách cục với cung an Thân để đặt tác động lên vận hạn, suy xét sự tổ hợp bố cục đại vận, tiểu vận giao hội với cục nguyên thủy của Mệnh tạo để luận biến đổi phối hợp. Như vậy mỗi cách cục gồm sự phối hợp ít nhất ba cách cục Chính Tinh kết hợp với Bàng Tinh biến hóa đa dạng khiến luận đoán trở nên khó khăn mặc dù người luận nắm vững tính lý của các Chính Tinh và Bàng Tinh, tính chất sao khi giao hội. Vì vậy các bài viết người viết tập trung luận về tính chất biến hóa của các tổ hợp Chính Tinh, khi giao hội với Bàng Tinh. Các bố cục biến hóa này rất quan trọng để luận giải về sau khi luận được bản tính, tiềm năng của cung Mệnh khi đại vận bắt đầu dịch chuyển tới vận thứ hai tiếp theo. Kế đến sự dịch chuyển của vòng Trường Sinh trên lá số tử vi, đây là mức tác động của chu kỳ Sinh Vượng Tuyệt tới bản cung, biểu hiện tính chất dụng khí của các tổ hợp. Vị trí Tử Tuyệt ứng với sự khó khăn bế tắc.

Thursday, October 19, 2017

Thiên Phủ tinh yếu luận mệnh


Mệnh cách có sao Thiên Phủ thường được đánh giá cao trong các Chính Tinh của tử vi. Thiên Phủ là chính tính có tính chất tốt đẹp trong tử vi ở tất cả 12 cung độ. Tuy nhiên tùy các bố cục giao hội với nhóm Tử Vũ Liêm hay đơn thủ mà tính chất khác nhau. Mệnh tạo có sao Thiên Phủ khó đắc cách, tự tài năng mà đa phần mang tính chất đứng đầu dụng khả năng của người khác để phục vụ cho lý tưởng của sao Tử Vi trong nhóm Tử Vũ Liêm hay mang tính tương trợ, giúp đỡ trong nhóm Phủ Tướng đơn thủ. Bố cục Phủ Tướng đặc biệt nhấn mạnh ở tính ổn định, nhóm sao này hoàn toàn không hóa khí và có thể chế hóa được đa phần các Sát Tinh duy chỉ Không Vong tối kỵ. Mệnh có sao Thiên Phủ thì thường ôn hòa, dễ gây được tình cảm của người khác, có phần như nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương. Tuy nhiên do Phủ Tướng bất hóa nên khó biến đổi theo chiều hướng cực đoan. Sao Thiên Phủ rất đặc trưng ở khả năng dụng tình cảm, nếu mệnh tốt thì là người có tình nghĩa, tâm tính tốt và cuộc sống có phần ổn định, ít biến động. Vì vậy Thiên Phủ thường được luận là sao có tinh thần tốt, nếu giao hội với nhóm Tử Vũ Liêm ổn định cách cục, Phủ Tướng mang ý nghĩa sự phục vụ theo một lý tưởng. Thiên Phủ do mạnh tính chất tương trợ, tình cảm đặc biệt là sử dụng lời nói, ngôn ngữ nên cách cục Phủ Tường tối hỉ ngộ Tả Hữu.


Khi Tả Phụ đồng độ với Thiên Phủ và Hữu Bật đồng độ với Thiên Tướng là cách cục tốt đẹp của nhóm sao này. Thiên Phủ chứa Văn Cách, không nên gặp Sát Kỵ mà hỉ được Lộc Tồn tăng tính ổn định. Với nhóm Phủ Tướng đơn thủ hay đầy đủ nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm rất cần được vòng Lộc Tồn, đặc biệt ở vị trí Lộc Tồn và Quốc Ấn. Ở xã hội thời trước hay hiện tại cũng có thể phân quyền ở văn cách hay võ cách. Ngành liên quan tới quân sự hay công an, tòa án, hình pháp, thanh tra,... thuộc võ cách ứng với mệnh cách theo chiều hướng này. Mệnh tạo có sao Thiên Phủ đắc cách thủ mệnh đa phần được thừa hưởng tập ấm, đặc biệt là cách Thiên Phủ ngộ Lộc Tồn tính chất thừa hưởng, kế nghiệp từ tổ tiên càng lớn và có giá trị. Thiên Phủ gây dựng sự nghiệp đa phần nhờ các mối quan hệ và trợ lực, giúp đỡ lẫn nhau để thành tựu, vì vậy tính chất quản lý từ nhân lực hay tài sản đều thuộc cách cục này. Sao Thiên Phủ cũng là sao chủ che giấu, chủ cái kho như các sách tử vi thường luận. Sao này thuộc khả năng tương trơ, quan hệ tình cảm nên khi đắc cách cần các sao chủ linh hoạt như nhóm Thanh Phi Phục. Thiên Phủ có hai khuynh hướng ổn định hay bất ổn định. Với cách cục ổn định rất cần có Lộc Ấn Bệnh. Với cách cục bất ổn định, cần thiết gặp Thanh Long tránh sai lầm khi phát ngôn, sử dụng phủ dụ bằng lời nói, tình cảm.


Nhóm sao đặc trưng Thiên Can tác động rất mạnh tới mệnh Thiên Phủ vì nhóm Phủ Tướng không hóa nên bốn nhóm chính gồm Kình Hao, Đà Hao, Lộc Ấn Bệnh, Phi Thanh Phục mang đặc trưng riêng khi giao hội. Phủ Tướng có Kình Hao thuộc cách cục bất ổn, với bố cục này dễ bất lợi về tình cảm, ảnh hưởng tới khả năng của Thiên Phủ ở mặt công danh. Thiên Phủ chủ ổn định, có tính tích trữ ngộ Hao thì dễ mâu thuẫn, khiến mệnh tạo khó tích lũy. Phủ Tướng có Kình Hao khi tốt là sự trợ giúp chủ động, cách Tướng Kình, đặc biệt là Đại Kình Tường khi đắc cách mang ý nghĩa hay chủ sự bảo vệ cho lẽ phải, tương trợ giúp đỡ cho kẻ yếu. Thiên Tướng thể hiện mạnh võ cách và nhóm Phủ Tường có khuynh hướng bất ổn định, vì vậy thường theo chiều hướng thay đổi, chủ động bên trong tuy nhiên ảnh hưởng tới tính chất khéo léo bên ngoài của Thiên Phủ khiến mệnh tạo dễ mâu thuẫn ngay chính nội tâm. Trường hợp này cần thiết có Hóa Khí tức Tam Hóa, Tả Hữu giao hội với Phủ Tướng để giảm xung đột của cách cục, hoặc giao hội với Từ Vũ Liêm hình thành đầy đủ nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm theo kinh thương hay quan cách đều hợp . Với cách Đà Hao ngộ Thiên Phủ có phần tốt đẹp hơn do Đà Hao chủ tính Ám hợp với tính chất của Thiên Phủ. Bố cục của Thiên Phủ ngộ Đà Hao có tính thay đổi tuy nhiên Đà La tăng tính chất bao phủ của sao này.


Thiên Phủ chủ khôn khéo, nhường nhịn thiệt hơn nên cách cục không gặp nhiều mâu thuẫn như ngộ Kình Hao. Ở đây tránh cách cục Đà Tuế khiến Thiên Phủ trở nên nói dông dài, do đây cách cục này mang ý nghĩa phơi bày các quan điểm, lập trường ra bên ngoài, tuy nhiên Đà La ngộ Thiên Phủ ưa lòng vòng, không như sao Kình Dương mang tính chủ động, ngắn gọn nên cách Phủ Đà Tuế đặc biệt khi không được giao hội với nhóm Tử Vũ Liêm tức " Phủ phùng Đà Tuế Tị cung, cuồng ngôn loạn ngữ nói rông tháng ngày". Ở đây có Quyền luận khác, gặp Linh Quyền luận tốt đẹp, nếu đủ Linh Kỵ Quyền biến thành quyền cách. Khi luận cần lưu ý biến hóa tính chất khi tạo thành các tổ hợp hay giao hội với các bàng tinh khác. Thiên Phủ nhập mệnh cần gặp Khôi Việt tăng tính chất của cách cục, với Thiên Phủ ý nghĩa vị trí Chính Tinh khi giao hội như cách Vũ Phủ, Liêm Phủ, Tử Phủ tức giao hội với nhóm Tử Vũ Liêm rất quan trọng, thứ đến là vận hành của mệnh tạo thuận ở đại vận hay gặp khó khăn. Kỵ gặp Triệt và Thiên Không, kế đến là Tuần. Trong đó cách Phủ Triệt mang nhiều ý nghĩa xấu, do Thiên Phủ chủ ẩn chứa, cũng chủ lời nói, che dấu, kho tàng, ở cơ thể là phủ tạng ngộ Triệt Lộ tính Kim khiến bố cục theo chiều hướng xấu. Ở đây nếu có Thanh Long hay Tả Phụ hoặc tổ hợp sao mang tính linh hoạt thì không luận xấu. Mệnh Thiên Phủ khó đắc cách, khi luận tránh đề cao thái quá các bố cục của sau này.

Monday, October 16, 2017

Thiên tai họa hại tới vận số



Việc nước lên rất cao do lũ lụt sau cơn bão và các đập thủy điện xả tràn khiến nhiều tỉnh ngập sụt, lũ cuốn sạt lở đất là các thiên tai gây tai họa từ xưa tới nay. Cặp Không Kiếp mang ý nghĩa của tai kiếp mang tính không lường trước được vì vậy khó phòng tránh từ trước. Ở mức độ từ vận khí của chính bản thân người, tới vận làng, vận nước đều chịu ảnh hưởng ở mức thịnh suy khí hóa không ngoại lệ. Việc xảy ra lũ lụt gây thiệt hại không chỉ về vật chất mà gây chết người. Ở Nhật Bản trận sóng thần và động đất năm 2011 gây thiệt mạng hơn 15 nghìn người. Ở nước ta do vị trí địa lý dễ gặp tai họa của lũ lụt, ở đây là do vận tập thể của cả quốc gia nên khi tác họa tới từng địa phương thì khiến nhiều người mệnh tốt đẹp nhưng vẫn phải chịu cách cục vong mạng, trừ vận khí may mắn. Khi dòng lũ cuốn thì có nơi cả gia đình mang họa tập thể tuyệt khí. Tác động khí hình của vận nước tác động tới khí hình của bản thân mỗi số mệnh. Tuy nhiên mệnh cách hợp, phúc khí lớn thì có thể thoát nạn. Sau khi lũ cuốn xong thì ta cũng hay nghe những trường hợp đương số vẫn sống sót trong cơn lũ, nhiều trường hợp hoát nhiên thoát nạn một cách may mắn khi di chuyển tới nơi khác.


Vì vậy xuất hiện bố cục Tang Hư Mã Khách. Sao Thiên Mã là ngôi sao chuyển động luôn đi cùng với nhóm Tang Hư Khách. Ở đây Thiên Mã chuyển dịch hay gọi là Dịch Mã mang ý nghĩa hướng đi, đường đi để thoát thế bế tắc trong trường hợp Tang Hư Khách trở nên xấu. Cách cục Tang Hư Khách cũng thường hay mang ý nghĩa sự khó khăn, bất hạnh mà mệnh tạo gặp phải. Khi thiên tai tới thì khí hình ứng hợp của các cách cục hóa khí thành Cát trở nên rõ ràng hơn. Nhiều trường hợp đương số bị bệnh tật nặng cần khoản tiền lớn phẫu thuật bằng không vong mạng thì Lưu Lộc là Cát Tinh, trong trường hợp này dễ vong mạng nếu không có tiền. Mệnh cách nếu khí hình mạnh thì tùy vào tác động của khí Sát mà chịu ảnh hưởng. Trường hợp xấu nhất như việc chịu tác động của bom nguyên tử như trường hợp ở Nhật Bản thì trường hợp Sát tính nặng nề thì một khu vực ứng với vận quyết định so với khí hình vận làng hay thành phố ở nơi khác là mức so sánh để xét trường hợp. Như một trường hợp nhìn thấy tầm quan trọng về quân sự là ý định phát khởi, tức Tử Vi thực hiện hành động thì mức độ khí hình tác động khiến một việc dẫn tới chọn nơi địa lý quyết định thả. Ở đây thường gọi là thiên kiếp ở vận làng. Việc không thả bom tại thủ đô Nhật Bản, hay chọn một địa điểm khác, sự quyết định bởi một tổ chức, do bên quân đội Mỹ quyết định vận số của Nhật Bản. Việc không thể tránh khỏi là kiếp nạn.  Xuất hiện các trường hợp như Nhật đầu hàng trước đó và kết thúc, hay Mỹ đưa ra đe dọa trước khi thả bom nguyên tử liên quan tới vận nước. Khi vận nước tai kiếp đã quyết định là nghiệp không tránh, khí hình đã tuyệt, sát khí ở mức cực vượng thì dẫn tới vận làng chịu tác họa. Vận làng ở tại đây có thể chọn các vị trí địa phương khác nhau nhưng chọn ở hai nơi chịu tác họa là hai thành phố Hiroshima và Nagasaki hứng chịu.


 Do tính Sát này cũng ở mức cực vượng, mang tính hủy diệt lớn nên vận mệnh bản thân phải chịu cách cục của vận làng tức tất cả mệnh tạo mức khí hình ở vị trí địa lý trên đều chịu họa kiếp của Sát và vong mạng. Cách kết cục cũng có liên quan tới vận nước do duyên được khởi tạo từ mâu thuẫn quốc gia. Ở đây luận rõ hơn có phần khi lựa chọn nơi ném bom. Bộ phận lựa chọn mục tiêu ở trung tâm nghiên cứu Los Alamost đề xuất chọn Hiroshima, Kyoto, Yokohama và xưởng vũ khí tại Kokura. Tuy nhiên từ chối mục tiêu xưởng quân sự vì quan trọng ở tác động tâm lý lên nước Nhật. Bộ phận này lựa chọn Kyoto bởi đây là trung tâm văn hiến của Nhật Bản, và có quy mô dân cư tốt hơn cả để đánh giá hiệu quả của vũ khí. Hiroshima được lựa chọn bởi đây là thành phố lớn, là cơ sở hậu cần quân sự quan trọng và thành phố được bao bởi các ngọn đồi – giúp gây ra hiệu ứng hội tụ, làm tăng sức hủy diện của quả bom. Ở vị trí Hiroshima do nhân duyên đã chịu quyết định bởi lý do trên. Bộ trưởng chiến tranh Henry L. Stimson bất chấp chống đối của tướng Leslie trưởng dự án Manhattan, gạt bỏ Kyoto khỏi danh sách bởi tầm quan trọng về mặt văn hóa của thành phố. Sau này có nhiều giả thuyết về nguyên nhân không ném bom thành phố này. Ngày 25 tháng 7 năm 1945, tướng không quân Carl Andrew Spaatz được chỉ thị ném bom một trong những mục tiêu: Hiroshima, Kokura, Nigatta hoặc Nagasaki và các thành phố khác ngay sau ngày 3 tháng 8 khi thời tiết cho phép và các vũ khí nguyên tử bổ sung nữa sẵn sàng. Khi ném bom trong thành phố Hiroshima có khoảng 250 nghìn người.


Quan trọng hơn là Nhật phát hiện máy bay mang bom của Mỹ nhưng lý do nào đó nên không bắn. Hai vị trí thả bom trong số các thành phố được lựa chọn. Sự chọn lựa ở các Thành Phố chuẩn bị phát khởi cho tai kiếp quyết định ở vận làng. Ngay lập tức khi quả bom thả thì số người chết hơn 90 nghìn người. Hết năm 1945 tổng số người chết là hơn 145 nghìn trên tổng số khoảng 250 nghìn dân. Thực chất mỗi người đều có linh tính về tai họa sắp xảy ra, tuy nhiên do tai kiếp mà mức độ khác nhau tới vận số. Với quả bom thứ hai thả xuống Nagasaki vội vàng rơi vào giữa hai mục tiêu chính gây chết lập tức 70 nghìn người. Trước khi tai họa này xảy ra sẽ xảy ra một số trường hợp đơn lẻ rời khỏi vị trí này, thường mệnh tạo có sao Linh Tinh hay mệnh có Đồng Lương đắc cách sẽ thoát khỏi các tai họa mang tính vận nước như vậy. Một bối cảnh chiến loạn thì dẫn tới khí Sát tràn ngập và chuyện chết trở nên dễ dàng với các bố cục Sát trong tử vi. Đặc biệt ở đây khí hình vận số sẽ tác động rất lớn tới lá số tử vi. Trước khi xảy ra một tai họa lớn tới mức diệt vong bộ phận lớn thì khí hình tác động phải lớn tới vận khí quốc gia. Ở đây việc bão lũ lụt là chuyện hay gặp ở nước ta. Việc mất hết tài sản tức phá dản cách hay gặp ở bộ Vũ Phá khi xấu thì mệnh tốt nếu gia sản ở vị trí trọng yếu của cơn lũ cũng dẫn tới thiệt hại hoàn toàn. Ngoài Thiên mệnh ta còn hay nghe tới Nhân mệnh, khí hình của mệnh tạo thay đổi do hoàn cảnh bên ngoài và cũng do chính bản thân đương số. Khi luận cần xét rõ các phần quan trọng để tránh luận sai lầm.


Thiên tai là Không Kiếp khiến bộ sao này được luận là đại sát tinh. Luận lá số tử vi không quan trọng mệnh tạo có cát tinh hay sát tinh. Quan trọng là hợp hay bất hợp thì tránh được sai lầm về tính chất các tổ hợp. Kình Hao trong chiến tranh là chủ động tấn công quân địch. Xét ở mặt bệnh tật là việc phòng chống lại bệnh tật xâm chiếm. Xét tới sự nghiệp là công danh tới sớm. Với Kình Dương đôi khi ta là người bị tấn công, khi Kình hóa Sát thì ứng hợp gây ra thương tích. Một Kình Dương cũng có thể là quân tử, cũng có thể là tiểu nhân ưa cướp bóc tùy vào mức chế hóa. Thiên tai họa hại hay môi trường tốt là tác động ở hoàn cảnh. Với cuộc sống trong môi trường văn học thì Kình Dương trở thành tác phẩm văn mang tính công kích, trong văn thơ cũng chứa thép tức có Kình Dương. Việc ứng hợp bố cục biến hóa vô cùng. Trong khó khăn thì thường thấy được tình người tương trợ, đây là mặt tốt của Sát tinh tức ý định nhường cơm sẻ áo trong khó khăn, hay việc Mạnh Thường Quân mà nhiều người luận không rõ mà chỉ nhìn vào mặt tác họa, kẻ dụng được bố cục Sát cũng là kẻ thành công. Việc đơn giản như một kẻ sát nhân, như binh lính bất dụng lý tình chỉ chứa tính Sát thì tài giỏi tới mấy cũng là kẻ đồ tể. Ngoài thực tế cần nhìn ra các mức độ hay biến hóa của các cách cục Sát, hoàn toàn khác nhau ở mệnh thượng cách hay hạ cách. Ở đây hoàn toàn chưa xét tới sự sáng suốt mà chỉ nhìn vào cách chế hóa của mệnh tạo. Không phải mệnh thượng cách là người xây dựng xã hội. Nhiều kẻ phá hoại về đạo đức cũng có thể lên đứng đầu. Như xét về trường hợp tranh giành của vua chúa thời phong kiến, mang quân đi đánh các nước tạo họa sát. Hay trường hợp của Hitle cả thế giới lên án. Cái thiên mệnh tạo nên chỉ lừa gạt giữ vững quyền lực. Mọi mệnh tạo đều có thể thay đổi số phận tới mức cao nhất, quan trọng là thời vận và cách dụng.

Monday, October 9, 2017

Lá số tử vi giáo sư Ngô Bảo Châu



Mệnh cách của giáo sư Ngô Bảo Châu nếu người có kiến thức về tử vi nhìn tướng học và luận quá khứ sự kiện của ông thì luận ra đây là người mệnh Cự Môn. Ở đây chịu cách cục thị phi và bất mãn của Cự Môn. Trên các diễn đàn trên mạng bàn luận đưa ra các cách luận cho lá số của mệnh tạo với bố cục Cự Môn với các cách giải thích khác nhau về mệnh cách bình thường của giáo sư nhưng được cát hoá phản vi kỳ cách trở nên tốt đẹp với mệnh Cự Môn độc tọa tại cung Hợi.  Lá số tứ trụ ngày 28/6/1972 dương lịch giờ Mùi. Mệnh tạo thuộc Mộc bản cung thuộc tổ hợp Cự Cơ Đồng là bố cục mâu thuẫn, bất mãn khi Cơ Đồng trong nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương giao hội với Cự Môn trong nhóm Cự Nhật và bản cung mệnh có cách Cự phùng Tồn tú cát xứ tàng hung là đúng cách. Luận mệnh cách của Tử Vi Đông A xét tới bố cụ khí hình của đương số và trợ cách hướng dụng, bất luận lá số không có việc trường hợp phản vi kỳ cách là đổ lỗi cho việc không rõ ngọn ngành của bố cục. Đương số mệnh cách Cự Môn là ngôi sao tài năng, tuy nhiên bản cung mệnh có cách Cự Ấn ngộ Xương Khúc ở thời nay do khí hình ban đầu của đương số rất tốt đẹp, theo trợ cách khuynh hướng Văn Cách nghiên cứu của Cự Môn thì được luận ở chữ sâu sắc, nghiên cứu sâu rộng cũng chính do tính chất bất mãn của Cự Môn.



Ở đây cách Cự Môn độc tọa tăng mâu thuẫn bất mãn khi Lộc Tồn tức bộ Tồn Bác đồng độ tại bản cung khiến đương số càng khó khăn nếu theo khuy h hướng tài cách, cũng con đường học thuật là cách càng nghiên cứu càng mắc thêm vấn đề, ở đây gặp vấn đề bất mãn trong học thuật có phần hay hơn là trong cuộc sống hay công việc trong một tổ chức với Cự Môn. Với mệnh tạo Cự Ấn thì đương số sớm muộn rời khỏi đất nước, hoặc tùy cách cục mà rời xa quê hương, để lại các dấu ấn ở lại. Người viết gần đây có luận cho một mệnh Cự Môn có mệnh Cự Cơ ngộ Song Lộc tức Hóa Lộc và Lộc Tồn tại bản cung Linh Kỵ giao hội với bố cục Cự Cơ Đồng. Nhiều người nghiên cứu tử vi luận mệnh cách là số phát tài cách, được Cự Cơ chủ giàu ngộ Song Lộc là cách buôn bán mà giàu. Thực chất do không luận được khí hình của đương số và hướng đi trợ cách mà đưa ra các luận đoán sai lầm. Ở đây đương số có học vấn rất cao làm ngành tiến sĩ về kỹ thuật cơ điện bên Hoa Kỳ tiền bạc cũng rất dư dả, tuy nhiên tiền ở đây do Hóa Lộc tạo ra không do Lộc Tồn. Bố cục này phát triển theo hai hướng Quan Lộc Cách hoặc Văn Cách. Đương số nếu theo con đường quan lộc thì là mệnh bình thường, dễ gặp cảnh bất mãn trong tổ chức. Nếu theo nghiên cứu dụng trợ cách rất tốt đẹp.



Ở đây mệnh cách của giáo sư Ngô Bảo Châu khi cách cục trợ cách hướng tới chính trị khiến tai họa rất lớn, cơ bản thể hiện bố cục của Cự Tồn biểu hiện ở thực tế khi các phát biểu của đương số về chính trị gây nên thị phi lớn. Ở đây nhiều người nghiên cứu mệnh thuộc phản vi kỳ cách vì Cự Môn được Tuần Triệt. Nếu có nghiên cứu về Tử Vi Đông A thì luận lá số này không cần thiết phải đưa ra những cách cục phản cách mà tuân theo bố cục bình thường của tử vi. Thực chất lá số này được danh rất lớn do bố cục của Vòng Trường Sinh ở cung an Thân có Thiên Lương, đặc biệt cung độ Thiên Di có Thái Dương sáng nhập vị trí Trường Sinh nên cát hóa mệnh cách ở vị dương lên khi ra bên ngoài. Điểm mạnh của lá số ở khí hình ban đầu như người viết có luận về một cậu bé thiên tài trong bài "Mức chế hóa trợ cách với tổ hợp Sát lược giản" nhờ giáo dục của cha mẹ và định hướng ban đầu theo khoa học mà thành tựu chế hóa toàn bộ cách cục Sát. Và khi bố cục của đương số cũng hợp cách với Cự Tồn thì dễ có tài sản nhà đất tốt đẹp. Ở đây có cách Quang Quý Cự Tồn là ân thưởng, trao tặng kỷ niệm với Quốc Ấn. Tất nhiên do khí hình lúc này ở mức cực vượng tới quốc gia nên luận bố cục theo mức chế hóa như vậy. Ở phần tiểu sử của Ngô Bảo Châu có viết tới "Ngô Bảo Châu được sinh ra ở trong một gia đình có truyền thống trí thức. Ông chính là con trai của chính Tiến sĩ khoa học ngành cơ học chất lỏng là Ngô Huy Cẩn, hiện tại đang làm việc ở tại Viện Cơ học của Việt Nam. Mẹ của ông chính là Phó Giáo sư, Tiến sĩ dược Trần Lưu Vân Hiền, hiện tại bà công tác ở tại Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương, nước Việt Nam. Ông chính là cháu họ của Ngô Thúc Lanh, đây là một Giáo sư toán đã viết cuốn sách Đại số đầu tiên".



Ở đây khí hình của Thiên Cơ nhập dụng chế hóa đúng hướng ở cách nghiên cứu cơ khí. Gần đây luận cho mệnh tạo Cự Cơ cư Mão ngộ Việt Linh Hình Kỵ Hình Khoa Quyền giao hội Tang Hư Mã là bố cục xấu tác họa rất lớn, có thể vong mạng hoặc bị bệnh tâm thần, động kinh khi nhập vận Sát Phá Tham có Hỏa tuy nhiên đương số vẫn cuộc sống bình thương, do Phụ Mẫu làm công chức nhà nước về cơ khí. Bản thân đương số theo ngành công nghệ thông tin, hợp cách nghiên cứu. Giáo sư Ngô Bảo Châu với khí hình ban đầu rất mạnh, đương số phúc khí của dòng họ lớn. Cung an Thân cư Phúc Đức nhập Mộ có Thai Tọa là cách Mộ Trung Thai Tọa, đắc vòng Trường Sinh với Âm Dương sáng. Ứng hợp hơn với bên ngoài dòng họ khí hình lớn khiến đương số hoàn toàn hợp cách. Như lá số của hoàng đế Chu Nguyên Trương và người nuôi ong giống nhau nhưng ứng hợp khí hình của Phúc. Không bàn luận tới tính xác thực của điển tích mà tử vi chính tông tiền nhân muốn để lại là khí hình của đương số ứng với cách cục thực tế ngoài thực tại. Khí hình là tư tưởng thực tại. Đương số mệnh nghèo nhưng tâm hướng tới đại phú không rời bỏ suốt thời gian dài thì khí hình theo ham muốn là bố cục Tử Vi - Phá Quân - Cự Môn hoạt động liên tục. Như bước thang khiến khí hình tăng trưởng liên tục thì tạo được mệnh thượng cách. Lý của Tử Vi Đông A là như vậy.



Tử Vi Đông A là triều đại Đông A với " Hào Khí Đông A". Theo lối chiết tự, Trần còn được gọi ẩn dụ là Đông A (do chữ Trần 陳 được ghép từ hai thành phần là Đông (東) và A (阿)). Khi nhà Trần tại Việt Nam giành chiến thắng trong ba lần đánh bại đội quân hùng mạnh Nguyên Mông thì khí thế chiến đấu của quân dân nhà Trần được gọi là "hào khí Đông A". Liên quan tới việc vua Trần Nhân Tông tìm tới cái Không, ưa xuất gia tăng đạo lập nên Thiền phái Trúc Lâm, bỏ qua cái tham thường tình ái, hưởng thụ vật chất, quyền lực là một câu chuyện trong cuộc mà Tử Vi Đông A có được một phần dấu tích còn lại. Việc đánh bại ba lần đạo quân hùng mạnh Mông Cổ. Với ý trời, một chữ bất ngờ, không ngờ của chữ Không tạo nêm kết quả phi thường.  "Sau thất bại lần thứ ba năm 1288 ở Đại Việt, Nguyên Thế Tổ - Hốt Tất Liệt vẫn chưa muốn đình chiến. Sang các năm sau, vua Nguyên tiếp tục muốn điều binh sang nhưng chưa gặp thời cơ thuận tiện. Có năm sắp tiến quân thì chánh tướng chết nên hoãn binh, năm sau định đánh thì phó tướng lại chết nên lại đình chỉ việc tiến quân. Tới năm 1294 lại định điều binh lần nữa thì chính Hốt Tất Liệt chết. Cháu nội là Nguyên Thành Tông lên ngôi không muốn gây chiến với Đại Việt nữa. Việc chiến tranh với nhà Nguyên từ đó mới chấm dứt". Vua Trần Nhân Tông trị vì tới năm 1293 thì yên tân truyền ngôi. Hốt Tất Liệt vẫn muốn đánh, năm sau tức 1294 phải mãn kiếp. Hoàng đế sau không muốn sát phạt Đại Việt, bỏ ý định đánh chiếm. Thực chất lá số tử vi của vua chúa thời trước và của nguyên thủ quốc gia thời nay ảnh hưởng lớn tới vận nước. Đặc biệt với người có khả năng truyền thừa chính tông luận tử vi sẽ ảnh hưởng nếu mệnh số của đất nước được luận. Vì vậy, khi luận thì nhiều người nghiên cứu huyền học có khả năng nhưng không lưu truyền những kiến thức sâu về tử vi. Cũng như cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm với sấm truyền của môn Thái Ất Thần Kinh. Thực chất việc nhân định thằng thiên là chuyện hiển nhiên từ cổ chí kim.

Sunday, October 8, 2017

Vũ Phá nữ mệnh luận sơ lược trợ cách ( phần 1 )



Với Vũ Phá ngộ Tuần Khoa Quyền Xương Khúc tam hợp có Kình Hỏa thì khả năng chế hóa cặp Không Kiếp rất lớn. Tức mệnh tạo khi qua hành vận gặp cặp đại sát tinh này sẽ không chịu tai họa nặng nề như các bố cục khác. Người viết luận lá số Vũ Phá cư Hợi ở đây là trường hợp giao hội tốt nhất của Vũ Phá tuy cũng gặp bố cục Sát là Hỏa Kình tuy nhiên là cách cục hay về tài cách. Một điểm chính luận ở bộ Vũ Phá là sự đánh mất thời gian, tuổi thanh xuân, phí phạm tuổi trẻ và bắt đầu trở nên tốt đẹp khi thành đạt kể cả bố cục đắc cách như trên. Một điểm xấu là đương số đi sai hướng để dụng bố cục Vũ Phá đắc cách và Tử Tham Kình Hỏa trợ lực lực cát hóa rất mạnh theo tài cách.  Riêng biệt cách Tử Tham là ham muốn, lý tưởng cách khi nhập cát hóa có khuynh hướng lấy lý tưởng làm động lực phát triển. Ở đây cách cục này đương số nên có khuynh hướng tới tôn giáo, sẽ chế hóa được sát tinh của nhóm Sát Phá Tham giao hội với nhóm sao bạo lực Tử Vũ Liêm cũng hợp với nữ mệnh. Ở đây tử vi đông a nghiên cứu trợ cách luôn chú trọng tính Không vì chính bố cục này có tính chất kháng cách mạnh nhất trong tử vi. Đương số cần thay đổi dụng cách vì ứng hợp với thực tế của hướng đi hiện tại là không phù hợp và phá cách khiến bố cục thượng cách của Vũ Phá trở nên hãm địa.


Ở đây nhiều trường hợp dụng sai chữ nhập Miếu Địa và Hãm Địa. Miếu và Hãm,  tiền nhân hướng tới một phần vị trí của bố cục như thường luận, một phần nhấn mạnh tính chất tác động của bố cục mà Thể tức lá số tử vi và Dụng là biến ứng với thực tế bên ngoài tác động. Đại vận đầu tiên ở bố cục Vũ Phá khá tốt hình thành văn cách, có sự tham muốn, ước mơ khá đúng hướng tốt đẹp. Nhưng càng trưởng thành đương số càng gặp trở ngại của bố cục Vũ Phá vì cách cục này bất lợi cho tuổi trưởng thành và chỉ hay khi tuổi trung niên, chủ gặp nhiều khó khăn, bất mãn phải trải qua dù mệnh tạo tốt đẹp. Ngay tại cách cục Vũ Tham đồng độ tại Sửu Mùi khá hay cũng luận giàu có trung niên. Với bố cục Vũ Phá của đương số mức khí hình ban đầu càng lớn thì đại vận trung niên hoạch phát càng mạnh. Mức độ khí hình cao sẽ đi liền với áp lực lớn, ở đây như một cách chế hóa ban đầu khi chịu áp lực và tạo nêm thành tựu sau khi vượt qua khó khăn. Ở ngay đại vận thứ hai có bố cục Cơ Nguyệt Đồng Lương với bản cung gặp sao Thiên Đồng. Ở đây có Thiên Đồng tại bản cung vận ngộ Kiếp Phượng Ấn giao hội Mã Khốc Khách. Ở đây nhập vòng Trường Sinh có tác động chế hóa lớn tới bố cục này. Thực chất ở đây cách cục cát hung tương bán. Sao Thiên Đồng chủ phúc, cũng chủ tập thể, với Thiên Đồng trong nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương hoàn chỉnh là ổn định, tuy nhiên ở đây gặp Kiếp Tồn Cô Quả Ấn Phượng ngộ Tuần và đắc Sinh Vượng.


Ý nghĩa của bố cục này là sự không yên bình, tồn tại bất mãn, khó khăn trong tình cảm, nhóm sao chủ tinh thần gặp bố cục xấu. Một Ấn Phượng có Tồn Kiếp ở đại vậm này để lại một dấu ấn khó phai. Với Phượng Ấn ngộ Đồng tại bản cung thì luận với cách Khốc ngộ Ấn tức kỷ niệm buồn ở đây, có thể gặp trường hợp người thân mất trong vận này nếu không cũng gặp phải đau buồn về gia đình. Ở đây vận này có tác động tạo nên sức chịu khó khăn cho đương số. Do bố cục luôn tồn tại tai họa ở vận này nên Vũ Phá luôn cần giải quyết các công việc tuy nhiên bản thân không gặp tai họa vì mệnh cách tốt đẹp và cung đại vận có Kiếp Tồn khiến Phá Quân gặp họa khi cố gắng thay đổi nhưng mọi việc vẫn tồn tại như cũ. Phá Quân có thể khám phá ra tai họa, nguyên nhân nhưng không thể thay đổi tình hình là cách cục của đại vận này. Với cách Đồng Kiếp tại bản cung thì họa tới là họa chung, họa tập thể . Thiên Đồng xấu là không may mắn, không được hưởng thụ mà phải làm việc. Sát Phá Tham vận này do có Cô Quả sẽ hiểu được luật nhân quả vì kết quả tới rất nhanh khi tạo ra hành động. Cách cục này mang ý nghĩa xấu, chủ dễ được đứng đầu, hay có thể lãnh đạo với nam mệnh, tuy nhiên với nữ mệnh ở đây tạo thị phi với Vũ Phá theo văn cách và hoạch phát nếu Vũ Sát theo tài cách.


Nữ mệnh có tính Âm bất ứng Dương không dụng được Vũ Sát mà đa phần phải chịu tai họa, nếu tính cách ban đầu như nam nhi, thể hiện ra bên ngoài thì có thể dụng cách này ổn định. Tuy nhiên còn hướng khác cần sử dụng nghề nghiệp phù hợp với bố cục. Đại vận này đã qua nhưng là quan trọng cho việc lấy khí hình của lá số nên người viết luận các hướng đi rõ ràng. Đương số trong vận này từ 16 đến 25 có thể theo Quan Lộc Cách hoặc Tài Cách. Lại hai khuynh hướng ổn định và đột phá. Nếu theo Tài cách theo hướng thay đổi đột phá mang tính chất của Không Kiếp tại vận này báo hiệu trước một sự khó khăn rất lớn, những bất ngờ ẩn sau sự thanh bình vốn có. Nếu theo tài cách cần lấy văn cách làm trợ lực, tức sử dụng những kiến thức hiểu biết hay mối quan hệ xã hội, cũng như danh tiếng đã có để thực hiện ham muốn, chủ động là Hỏa Kình cách.


Đại vận này tuy không tốt nhưng nhập được vòng Trường Sinh với tính chất khí hóa tăng cường chế ngự cặp Không Kiếp Lộc Tồn, một sự bất mãn luôn tồn tại và Tam Hóa ngộ Vũ Phá lấy đây làm cái để thay đổi phá bỏ tạo nên con người mới, cách cục mới. Quan trọng là có chơi lại được cách Đồng Cơ Không Kiếp hay không. Tuy nhiên đương số do ảnh hưởng từ đại vận hiện tại và đại vận đầu tiên chứa Khoa Kình nên dễ theo cách cục của Quan Lộc. Vì vậy đại vận này sẽ không có được khí hình tốt đẹp tức khả năng phẩm chất của tính cách, kinh nghiệm trong tài cách với mức tham vọng với xung quanh.

Saturday, October 7, 2017

Mức chế hóa trợ cách với tổ hợp Sát lược giản



Phân loại việc chế hóa các bố cục sát đa phần gắn với thực bên ngoài. Sát tinh được chế hóa hữu dụng, tuy không có tính ổn định lớn như bố cục của các sao được luận Cát Tinh nhưng mệnh tạo thành công theo hướng vượt qua gian khổ mà thành tựu, các phẩm chất tốt đẹp như quyết đoán, khả năng bám trụ với quyết tâm, suy xét nắm thời cơ đều có sự tác động của Sát Tinh. Ở đây luận bố cục Sát gọi chung cho Lục Sát Tinh gồm Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp và các Chính Tinh như Thất Sát, Phá Quân, Vũ Khúc, Cự Môn. Về hóa khí là Hóa Kỵ và bàng tinh là Thiên Hình, Kiếp Sát. Tử Vi đặc biệt theo Đông A gắn liền với thực tế, lấy việc thành tựu tức mệnh quý do chế sát hay mệnh nghèo, yểu bị sát tác họa để luận. Với mệnh tạo chứa bố cục tổ hợp Sát Tinh tùy mức độ gia hội để luận. Trường hợp giao hội và tạo thành cách cục lớn khó chế hóa nhưng khả năng thành tựu lớn, tức mức hoạch phát lớn hơn trường hợp còn lại. Trong thực tế việc mệnh tạo chịu tác động của Sát Tinh gồm hai trường hợp chủ động và bị động. Với mệnh tạo trường hợp chủ động nếu gặp bố cục Sát thì luận phần mức độ chế hóa cũng như trên. Mệnh có khí hình bên ngoài, ở đây luận khí hình tổng quan thấp thì đây thuộc kẻ ưa lấy của người khác làm của mình, do bất kiến trợ cách hoặc theo chiều hướng văn cách nên Sát Tinh tác họa ở tính cách ưa làm việc bất lương vì lợi ích.


Thường gặp việc ăn cướp giữa đường hay trộm cắp gây thương tích để chịu vi phạm pháp luật. Với trường hợp này không có một phần dụng Sát, chịu tác họa của Sát Tinh hay luận tỏng sát. Mệnh tạo khó thành tựu được sự nghiệp lớn do nhìn thấy lợi trước mắt không suy nghĩ bỏ quên cái lợi lâu dài, trường hợp tạo hành vi bất lương thuộc bố cục này vì không suy nghĩ tới hậu quả sau mà chỉ lợi trước mắt. Biết trước tai họa vẫn làm, vận cung trọng điểm sát tinh trùng phùng kích phát khiến đương số thực hiện các hành vi phóng hỏa, giết người, gây thương tích, hoặc một số trường hợp gây họa về dục tính do bố cục chứa Đào Hồng Không Kiếp, các trường hợp phạm tội ở trên báo chí về những việc này thuộc trường hợp trên. Do mệnh tạo khí hình ban đầu và tác động của hoàn cảnh tới kết hợp với tính chất của Mệnh gây ra. Cũng trường hợp này, mệnh tạo cuộc sống không có lý tưởng, hướng xây dựng hay cống hiến, nhìn lợi ích trước mắt không nhìn hậu quả, chế hóa dạng này rất khó khăn vì bố cục Sát Kỵ Hình trùng trùng, có thể khiến mệnh tạo từ cách cục chủ động trở thành nạn nhân của Sát. Như việc một kẻ giết người thì bản thân bị tử hình,... Một biến cách chế hóa một phần Sát của bố cục này là việc mệnh tạo có bố cục mệnh cách cao hơn trường hợp trên, đương số có khả năng đứng đầu,  tạo lập thành ổ nhóm, tổ chức với tư tưởng, khuynh hướng riêng thì mệnh cách đã có cách cục chế hóa Sát tuy không hoàn toàn nhưng đa phần ở dạng này biết suy tính thiệt hơn, văn cách giao hội trợ lực.


Tuy nhiên bố cục này vẫn có nguy hiểm lớn do Sát khi gặp vận xấu. Xét về trường hợp bố cục Sát biến đổi theo chiều hướng văn cách. Ở đây theo chiều hướng văn cách bao gồm giao hội các văn tinh và việc chế hóa theo khuynh hướng tình cảm, nghĩa lý tương trợ để luận. Mệnh cách hướng Sát ở vị trí chủ động khi bố cục Văn Cách ở mức thượng cách, với đa phần Sát Tinh được chế, như việc Không Kiếp được Phá, Cự hay Tả Hữu Quyền Lộc, hoặc như bố cục Kỵ Hình được Xương Khúc, Tam Hóa, Thanh Long thuộc cách cục này. Ở đây mệnh tạo có bản tính và phẩm chất tốt của Sát như việc quyết đoán, kiên trì, chờ đợi thời cơ. Do sát được chế nên cái dễ nhìn thấy là mệnh tạo có phần cư xử văn hóa, dễ thân cận nhưng quyền lực lớn. Ta hay gặp ở những người kinh doanh thành đạt, những chính trị gia quyền lực lớn, những người có uy tín ảnh hưởng về một số lĩnh vực. Ở đây do được văn cách trợ lực, như việc có Xương Khúc chủ hiểu biết, chữ đạo đức, tình cảm trái với Sát. Sát Tinh được chế hóa thành khó khăn và quyết tâm. Một chữ Sát nhưng biến hóa vô cùng khi ứng hợp bên ngoài, với các bố cục đều do Khí và Hình dẫn dắt để phát khởi ngoài thực tại.


Ngay ở bố cục hóa Sát thành Quyền này chia làm nhiều khuynh hướng biến đổi tùy thuộc vào khả năng dụng của bố cục Mệnh. Như trường hợp người đứng đầu tổ chức đứng lên đấu tranh cho quyền lợi có cách cục trong tử vi và ý nghĩa Sát cách khác hoàn toàn với việc, một mệnh tạo quyết tâm chịu gian khổ phấn đấu để giành được địa vị sinh sát cao trong xã hội. Như đã luận ở nhiều bài viết về sính chất của Kình Dương chính là sự cạnh tranh, tranh giành, cướp bóc, tiến công, chống trả, gây dừng tùy từng bố cục để luận tính chất của Sát Tinh này. Khi được chế hóa thì Kình có thể tốt đẹp như giành lại công bằng cho kẻ yếu, tấn công tiêu diệt kẻ gây nguy hại, xây dựng công danh, chủ động trước khó khăn,... Bố cục biến hóa rất lớn do khí hình và bản thân tổ hợp cách cục. Khí hình phần nhiều là sự tác động của xã hội quanh nhận biết đương số hướng tới. Như cổ nhân hay luận " Vào thời bình thì chúng một lũ ô hợp, khi chiến loạn hết thảy đều lập công lưu danh hậu thế". Khí hình của vận nước tác động tới cách cục Sát được luận và nghiệm lý quan trọng của Tử Vi Đông A, cũng thường hay nghe " Thời thế tạo anh hùng" là bố cục của dụng chế hóa Sát khi ứng khí hình vượng.


 Người viết luận mệnh ứng cách cục bần tiện như phú giải thí nhiều trường hợp Lộc Tồn ngộ Không Kiếp Kỵ hình thành cách cục phá tài nếu theo tài cách, là bố cục mang họa vô đơn chí, dễ vong mạng hay bệnh nan y khi vận xấu, trùng phùng đại tiểu vận. Tuy nhiên đương số chế hóa bố cục này theo hướng nghiên cứu khoa học, phát minh sáng tác nên ứng hợp có được danh lợi và tiền bạc khá đầy đủ. Tuy vẫn mạng vong khi vận tổ hợp Sát then chốt nhưng hoàn toàn khác với lá số tử vi luận nếu không nhìn khí hình. Trường hợp mệnh tốt nhưng thực tế tầm thường cũng không hiếm gặp. Ở bố cục chế hóa Sát chủ động cách phân biệt ở mức độ của Văn Cách trợ lực hay theo khuynh hướng Võ Cách. Với trường hợp chế hóa theo hướng chịu Sát tác động luận phân các mức độ trợ cách và khí hình như trên để luận rõ. Về việc khí hình thường lấy cung trọng điểm của bố cục Sát nhìn quá khứ thì được khí hình ban đầu, tuy khác với thực tế do lá số tử vi luôn chuyển động nhưng có giá trị để xét nguyên cục của bản mệnh. Một câu bé có trí tuệ rất cao là Jacob Barnett mắc bệnh tự kỷ, cũng nhiều người vĩ nhân mắc bệnh này. Ở đây là sự chế hóa của Sát mà do từ khí hình tác động mạnh. Do tác động của hoàn cảnh nơi giáo dục mà từ nhỏ được tiếp xúc với khoa học và giáo dục hướng tới khoa học, có khuynh hướng ưa thích thiên văn và vật lý. Nếu trong trường hợp mệnh tạo sinh ra tại khu vực dân trí thấp, thiếu lương thực, đói khổ hay ở vị trí khác như nước ta thì không thể chế hóa được bố cục này mà đương số phát triển theo chiều hướng khác. Cũng như việc kẻ chỉ giỏi văn làm việc đấu đá chân tay là bất hợp. Tử vi luận cũng như vậy.

Tuesday, October 3, 2017

Tử Vi và tri kiến phương Đông ( phần 2 )


Tất nhiên tử vi xem ở con vật sẽ loại trừ nhiều tinh đẩu không cần thiết, trong đó chỉ giữ phần cốt yếu các sao mô tả tính cách, bản tính có từ thời bàn cổ. Một con vật đầu đàn là con vật được tôn trọng, có thể do sức khỏe hay do trí khôn. Trong một đàn gia súc hay gia cầm rõ thấy bản tính của từng con vật có phần khác nhau, và rõ ràng nhận ra nhiều tính cách của con người như cạnh tranh, nhẫn nhịn cũng xuất hiện ở đây. Tài liệu và nghiệm lý huyền học tiền nhân đã khảo cứu rất công phu tuy nhiên người viết không bàn sâu về vấn đề này. Tử vi với nhiều khám phá của tiền nhân về các thuyết Âm Dương, Ngũ Hành, Vòng Trường Sinh,... với các sao là khí vị của cơ thể cũng liên quan một phần tới Thiên Văn, trời đất có tính linh dị mà đưa ra dự đoán cuộc đời như một cái máy định trước. Vì vậy người xem tử vi hay toán mệnh cảm thấy cuộc đời như được định sẵn, không tồn tại nhiều cho ý thức và suy nghĩ mà hành động có phần theo bản năng , có thể dự đoán được một phần lớn của tính cách và đại vận tốt xấu nếu đương số có cuộc sống bình thường. Xã hội tác động lớn tới nhận thức và ở đây chính là khí hình của mỗi mệnh tạo. Dụng hay không là ở mức độ khí hình này. Cung mệnh và cung an Thân cho thấy sự gắn kết nhưng thực chất lại rời rạc của cơ thể và suy nghĩ. Tuy vẫn có sự liên kết, nhưng cái đơn giản là ngay trong bản thân ta, cũng chỉ có quyền làm chủ một số phần. Không thể tự bắt tim ngừng đập, thân thể sống mãi không già, đặc biệt là không suy nghĩ trong một thời gian. Cái thân thể như được tâm thức gắn vào và không hoàn thiện. Do nhìn thấy sự tiến hóa của các loài vật do dụng tâm sở do hoàn cảnh tác động thì tiền nhân luận rất nhiều loại vật như rùa sống rất lâu, tê giác có cơ thể cứng như sắt, mới đây các nhà khoa học thông cáo trên báo đài tìm thấy loài vật bất tử.


Trong khi con người phát triển theo nguyên thủy tới nay chủ do tranh giành thức ăn, tích lũy của cải, làm việc hay phát kiến từ các thời đại đồ đá, đồ đồng tới gần đây để tăng năng suất tạo ra của cải cũng được nhiều thành tựu lớn. Khi một bộ phận người Phương Đông có thức ăn đủ để duy trì sự sống, suy nghĩ về cái chết, hướng tâm tới tìm kiếm về trường thọ, tìm hiểu chính nội tâm và bằng phát triển ngay trong nội tâm, ép hoàn cảnh bằng mục đích khám phá nội tâm,  như các loài vật chịu tác động của môi trường để thích nghi tiến hóa. Cũng như vậy, dần phát hiện và tách bạch hai phần Tâm Thức và Thể Xác, cùng với thành tựu, hiểu biết về các vòng khởi phát hành khí như vòng Trường Sinh thì chữ luân hồi được đặt ra câu hỏi. Với tốc hành tâm hướng tới mục đích trong rất nhiều giai đoạn lịch sử được thực hiện bởi nhiều thế hệ nghiên cứu,  thì thành tựu cũng được khoa học Phương Tây công nhận và bắt đầu nghiên cứu.


Người Phương Đông do tìm hiểu sâu trong nội tâm, ngay chính tâm thức để làm nội dung. Ở đây sử dụng chính là Thiền Định. Thí như người mù từ thuở nhỏ có một thính giác phát triển siêu việt hơn bình thường vì tâm tập trung ý vào việc phát triển nghe,  do môi trường bắt buộc định hướng không gian bằng âm thanh. Các nhà khoa học Phương Tây đánh giá Thiền Định khai mở vị trí tuyến tùng có cấu tạo có phần như mắt nhưng đã bị thoái hóa khi trưởng thành. Và Thiền Định khơi dậy con mắt đó. Không cần các nghiên cứu khoa học thì Phương Đông đã có từ xưa bức tranh mô tả con mắt thứ ba ở trên tượng thần từ rất lâu, ngay cả thuyết Âm Dương cũng biểu thị đúng tới mức độ rất rộng lớn, gần như mọi vật và mọi tính chất. Việc Thiền Định thường mang lại nguy hiểm vì các suy tưởng rất khó nhận biết như tiềm thức bắt đầu hiện lên ở dạng tưởng thức. Như một người ban đầu tập đi xe đạp, gồm các động tác phức tạp. Hay bước đi đầu đời thì sẽ chú tâm tới từng động tác nhỏ. Tới khi thành thục trong tâm khởi lên thì tưởng tự hoạt động như vô thức mà không cần chú tâm khiến bản thân tưởng chừng như không tồn tại các động tác nhỏ mà tự động thành từ ngữ Đi. Sau này lại có thể vừa đi xe đạp, vừa giữ thăng bằng, vừa quan sát và một tay nghe điện thoại nhưng vẫn hiểu được cuộc gọi. Thiền Định có chức năng khai mở tâm thức, người đã thực hiện sẽ tự hiểu câu nói trên, vì vậy được đánh giá và có cấu tạo như con mắt soi sáng. Ở đây cũng thường được gọi là linh tính. Khi thiền định một thời gian thì có thể suy tưởng một hành động và kết quả trong đầu. Một thí nghiệm tưởng tượng nổi tiếng người viết có cơ hội đọc của bác học Anhxtanh thuộc dạng này, khiến sự liên tưởng có thể đưa ra kết quả đúng với nhận thức.


Cũng như vậy thì khi hoàn thiện suy tưởng, người thực hành hướng tới năng lực đặc biệt. Giải thích cho việc nhiều người tu hành như thiền sư có năng lực đặc biệt. Khí công bí truyền cũng cần tưởng ấm để hoạt động mạnh, việc tập trung và thiền định quán tưởng là cơ bản của khí công. Một số dạng đặc biệt đã được công khai ngoài đời thực như nhìn xuyên báo khi bị che mắt của người phụ nữ ở nước ta là dạng sử dụng tưởng ấm này. Cụ ông người Ấn Độ không ăn trong thời gian dài nhưng cơ thể tự thích nghi, tự hấp thu lại nhiều lần, tưởng thức việc nữ thần rót thuốc tiên vào miệng mình. Việc khí công sư Chu Đình Tước hay Zhou Ting Jue công khai ra khoa học khả năng đốt cháy vật bằng phát nội khí. Thực chất ở khí công bí truyền còn rất nhiều khả năng đặc dị, đặc biệt có một khả năng vận âm thanh rất lớn của một môn phái mà người viết có cơ may được biết tới. Tuy nhiên Thiền Định đi liền với sức tập trung hướng tâm hoàn toàn trên đối tượng, ứng với Không Vong trong tử vi sức tác động rất lớn, cũng chủ sự không thể, cái hư ảo, không thực, vì vậy nếu loạn tâm thì ắt những thức vi tế hiện lên và hiện lên ảo giác là điều dễ gặp. Điều này hiện rõ và tưởng ấy không phải sự thực, tương tự khi đang mộng. Vì vậy, thường nhiều kẻ phải lên núi, đến nơi vắng vẻ để tu luyện yên tĩnh do vậy. Mạng sống của con người là khá lâu nên việc thành tựu khi xét với việc hướng tâm tiến hóa của các loài vật, có thể nhanh hơn.


Các tôn giáo Phương Đông đa phần lấy Thiền Định để tu luyện. Nếu người luyện khí công hay sự biến đổi khi tâm hướng tới mục đích như khả năng đặc biệt ở trên là có thể. Việc với lịch sử là 2500 năm từ thời cổ hướng tâm tới chữ tự tại, năng lực nội tâm với hàng vạn người nhiều thế hệ trải qua. Hay ở Đạo Giáo cũng trải qua thời gian rất lâu hơn 2000 năm với thuyết Năng lượng, chân khí, âm dương, ngũ hành, kinh dịch được nghiệm lý bằng các môn toán mệnh hay huyền học tới nay. Ở nước ta trong thời loạn có hòa thượng Thích Quảng Đức với trái tim không cháy khi tự thiêu trong lúc thiền định. Vua Trần Nhân Tông không vô cớ tin và hướng theo Phật Giáo. Ở Trung Quốc có hai hòa thượng là Tuyên Hóa và Hư Vân tự truyện về cuộc đời với các nhân chứng về việc lạ ở đời về ma quỷ và không gặp việc lên tiếng đính chính  câu chuyện hoang đường, giả mạo ở Trung Quốc. Tất nhiên cũng với khí công sư Chu Đình Tước khi nghe một chuyện lạ như vậy thì nhiều người sẽ bán nghi và cần sự thật minh chứng đáng tin cậy là cần thiết khi có Thái Tuế chủ thật thì luôm có Thiên Hư chủ giả ở đối cung xung chiếu. Hòa thượng Hư Vân được Từ Hi Thái Hậu kính trọng nhưng không cần lợi ích tiền bạc ắt cũng có lý do. Tuy không có được những thành tựu khoa học như Phương Tây, nhưng người Phương Đông có những chuyện rất kỳ lạ, huyền diệu mà phù hợp với khảo nghiệm của Phương Tây như thuyết Âm Dương hoàn toàn đúng, cái ta hay gặp là điện tích dương và điện tích âm, tấn công và phòng thủ,.. tiền nhân chỉ nhìn từ tự nhiên để luận ra.