Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Tuesday, May 7, 2019

Tuyệt xứ phùng sinh



Thiên Phủ hội Tam Không Lộc Tồn trong thế Thiên Phủ cư Mùi hội Tướng Không Kiếp Tang đồng độ hội vòng Trường Sinh. Thiên Phủ thường người nghiên cứu tử vi rõ câu phú " Thiên Phủ tối kỵ Tam Không, ngộ Thanh Long phản vi cát tường". Thực tế trong câu phú tác hóa từ tính chất khởi nguyên của nhóm Phủ Tướng. Khi nắm rõ tính chất biến hóa của giao hội Thiên Phủ Tam Không với nhóm Thanh Phi Phục. Trong tính chất của Thiên Phủ tại bản cung tính chất tích trữ, nhập mệnh cách bản tính ưa suy xét, ưa nắm sâu nên trong vấn đề, nhận biết thông tin quan trọng bí mật. Như trong phát triển công danh, hay kinh thương, cửa trước và cửa sau, các mối quan hệ, bí mật kinh doanh. Nếu không có các vấn đề quan trọng cẩn mật tránh công khai khó thành tựu. Trong cách Thiên Phủ hội Tam Không phân cách cục Phủ Tướng đơn thủ và Phủ Tướng hội Tử Vũ Liêm cách. Trong thế Phủ Tướng đơn thủ, cách cục không chịu tác động dẫn hóa của Tử Vũ Liêm, do đó ý nghĩa sai khác. Phủ Tướng tam hợp chiếu đơn thủ có tính chất chủ tình cảm, tình nghĩa cho tới tương trợ vì mối quan hệ. Thiên Phủ có tính hiền hòa, thực tế thường luận có tính nhân nghĩa. Tính chất quan trọng của Thiên Phủ ở tính ôn hòa, khuynh hướng tránh xung đột. Tuy nhiên Thiên Phủ sẽ biến hóa thành tính chất ảo vọng, mất định hướng nếu phá cách. Tam Không khiến bố cục Thiên Phủ hội Tam Không mang ý nghĩa bất ngờ, không thể đề phòng với các biến cố. Nếu Tử Phủ Vũ Tướng Liêm hoàn chỉnh là phá cách. Trong trường hợp Phủ Tướng đơn thủ cách cục không mấy hay tuy nhiên cát hóa không phức tạp như toàn cách cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm hoàn chỉnh. Trong cách cục Tam Không là vong cách, tính chất tác động như hư huyễn, chủ mất, tại Mệnh cách hội là mất định hướng, do đó kỵ với cách cục tồn giữ của Lộc Tồn, cũng kỵ với Chính Tinh chủ tồn giữ, ổn trọng như Thiên Phủ và chủ lý tưởng như Tử Vi. Phủ Tướng đơn thủ tránh được thế Tử Vi hội Tam Không trong nội cách. 





Trong giao hội của Tam Không hội Thanh Phi Phục tốt do tính chất vòng Lộc Tồn đối nghịch vòng Phi Liêm. Thế Lộc Tướng Ấn là phát triến do tích lũy, ổn trọng. Thế Thanh Phi Phục là thế phát triển do tan rã, chia rẽ tạo nên thời cơ biến hóa. Trong cách cục của Thiên Phủ hội Tam Không, tính chất ổn trọng phá vỡ, nội tâm ắt biến loạn, thay đổi, trong cuộc sống ắt gặp nhiều chữ mất hơn được, vô định hướng khiến khí hình bất cường vượng. Tuy nhiên nội cách cục Phủ Tướng khi định Sát cách phân thành khuynh hướng quyền biến chế dụng trước Tam Không, tức thay đổi tính chất ưa ổn trọng, cẩn tắc của Thiên Phủ hóa thành tùy biến, quyền biến linh hoạt. Bố cục này rất khó định cách, do Thiên Phủ hóa từ thế chủ động trước tình cảnh thành thế bị động. Cách Thanh Phi Phục chủ tan rã, là cách cục phân chia. Cách cục này có tính chất phù hợp với Cự Môn chủ tồn tại bất mãn, do tính chất của toàn cục thành cách Cự Thanh lão bạng sanh châu. Trong nhóm Thanh Phi Phục, sao Thanh Long là bàng tinh có tính chất nhanh nhạy, chủ chớp thời cơ do cách cục mang tới, tính động mạnh. Thanh Long còn chủ ngôn ngữ, tiếng nói ra bên ngoài. Trong cách cục Thiên Phủ hội Tam Không và ba vòng sao Lộc Tướng Ấn, Tang Hư Mã, vòng Trường Sinh. Cách cục gặp Không Kiếp Mã Sinh tại cung độ Thiên Tướng có tính chất biến hóa rất lớn. Thiên Phủ mệnh cách tuy ở thế mất định hướng, tính chất phòng bị suy yếu tuy nhiên cách cục Mã ngộ Trường Sinh có tính trợ lực rất mạnh, Lộc Mã giao trì hình thành. Tuy nhiên cách Phủ Tồn rất kỵ hội Tam Không trong thế Không Kiếp đồng độ tại Hợi địa, nếu không có Thiên Tướng tọa thủ tại cung độ này ắt họa không nhỉ. Trong định cách cục, tùy thế biến hóa do trọng nghiệm lý tránh được sai lầm trong các bố cục giao hội. Thiên Phủ tối kỵ Tam Không hội Lộc Tồn là thế tuyệt địa, Mệnh Thân tại vị trí Thiên Phủ thường người luận lá số xét mệnh yểu. Tuy nhiên tại cách cục cung độ Thiên Tướng ngộ Không Kiếp Mã, đắc vòng Trường Sinh có tính cát hóa lớn. 






Đây là thế Tuyệt xứ phùng sinh, tuy không gặp khó khăn tai kiếp tới bản thân, cách cục vẫn khó có thể thành tựu sớm, do Tam Không hội Lộc Mã phù hợp với thế biến động của mệnh Vô Chính Diệu hơn gặp Chính Tinh tọa thủ mệnh, đặc biệt là mệnh Tử Vi, Thiên Phủ. "Mệnh VCD đắc tam Không, hữu song Lộc phú quý khả kỳ". Cách cục Song Lộc tức Lưỡng Lộc gồm Hóa Lộc giao hội vòng Lộc Tồn. Mệnh cách Vô Chính Diệu hội Tam Không biến động phù hợp. Tính chất của Tam Không có tính chất không ngờ trong mọi sự, đứng đầu trong Sát cách đặc biệt khi nhìn thấy Địa Kiếp trong bộ Không Kiếp. Cách cục của Tam Không hội Địa Kiếp ý nghĩa khác hoàn toàn chỉ hội Tam Không. Thực tế khi lưu truyền tử vi rộng rãi, cặp sao Khôi Việt và vòng Trường Sinh thường an sao nhầm lẫn về vị trí và tính chất sai biệt. Cách cục của Khôi Việt rất quan trọng trong vận tuyệt xứ và cách cục cát hóa của vòng Trường Sinh. Trong bố cục Khôi Việt luận hai sao quý nhân, tuy nhiên tính chất của hai bàng tinh này thường lẫn lộn và an sai biệt vị trí của hai sao dẫn tới tính chất của toàn cách cục luận sai khác. Bộ Khôi Việt khi hội Sát Kỵ tăng thêm tính nguy hiểm của bố cục, thường có mặt trong hạn tai họa, tai kiếp. Trong giai đoạn chiến loạn là hành vận gặp tử thương. Trong giai đoạn bình ổn là hành vận bệnh tật. Tính bộc phát của Khôi Việt không mang tính bất ngờ, tuy nhiên nếu hội Kiếp Hình hoặc Linh Hình Kỵ ắt có tai họa tới. Tai kiếp thường tới thêm từ thương tích tới bản thân, hoặc gặp tai họa bộc phát về tài danh. Khi giao hội với cách cục có tính ổn trọng, ôn hòa càng tăng tính tai họa. Trong cách cục đột phá, bộc phát có thể phát tài, phát danh rất lớn. Tuy nhiên cũng có thể phát tai họa, tai kiếp. Thứ tới mệnh cách hội cát, hành vận tạo tổ hợp Sát cung trọng điểm trùng phùng là vận cần cẩn trọng kẻo lộ đồ khảm kha. 





Nghiệm lý các lá số cách cục hình thương tính mạng, từ việc gặp thủy tai, hay hung sát khí, tai nạn giao thông, bệnh tật nan y đều khởi phát từ đại tiểu vận trùng phùng bố cục tác họa bất ngờ, khó đề phòng. Thứ tới nhóm sao chứa Sát tính ẩn tàng bộc phát. Trong đó Khôi Việt là cặp sao tuy tạo thành tựu lớn cũng đi liền với tai họa do tăng mức độ bộc phát của tai kiếp. Kình Dương và Đà La đều chứa tính mâu thuẫn. Kình Dương do ưa kích động, kích phát về thế tấn công. Đà La thiên về thế nhẫn nhịn tạo bộc phát. Nếu Kình Hình Việt hội Sát Kỵ khó tránh khỏi thương tích. Nếu Đà Kỵ Khốc khó tránh khỏi do nhẫn nhịn dẫn tới phản kháng mạnh. Cặp Xương Khúc có mặt trong cách " Quế Sứ Hoa Thương tối hiềm giao hội, mạc phùng Sát diệu đa khổ tai ương". Do cách cục cường cung hội Không Kiếp, hành vận tới cung độ Quế Sứ Hoa Thương hội Sát Phá Tham tức Mệnh cách ở cách cục Cự Nhật, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Cơ Đồng, Âm Dương Lương. Đặc biệt nếu mệnh cách không gặp Cự Môn, lại mệnh Âm Dương Lương hiền hòa tới hành vận Quế Sứ Hoa Thương rất phức tạp. Mệnh cách nếu chỉ hội trợ tinh Khoa Quyền Lộc Tả Hữu Xương Khúc bất kiến Sát Kỵ là mệnh thiên lệch, hành vận đại tiểu vận trùng phùng Sát Kỵ ắt khó tránh được tuyệt cách. Trong cách cục tai họa tập thể nhưng việc rơi máy bay hay tai kiếp do hỏa hoạn, thiên tai ứng kiếp số của thiên kiếp. Nếu nhân mệnh tự nội cách sức cát hóa cực vượng, chế hóa Sát Kỵ thành tựu thường gọi cao số. Phàm là nhân mệnh ở vị trí đứng đầu cũng có một mặt gặp chữ không, mất mát. Với cách cục Sát Kỵ, nhiều nhân mệnh có cách dụng thành tựu. Tuy nhiên thường khó thoát được kiềm tỏa của Sát cách để chế hóa bố cục, dẫn tới bố cục tác họa tới nhân mệnh. Cũng như trong chiến trận, với áp lực, đè nén tới tính mạng, toàn cục diện xoay chuyển nhanh chóng. Nắm thời cơ, lấy thế tĩnh chế ngự được rối loạn trong nội tâm có cái nhìn sáng suốt, tinh tường có thể chuyển bại thành thắng, thành tựu của nhân mệnh là việc chế ngự tự thân, hàng phục nội tâm không chuyển động theo cảnh. Đây chính là điểm phân biệt thượng, trung hạ cách của mệnh lý. Không phải bố cục giao hội cát tinh, cách cục Mệnh cao thấp phân định. 






Trong cuộc đời sẽ có những ngã rẽ và lựa chọn. Trong cách cục Sát Kỵ trùng phùng, kẻ khí hình cực vượng chính là thời vận thành tựu từ khó khăn, người khí hình suy bại là cách cục của bệnh tật, tai ách. Vật cực tất phản, thiên địa bất luận đều tuân theo. Tuy nhiên được mấy người có thể bình ổn nội tâm trước khó khăn bế tắc, ổn định trước hiểm cảnh. Khiến người trong thiên hạ tuy nhiều nhưng kẻ thành tựu rất ít. Nếu vị tướng quá lưu tâm tới từng sinh tử, để lỡ thời cơ đột phá thì chiến trận ắt bại. Trong chiến loạn ắt có đổ máu, là khuynh hướng của thời cuộc. Chữ Phi trong nhóm Thanh Phi Phục là cách cục linh hoạt, dụng được nhiều cách cục phù hợp tính chất do Phi Liêm có thể làm việc sai trái, Thanh Long có thể quyền biến bằng khẩu ngôn thành chính nghĩa. Trái với Lộc Tướng Ấn chữ chính nằm ở Lộc Tồn với Quốc Ấn thiếu tính linh hoạt. Cũng như Tuế Hổ Phù là sự thực. Tang Hư Mã linh hoạt do có thể biến cái giả của Thiên Hư thành thực. Vạn vật luôn biến hóa thay đổi giữa thực và hư, chính và bất chính. Người viết có đọc một bài viết về bảo vệ sự thực về trái đất quay quanh mặt trời nên một nhà khoa học Giordano Bruno phải chịu hỏa thiêu, trong khi xã hội đều quan điểm nghịch tức mặt trời là trung tâm trái đất. Trong nhóm sao linh hoạt, quyền biến là Phi Phục Thanh và Tang Hư Mã đều có tính chuyển động, linh hoạt do Thanh Long và Thiên Mã tác động. Trong một mâu thuẫn lớn, có thể dẫn tới tai họa tính mạng do bất đồng quan điểm, mâu thuẫn về vấn đề , cách cục Tang Hư Mã có thể có lợi hơn Tuế Hổ Phù. Cách cục Thiên Phủ hội Tam Không cũng vậy. Nếu mệnh Cự Môn dụng tính chất tranh luận trong nghiên cứu khoa học, học thuật khác với cự cãi trong kinh thương hay ngoài cuộc sống. Nếu nhân mệnh hướng tới đa phần thời gian nghiên cứu học thuật ắt chế ngự được tai kiếp của Cự Kình Kiếp Kỵ Khốc Hình tránh bị loại trừ, hại do mâu thuẫn. Nhân mệnh hình thành số phận do vô tác ứng hợp hoàn cảnh. Dụng trợ cách phân định phức tạp hơn với luận số do cần nắm rõ tính giao hóa của toàn cách cục, phân định cách cục. 

Thursday, May 2, 2019

Vòng quay cuộc đời và bước ngoặt.

Trong cuộc đời nhân mệnh, áp lực trong những định hướng do hoàn cảnh, áp lực cuộc sống, bất công tác động dẫn dắt bởi than muốn và định hướng cuộc đời. Khi chịu tác động của công việc được giao, trách nhiệm trong công việc dẫn tới đè nén, đặc biệt trong thời kỳ cạnh tranh, thay thế hiện nay, cần tự lực vượt qua hoặc chịu thế bị động khiến mệnh tạo trở nên bất lực khi tâm loạn động. Ở riêng rẽ tính chất mỗi tinh đẩu hình thành các khuynh hướng riêng biệt. Nhóm chính tinh ưa phản ứng, phản đối khi gặp áp lực, đè nén như Cự Nhật. Nhóm chính tinh ưa dụng tình cảm để thay đổi hoàn cảnh như Phủ Tướng. Nhóm sao chủ tự hướng tới tư tưởng trấn an, ổn như Cơ Nguyệt Đồng Lương. Nhóm sao hướng tới tính khai phá, phá bỏ sự áp lực là Sát Phá Tham. Nhóm chính tinh chủ hình thành tư tưởng cống hiến, xây dựng lý tưởng tới xã hội, tổ chức là Tử Phủ Vũ Tướng Liêm. Cách cục chịu tác động lớn của áp lực, biến động là Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham do trong nội cách có hai khuynh hướng, lý tưởng riêng rẽ giữa Phá Quân ưa phá bỏ, khai phá và Tử Vi ưa xây dựng, khai tạo. Trong số đông thời chiến loạn đều có khuynh hướng ở thế bị động, chịu đè nén do hoàn cảnh tác động khi cần nhập tuyển binh. Trong giai đoạn hiện nay là áp lực của công việc, tiền bạc, địa vị. Áp lực tác động do miệng lưỡi, hoặc các mối quan hệ, lợi ích, cô lập, biến hóa phức tạp. Tuy nhiên áp lực là khởi phát của đột phá, thành tựu. Tính chất của đè nén, áp lực tác động là hình ứng của cách cục Sát. Trong cuộc sống, việc gặp áp lực là vốn có khi các mối quan hệ xã hội hình thành, hoặc khi hướng tới tham muốn của nhân mệnh, hoặc về bệnh tật, kế hoạch của tổ chức, vị trí đảm nhiệm, khởi phát là củng cố và phát triển, siết chặt tư tưởng khiến trong tư tưởng hướng tới xung quanh hoàn cảnh tác động, hình thành nên số phận, thường luận là nghiệp, từ nghề nghiệp tới số phận. Việc thay đổi tư tưởng dẫn hóa hoàn cảnh thường phải phá thế cục chịu bị động do Sát cách tác hóa. Tuy nhiên các cách cục này thường ở thế phức tạp, loạn động khó thể dụng. Khi tạo đột phá thành tựu do áp lực thay đổi lấy tham muốn dẫn hóa. Tính chất này không chỉ ở những giai tầng thấp của xã hội, ở các tầng lớp cao cũng chịu tác động rất lớn, do khởi từ bố cục Sát nên bất kể nhân mệnh đều chịu tác động. Trong giai đoạn cạnh tranh, tranh đoạt của các doanh nghiệp phát triển, hoặc trong tổ chức đều tồn tại cách phát triển và loại bỏ, đào thải. Tham muốn phát động khiến mệnh cách nghị lực vượt qua thăng trầm, chế dụng Sát cách. Tuy nhiên mỗi Chính Tinh nhập mệnh đều gặp khắc kỵ. Trên thiên bàn gồm 14 Chính Tinh, trợ tinh Khoa Quyền Lộc, Tả Hữu, Xương Khúc, Khôi Việt. Sát tinh gồm Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp Kỵ Hình. Cách cục Sát là bố cục khi giao hội của Sát Tinh với các sao khác. Do tính khó chế hóa nên cách cục Sát thường mệnh tạo ứng cách cục tổ hợp cường vượng và thời vận lớn có thể dụng hoạch phát tài danh. Nếu cách cục bất ổn, nhân mệnh bất ứng hợp khuynh hướng ắt chịu họa tai kiếp lớn, thường bệnh tật tai nạn. Đặc biệt trong cách cục Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham. Ngay với lá số nhân mệnh song sinh tức cùng giờ ngày tháng năm sinh, cùng phụ mẫu khuynh hướng tư tưởng sai biệt, hoàn cảnh sai biệt dẫn tới bố cục phát triển sai biệt. 






Chế ngự bố cục Sát lấy khí hình làm gốc. Cùng mệnh đại phú tuy nhiên thành tựu khác nhau, do tính chất hoàn cảnh khác nhau, ứng hợp khác nhau, dụng chế hóa khác nhau dẫn tới tư tưởng có sai biệt. Tử Phủ Vũ Tướng Liêm là cách cục mạnh do sức ổn định với Sát Kỵ của tổ hợp Tử Vũ Liêm phối hợp Phủ Tướng rất lớn. Trong khi Cơ Nguyệt Đồng Lương thường ứng với cách cục bình hòa, do tính sai biệt tính chất từng cách cục. Tuy nhiên cách cục Cơ Nguyệt Đồng Lương ít gặp tai kiếp do mạo hiểm như Sát Phá Tham hay Cự Nhật. Với Sát Phá Tham tượng như người cầu may bởi đánh cược, khi dẫn bởi tham vọng của Tham Lang và tính táo bạo của Sát Phá.  Với Cơ Nguyệt Đồng Lương do tính âm nhu hướng tới thay đổi an toàn. Trong khi Tử Phủ Vũ Tướng Liêm nhấn mạnh tính tổ chức, chung sức. Cự Nhật thiên về thực lực của bản thân, tuy nhiên có tính cô khắc, dẫn tới khuyết điểm lớn thường gặp khó dụng được tập thể. Một mệnh cách Cự Môn trong cách Cự Nhật cư Dần hội Tuế Kình Linh Việt gần đây người viết có gặp. Nhân mệnh có học vị rất cao, khả năng am tường về vấn đề kinh tế rộng, có địa vị xã hội tuy nhiên khi kinh thương, khởi tạo doanh nghiệp gặp thất bại do mâu thuẫn trong nội bộ, do phương hướng sai lầm của người đứng đầu, dẫn tới phá sản, mệnh tạo quay về với việc giảng dạy. Một mệnh cách Cự Môn với bố cục Cự Cơ Lưỡng Lộc Tang Mã Hình Hỏa phát danh ban đầu nghiên cứu về cơ khí, sau bỏ học kinh thương về máy móc, hành vận Vũ Phủ khởi tạo kinh thương phát tài lớn, do cách Tử Phủ Kình Dương hợp cách cự thương được Tử Phủ Vũ Tướng Liêm hoàn chỉnh đứng đầu tổ chức, cách cục ổn trọng hoạch phát. Trong định cách cục chủ Tài cách, Lộc Mã giao trì cổ nhân luận đứng đầu. Do bản chất của phát tài do trao đổi giá trị. Là thế động tài. Trong thời đại hiện tại, cách cục bạo phát mang khuynh hướng kích phát lớn hơn tất cả giai đoạn trước, khi thời cơ đều được chia đều cho mỗi người. Tuy nhiên bản tính khó dời, trong cách cục mệnh tạo hoặc hành vận nếu không hình thành trọng điểm hoặc cách cục khai phát chế hóa mạnh, mệnh tạo sẽ khó thoát khỏi việc chịu tác động vòng xoáy của Sát Kỵ, của việc hưởng thụ do vật chất phát triển, từ việc lo ngại về thay đổi cuộc sống. Tuy nhiên thường khi nhân mệnh quyết định phải thay đổi là khi thế bĩ đã tác hóa cùng cực, thường lâm thế bại. Trong khi thời vận là giai đoạn đang phát triển ổn định tạo đột phá là khi thế bĩ đang hình thành có thể hóa cát. Thí như trong tiểu vận Sát Tồn Đào Không, nhân mệnh dù nỗ lực ắt cũng khó thành trong năm này, tuy nhiên Đào Hoa trong cách Đào Sát luôn kích phát thay đổi dẫn tới cách bại cục. Đây là hình thế của tổ hợp cung trọng điểm. Cũng như dịch lý thái bĩ luân chuyển. Phù thịnh bất phù suy. Trong giai đoạn phát triển ổn định luôn ẩn tàng khí Sát vô hình, dẫn hóa bởi Không Kiếp là chữ không ngờ. Trong giai đoạn bế tắc lại ẩn chứa thời cơ tạo bước ngoặt nhảy vọt. Như một thế cờ, kẻ chiếm phần thắng sai lệch một ly dẫn tới bại cục. Hai chữ ổn định là nơi gặp nhiều bất ngờ. Chỉ chế dụng Sát cách tiền nhân đã nghiên cứu nhiều thế hệ. Nắm thế sinh khắc chế hóa của cách cục để xác định vận cát hung. Trong các cách cục Sát phân định thế thượng trung hạ. Nếu Đồng Lương cách hội Khoa Quyền Lộc Xương Khúc không bằng hội Lưỡng Lộc Linh Kỵ Quyền. Sai biệt do Linh Kỵ dẫn cách cục Đồng Lương hiền hòa thành quyết đoán, khi có Lộc Tồn và Hóa Kỵ là cách cục chủ đa nghi, lấy Quyền hóa làm Sát vượng, có tính kích phát và khuynh hướng dị biệt. Nếu Đồng Lương ngộ Không Kiếp cư Dần Thân hội Tả Hữu Quyền Khốc tại cung độ Dần Thân là thượng cách. Xét tất cả tinh đẩu ở tính chất bất phân biệt cát tinh và sát tinh thì tránh được sai lầm do tập nhiễm của phân biệt. Đồng Lương ngộ Thiên Không tại bản cung tính chất khác hoàn toàn ngộ Địa Kiếp tại bản cung. Không Kiếp tăng cường tính thăng trầm với mệnh cách Đồng Lương, phá thế ổn định của cách cục. Cách Đồng Kiếp chủ tâm cơ diệu tính. Đồng Lương gặp khuyết điểm do tính chất ôn hòa, Thiên Lương ưa bộc lộ gặp Thiên Đồng có tính tập thể, cộng đồng, tính chất phúc ấm khiến mệnh cách thường giải đãi. Cách cục Đồng Lương Không Kiếp hội Tả Hữu khi biến động không ở thế Tuyệt do Không Kiếp nhập Dần Thân là cách cục xung chiếu, nếu nội Kiếp ngoại Không chủ Đồng Kiếp thủ mệnh là cách cục tốt do mệnh cách chủ tính toán sâu xa. Trong khi cách Đồng Lương ngộ Thiên Không tại bản cung, Địa Kiếp đối cung tính chất bất ngờ, chủ họa từ bên ngoài vào. 






Trong các giai đoạn khác nhau của xã hội, tính chất biến hóa của tinh đẩu khác do hóa khí khác khi ứng hợp. Trong giai đoạn hiện tại, Vũ Tham nắm lệnh về Tài Cách, dp tính chất nắm bắt với thời vận của nhóm sao này và kích phát khi chịu giai đoạn mâu thuẫn của Sát Phá Tham và Tử Vũ Liêm.  Với mệnh cách gặp bố cục tham muốn Tài cách, ắt khuynh hướng lấy phát phú làm trọng. Lại phân phát phú do kinh thương hay theo quan lộc. Tài sản là việc tích lũy giá trị, sinh ra quyền lực, uy tín và danh vọng. Trong giai đoạn phong kiến, lấy tước vị để phân định thứ bậc trong xã hội, do tổ chức triều đình tức quan lộ có quyền uy lớn. Các cách cục ứng câu phú trong giai đoạn này. 
" Tử Vi vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí công khanh". 
Tại đây công và khanh là các phân cấp địa vị xã hội trong từng giai đoạn lịch sử. Gồm các địa vị trước đây như Công, Hầu, Khanh, Tướng, Sĩ, Nông, Công, Thương, Canh, Tiều, Ngư, Mục. 
" Tử Sát đồng lâm Tỵ Hợi, nhất triều phú quí song toàn"
Cách cục Tử Sát cư Tị Hợi thuộc thế đứng Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham. Khi Tử Vi ngộ Thất Sát có tính tranh đoạt lớn. Ngộ Quyền tinh thành tinh anh, do tính chất của Thất Sát hóa thành Quyền. Tử Vi chủ công, lý tưởng, hoạt động. Với Tử Sát cách nếu không gặp Quyền chủ hư danh do Thất Sát là được và mất, sai lầm. Cách cục Tử Sát tranh đoạt ứng với chữ Quý lớn hơn chữ Phú, thành tựu trong giai đoạn rối ren của tổ chức, triều đình giai đoạn phong kiến. 
"Cơ Lương hội hợp thiện đàm binh, cư Tuất diệc vi mỹ luận".
Cách cục của Cơ Lương tính chất sai khác  với Tử Vi tại mệnh. Thiên Cơ chủ mưu cơ, Thiên Lương tính chất bộc trực thường có khuyết điểm, khi ngộ Thiên Cơ thành cách cục chủ đưa ra các quan điểm, tham mưu. Do đó Cơ Lương luận đàm binh kế sách mưu lược tốt. Đây là cách cục chủ tham mưu, nếu ứng Quan cách ứng chức vị tham vấn, nếu ứng Tài cách là cự thương. 
"Liêm Trinh Thân Mùi cung vô sát, Phú quí thanh dương phiên viễn danh".
Liêm Trinh là chính tinh nằm trong nhóm Tử Vũ Liêm, có tính soi xét, kiểm tra, thanh tra. Do tính chất chủ phát danh, các bố cục mệnh Liêm Trinh ứng tính chất thanh dương viễn xứ, danh tiếng, liêm khiết nổi danh tới nơi xa. 
"Liêm trinh nhập miếu hội Tướng quân, Trọng Do uy mãnh".
Liêm Trinh do có tính suy xét, chú trọng tính chất thanh lọc, bài trừ khuynh hướng sai lầm cho Tử Vũ Liêm. Liên tục suy xét, lấy đạo phù hợp quan điểm đương thời làm gốc, do đó tính tất cương, chủ quyền tín. Với cách cục hội Tướng Quân tức Tử Vũ Liêm giao hội Lộc Tướng Ấn. Liêm Trinh gặp Ấn lệnh tức nắm binh quyền, lấy thanh danh làm gốc do đó tính chất uy dũng. Tính chất này khác hoàn toàn bố cục "Kình tứ mộ, Mã triều lai, biên cương ắt hẳn trổ tài võ công" tính chất uy dũng do táo bạo ưa đánh phá của Kình Dương và nghị lực, khả năng ứng biến của Tang Hư Mã. 
"Dương cư Ngọ địa, Nhật lệ trung thiên, chuyên quyền chi vị, địch quốc chi phú"
Trong cách cục Thái Dương cư Ngọ là bố cục Cự Nhật hoàn chỉnh, với Cự Môm tam hợp chiếu có tính kích phát. Thái Dương cư Ngọ chủ phát triển, hướng lên. Cự Môn hội có dương tính mạnh, do đó bản chất là chuyên quyền. Khi xét định Phú cách tính chất phát triển, dương lên của Thái Dương khi có Cự Môn là sao chủ đứng đầu có tính khai phá, bày tỏ phản đối, bất mãn khi gặp sai sót. Tính chất phát đại phú do Thái Dương cư Ngọ cát hóa mạnh với Cự Môn, chiết giảm khuyết điểm ưa phản đối, ưa bất mãn của sao này. 
"Nhật Nguyệt Sửu Mùi ái ngộ Tuần Không, Quí Ân Xương Khúc, văn tất thượng cách, đường quan xuất chính".
Cách cục Âm Dương cư Sửu Mùi chủ đồng tranh, ngộ Tuần tức Tuần Trung Không Vong tại chính vị trí cung độ Âm Dương. Lưu ý ngộ tức đồng cung. Âm Dương tại Sửu Mùi bản cung ngộ Tuần tăng tính chất quan trọng của bố cục, do tính chất của Tuần Trung chủ quan trong, cách cục mang tính chất lời nói có giá trị, được chủ ý. Giai đoạn xã hội thay đổi từng ngày, các cơ hội phát sinh và tri kiến được lưu truyền trên thông tin. Thực tế đây là thời vận của mệnh cách tham vọng lớn, kiên quyết bám trụ với mục tiêu. 




Một cách cục Liêm Tham người viết luận gần đây khi chỉ hội Kình Tang Khốc hành vận Thiên Tướng Kiếp Không tại Tị chiếu về. Tư tưởng khai sáng mạnh, đứng đầu một lĩnh vực lớn trong lĩnh vực thông tin khi tới hành vận thứ ba, thành tựu tới rất sớm. Liêm Tham cách không gặp Hỏa Linh tuy nhiên kiến Kình Tang Khốc là cách cục vượt qua khó khăn trắc trở lớn, kiên trì với tham muốn. Tham Lang có tính chất học hỏi, qua hành vận Cự Môn trong thế Cự Nhật hình thành thế bất mãn, quyết tâm với nghiên cứu về thông tin. Do tính chất thời vận do công nghệ dẫn tới bộc phát trong hai tiểu vận bạo phát trong hành vận Thiên Tướng. Tuy nhiên Liêm Tham cách là bố cục gặp khó khăn liên tục, hoạch phát hoạch phá ắt sẽ gặp phá tán trong hành vận này sau khi hoạch phát. Hướng đi khác biệt là sự chế hóa hữu tình của Sát cách, khi nhân mệnh táo bạo dẫn tới bế tắc, khi vật cùng tắc phản, tạo hoạch phát lớn khi thời vận của vận thiên hạ tới. Trong giai đoạn hiện tại xã hội phân giai cấp khác với giai đoạn phong kiến. Nhân mệnh tự do khởi tạo về Tài cách, tự do các quốc gia sinh sống. Cách cục Phá Quân hội Lộc Tồn giao hội tinh đẩu chuyển động có khuynh hướng ly hương xuất ngoại, mang tính ất ứng hợp khá tốt đẹp. Trong giai đoạn hiện tại Tử Phủ Vũ Tướng Liêm tính chất thừa kế với chế độ phong kiến biến hóa mang ý nghĩa khác. Mệnh cách khí hình bất cường vượng, Thiên Phủ nhập mệnh xuất thân bình hòa khó có thể tạo kích phát như cách cục Cự Môn, hay Phá Quân hội Kình Tang. Như cách cục Liêm Phủ hội Lộc Tồn Tả Hữu Xương Khúc tức đắc Ấn lệnh sức thành tựu không lớn như cách Cự Kình Kỵ Hình Khốc. Trong giai đoạn phong kiến cách cục Cự Kình Kỵ Hình Khốc ắt thường gặp họa lớn sát thân do tính ưa phản đối, chống đối. Sát tinh trong giai đoạn hiện tại có tính chất tai kiếp giảm thiểu do bệnh tật có thể chữa trị phần lớn, tai kiếp do chiến loạn, hình thương không lớn. Tuy nhiên nếu bố cục Vũ Phủ hội Lộc Mã Tả Hữu tính chất Tài cách cực vượng, do Vũ Khúc chủ tài cách, là sao có tính động, giải quyết công việc, hàm chứa Sát tính khi hội Lộc Mã giao trì cát hóa mạnh. Địa vị xã hội chịu tác động mạnh bởi Tài cách, Vũ Phủ hóa thành quyền lực. Sát cách khó định bố cục, do tính chất hai mặt thường gặp đổ vỡ, phá cách khi tạo thế bế tắc. Giai đoạn hiện tại cách cục kế thừa từ Phủ Tướng vẫn có giá trị lớn, tuy nhiên cần xét tới khí hình gốc, bao gồm xuất thân từ gia đình. Cách cục chủ giải trí, thương mại phát triển lớn, khiến Vũ Khúc tăng tính chất vượng tài. Thường tiền nhân khi xét thời vận thiên hạ định khí hình của mệnh khí rõ về tính biến hóa của tinh đẩu. Nếu mệnh tạo gặp cách cục Lưỡng Lộc hội Mã Khốc Khách bất xét luận ắt mệnh phát phú. Tuy nhiên mức độ hoạch phát xét rõ khi ứng với khí hình. Do tính chất trao đổi, lưu động của Mã Khốc Khách có lợi khi Lưỡng Lộc tích lũy tài sản mạnh. Mệnh cách Tham Hỏa hay Vũ Tham hội cách cục này ắt đại phú. 





Khi xét tới chữ quý, là các bố cục chủ Quan cách. Nếu Thiên Tướng hội Không Kiếp Hình Ấn là cách cục quan lộ thăng tiến lớn. Các cách cục chủ tính bộc phát khi tích lũy như Cự Tồn, Phá Tồn, Tham Xương, Đà La, Thiên Khốc, Thiên Việt thường người nghiên cứu tử vi chưa đánh giá đầy đủ tính chất khi giao hội. Một Kình Dương khởi tạo thường gặp khuyết điểm ở tính vội vàng. Đà La chủ mưu tính sâu rộng, chữ nhẫn. Kình Dương cần thiết táo bạo. Đà La cần thiết kiên nhẫn. Hai khuynh hướng đều mang đột phá lớn, tạo phẩm chất quý, là tính chất tốt đẹp của Sát Tinh. Thiên Không có tính bất ngờ thường gặp khi phát may, phát tài, phát quan không ngờ mà được. Địa Kiếp có tính chất suy xét, nắm bắt vấn đề, tính tranh đoạt, quyết đoán lớn. Hai Sát tinh đứng đầu tử vi đều có tính chất bộc phát rất lớn. Đặc biệt khi gặp Kiếp Kỵ hội Sát Phá Tham có tính độc đoán, chuyên quyền rất lớn khiến Sát hóa thành Quyền. Một Thất Sát hay Phá Quân ngộ Địa Kiếp hội trợ tinh mạnh có tính chất tốt đẹp về tài danh hơn việc Cơ Nguyệt Đồng Lương hội Xương Khúc khi chỉ xét nội tổ hợp trên. Lộc Tướng Ấn là vòng sao có tính tích lũy lớn, do Lộc Tồn tại vị trí Lâm Quan của vòng Trường Sinh phát triển tới Đế Vượng. Nhóm sao Tang Hư Mã rất cần thiết cho cách cục chủ thay đổi, Tang Môn có tính chất nghị lực, chịu đựng khó khăn để tìm hướng đi tức chữ Môn để thay đổi. Khi Tang Môn hình thành cách cục hợp cách, mệnh tạo hưởng chữ tinh tường, nhanh nhạy. Trong khi Tuế Hổ Phù thường chủ đặt lý tưởng, được quần chúng theo. Phẩm chất chủ Tang Hư Mã đa biến, linh hoạt, nhạy bén. Tuế Hổ Phù hướng tới được trọng vọng, tín nhiệm do lập trường rõ ràng. Là cách cục ý nghĩa thu nhỏ của Tử Phủ Vũ Tướng Liêm và Sát Phá Tham. Hai nhóm sao Lộc Tướng Ấn và Thanh Phi Phục. Với Lộc Tướng Ấn chủ tích lũy, lấy ấn tín, ổn định làm trọng. Cách cục đối Thanh Phi Phục lấy nhanh nhạy, chớp thời cơ thay đổi. Lộc Tướng Ấn thường được chữ chính nghĩa. Thanh Phi Phục với Phi Liêm chủ sai trái. Tuy nhiên cái chính và bất chính thay đổi liên tục. Cũng như thực của Tuế Hổ Phù và giả của Tang Hư Mã thay đổi liên tục. Khi cách cục thành tựu bất phân thực hư, bất phân chính tà. Là hợp và bất hợp. Trợ tinh tăng cường phẩm chất hợp hóa hữu tình của nhân mệnh. Với Tang Hư Mã xấu là sống không thực tâm. Với Tuế Hổ Phù xấu là lý lẽ mù quáng. Với Lộc Tướng Ấn xấu là tồn tại tai họa, nhầm lẫn, bế tắc không thể thay đổi. Với Thanh Phi Phục xấu là giải thể, tan rã, thay đổi theo hướng sai lầm. Các cách cục chính hình thành tính cách ưa tích lũy ổn định hoặc ưa thay đổi, ưa lý lẽ hoặc ưa linh hoạt hình thành cách nhìn tổng quan về nhân mệnh. Trong thế bế tắc khi chiến loạn, lời lẽ khích lệ phóng đại, sai sự thật nếu linh hoạt có thể thay chuyển tình thế ứng với tính động của Tang Hư Mã. Tử vi là thực tế ngoài cuộc sống để người nghiên cứu chiêm nghiệm. Do bản tính, tinh cách hình thành các khuynh hướng chế dụng sai khác. Khi rõ tính chất giao hội. Như cách cục Lộc Mã giao trì luận hay do Tang Hư Mã có tính chất thay đổi, quyền biến cho phù hợp thời. Lộc Tướng Ấn có tính chất ổn trọng, tích lũy. Giao hội hai cách cục luôn mang ý nghĩa tốt đẹp khi chế hóa hữu tình. Lộc Tướng Ấn là thế phát triển, phá thế bế tắc của Tang Môn khi có Thiên Mã chủ động. Cách cục Cự Môn hội Lộc Tướng Ấn hình thành thế Cự Ấn là rời xa, Cự tức bất mãn, tại đây tâng tính bế tắc. Với cách Phá Quân hội Lộc Tướng Ấn, Phá Quân có tính chất khai phá, phá bỏ cái suy, bế tắc. Lộc Tướng Ấn là thế phát triển, tồn giữ, ổn định tích lũy. Trong các cách cục giao hội nếu không thực lý tuy người nghiên cứu nắm được tính chất cơ bàn cũng khó rõ ứng hợp khi biến hóa. Nếu Phá Quân trong thế Kiếp Tồn là cách cục tốt. Nếu Phá Kiếp đồng độ hội Lộc Tồn khác Phá Tồn hội Địa Kiếp. Cũng như cách cục vi phạm là Kỵ Hình khi tốt là quyền lực bao trùm, có thể một phần biến đổi, đứng trên luật pháp như ở một số quốc gia tư bản lấy lợi ích làm trọng. Hoặc ở giai đoạn lịch sử dưới thời điểm của chủ nghĩa đế quốc. Tuy nhiên để chế hóa cách cục Sát phức tạp, khó khăn hơn rất nhiều để tổ hợp thành cách. Cũng như việc để đi đứng vững chắc luôn phải vấp ngã. Để thành tựu lớn sẽ có giai đoạn bế tắc.