Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Friday, March 31, 2017

Lá số văn cách hay kinh thương cách



Lá số văn cách hay kinh thương cách


Mệnh có Cự Cơ ngộ Khôi Quyền Khúc Ân tại bản cung Mệnh đặc biệt ở đây có cách Cự Cơ ở Mão ngộ Song Hao cách sách thường luận là kinh thương cách hay theo chiều hướng công danh gây dựng sự nghiệp quan lộc. " Cự Cơ Mão Dậu hạnh ngộ Song Hao uy quyền quán thế" hay " Song Hao Mão Dậu chúng thủy triều đông ái mộ Cự Cơ tối hiềm Hóa Lộc". Ở đây đúng tính chất của cách Cự Cơ ngộ Song Hao có lợi trong việc nắm bắt cơ hội để làm giàu nhưng xuất hiện nhiều trường hợp chọn chữ phú và thiên về nghiên cứu khoa học kỹ thuật không phải con đường kinh thương hay chính trị mà ưa việc tìm tòi nghiên cứu. Thực chất nếu người không rõ sẽ luận bộ Cự Cơ này là cách giàu có và dẫn tới sai lầm. Ở đây không xét tới yếu tố truyền thống theo văn cách của mệnh tạo vì người viết đã nghiệm lí rất nhiều lá số. Cách đây ít lâu đã có luận giải cho một ậu có cách cục tựa kinh thương nhưng cũng thực chất là theo con đường nguyên cứu sách vở, khoa học. Thực chất nhiều người không đáng giá được tính chất ban đầu rất mạnh của Chính Tinh và Phụ tinh ảnh hưởng tới nghề nghiệp hướng đi của cách cục. Sao Văn Khúc tọa thủ cung Mệnh thuộc bộ Xương Khúc nhóm Phụ Tinh có tính chất gần như ngang ngửa với chính tinh. Vì vậy phàm có Mệnh Tài Quan có Xương Khúc thường theo nghiệp học vấn, và một số do hoàn cảnh bên ngoài tức do Phúc phát của dòng họ hay xuất thân hoàn cảnh phụ mẫu khiến tất cả Xương Khúc trở thành hiểu biết, kinh nghiệm trong kinh thương. Người viết cũng gặp gần đây một lá số mệnh có Cự Cơ Triệt Kỵ Khoa tại bản cung và tam hợp là Đồng Quyền Linh Việt chỉ có Văn Xương ở vị trí xung rất có hướng từ ban đầu theo nghiệp kinh doanh từ ngay đại hạn đầu tiên vì cách này không có Xương Khúc, thuở nhỏ hoc hành giỏi giang, tuy nhiên khi nhập cung Hạn thứ hai có cách Hỏa Tham Ấn Triệt khiến bản thân có ham muốn mãnh liệt về làm giàu tuy nhiên hay gặp thất bại. Nếu cung đại hạn của mệnh Nữ trên tức là biến đổi hiện thực của Mệnh và Thân dịch hạn theo chiều thuận gặp bộ Tham Kỵ Hỏa tại bản cung có Đào Lộc Tuần Kiếp đi với Sát Phá hạn đến đây tham vọng làm giàu sẽ rất mạnh và có cơ hội theo kinh thương và thất bại. Thường thì nếu cách cục mạnh như Tham Hỏa đồng độ sẽ biến đổi tính chất mệnh về ham muốn, tham vọng làm giàu và tác động lại bên ngoài thực tế. Như việc ta học tập trong sách vở nhưng do duyên hay tính cách chỉ có một số phần ts chú tâm rất mạnh trong khi các phần khác ta bỏ qua như ưa môn Kinh Tế và không ưa môn Sinh Học là hai ngành nghề khác nhau dẫn tới kết quả khác nhau. Nhìn chung khi luận đoán tử vi cần thiết thêm cả việc xem chiều hướng ngay từ thuở nhỏ tức ở cung đại hạn tại Mệnh mang tới để luận theo chiều hướng này sẽ khó gặp sai lầm. Nếu theo nghiệp kinh thương cho ra đáp số về các hạn trải qua khác việc đi theo con đường văn cách nghiên cứu.


Lá số tử vi:

Một số cách cục cung an Thân



Một số cách cục cung an Thân


Cung an Thân do liên quan tới hình tượng bản thân, hoặc có ý nghĩa qua trọng hơn chính là thân thể của ta nên khiến tính chất của một số sao khi ở tại cung Mệnh mang ý tưởng, suy nghĩ hay nhưng khi nhập cung an Thân lại là cách cục xấu mang tính chất tai họa nguy hiểm tới chính bản thân, thân thể. Đa phần người xem Tử Vi đều biết tới cách cục " Thất Sát lâm Thân chung thị yểu". Sao Thất Sát cư tại Mệnh định nghĩa cung Mệnh hay Thân như một sao có tính chất kết hợp với các sao khác là cách Mệnh Sát ý nghĩa là tư tưởng, suy nghĩ liên quan tới tính Sát, tính tranh đoạt từ tiền bạc hay công danh hay suy nghĩ cương quyết, định đoạt. Với cung an Thân cũng như vậy, cách Thân Sát là cách cục ý nghĩa thân thể liên quan tới Sát, hành vi liên quan tới Sát là cách cục xấu khi Thất Sát xấu có thể gây tai họa yểu mạng nặng hơn việc cư Mệnh. Cung Mệnh là suy tưởng của ta, cung an Thân là hành vi, thân thể của ta cũng cần tránh nhiều sao khác. Một trường hợp khác là sao Kình Dương có tính tranh đoạt cư tại cung an Thân dễ gặp cảnh hình thương nơi thân thể như cách " Thiên Đồng Kình Dương thân thể tao thương". Đặc biệt khi Kình Dương cư cung an Thân ở tuổi Canh là cách rất xấu, kỵ thêm Sát Kỵ có thể nguy hiểm tới bản thân như cách Thất Sát xấu cư Thân. Sao Đà La cư Thân tùy cung an Thân tại tổ hợp Mệnh Tài Quan hay Phúc Phối Di mà khi từ nhỏ với trường hợp Thân tại Mệnh Tài Quan đã có tính chất phòng thủ với thân thể. Nếu Thân ở Phúc Phối Di thì khi lớn lên, trưởng thành xây dựng bản thân ta mang tính chất này còn ban đầu do Mệnh Tài Quan ta có Kình Dương nên ta có suy nghĩ, tư tưởng tranh đoạt, tranh đấu thời nhỏ gây thương tích bản thân khi qua hạn tại cung Mệnh, khi trưởng thành cũng lúc đại hạn qua Phúc Phối Di cư Thân ta thận trọng với thân thể hơn.


Sao Linh Tinh cũng là một sao xấu khi tọa thủ tại cung an Thân vì Linh Tinh là ngôi sao chủ yểu nếu xấu, Linh Tinh là sự lạnh, có tính Sát và dễ hóa thành sát nếu bị trợ hung bởi Sát Kỵ. Sao Linh Tinh nhập cung an Thân có tính chất không hay đặc biệt khi nhập Hạn xấu dễ là cách thân thể lạnh tức là cái chết khi không còn ấm nóng tại cơ thể. Bộ Không Kiếp nói chung và sao Thiên Không hoặc Địa Kiếp cư tại cung an Thân có tính chất xấu vì hai sao này khi cư Mệnh đã mang tính nguy hiểm được luận là đại sát tinh. Sao Địa Kiếp thủ cung Thân có tính tai kiếp tồn tại ở thân thể, Địa Kiếp còn dễ biến sự tốt đẹp thành tai họa khi đồng cung với các Chính Tinh hay Bàng Tinh khác. Nhìn chung Địa Kiếp không nên nhập cung an Thân và đặ biệt tối kỵ thêm Sát Kỵ Hình gây tai họa lớn tới cung an Thân. Sao Thiên Không cư tại cung an Thân có tính Không Vong cũng kỵ với vị trí này, thường sao này cũng mang ý nghĩa bất ngờ nếu đơn thủ và tai họa bất ngờ khi thấy sao Địa Kiếp. Trường hợp đơn thủ tọa cung Thân có sao Thiên Không đỡ xấu hơn việc có sao Địa Kiếp đơn thủ. Đặc biệt bộ Không Kiếp tại Tị Hợi đồng cung nếu cư Mệnh tốt đẹp hơn các vị trí khác, nhưng tại cung an Thân trở thành cách cục rất xấu. Cung an Thân có trường hợp an tại cung Thiên Mã cũng là cách hay khi Mã linh hoạt khiến các hành vi ra bên ngoài có tính chất chuyển động như vậy.

Lá số Thái Dương cư Tí (phần 2)



Lá số Thái Dương cư Tí (phần 2)


Thực chất sao Cự Môn không ngại gặp Không Kiếp, đặc biệt khi gặp Địa Kiếp đơn thủ vì Cự Môn chủ sự phản kháng trong khó khăn, bất mãn trong hoàn cảnh tai họa và tìm ra được lối đi thoát khỏi bất mãn ấy đặc biệt khi có Song Hao thay đổi hợp cách vì Cự Môn là tài năng lớn có thể thích nghi tìm ra các tai họa Không Kiếp gây ra. Trường hợp ở đây Cự Thanh có tính biến hóa, cũng chủ là cách Lão Bạng Sanh Châu càng lớn tuổi càng thâm mưu, ở đây là do tiếp thu các mâu thuẫn và có kinh nghiệm từng trải vượt qua các bất mãn nhờ tài năng của Cự Mion nên luận là hay. Nhưng Cự Môn tại đây lại có Tang Kiếp Khốc khác với chỉ có Địa Kiếp. Xét tới cung an Thân tại Tuất có Thiên Đồng tọa thủ đầy đủ bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương, bản cung có Linh Hổ Ấn, cung an Thân kỵ gặp Linh Tinh và Bạch Hổ là cách xấu, tuy ở đây có cách Đồng Linh chủ dễ linh ứng, khả năng linh tính trước tốt xấu mạnh nhưng Thiên Đồng gặp hai vòng Tuế Hổ Phù và Lộc Tướng Ấn lại có Thiên Không, xung chiếu là Địa Kiếp tạo tai họa bên ngoài hình thành cách " Lộc Đảo Tuế kỵ ngộ Kiếp Không". Ở đây Thiên Không đồng cung với sao may mắn và chủ thọ là Thiên Lương ở vị trí tốt đẹp mang ý nghĩa là cách cục không may, lại có bộ " Cơ Nguyệt Đồng Lương tối kỵ Hỏa Linh xâm phá". Bản cung an Thân có yểu cách là sao Linh Tinh và Bạch Hổ. Chỉ còn một may mắn nhỏ là cung Phúc Đức có Cơ Âm ở vị trí hãm tọa thủ ngộ Tuế Lộc tại bản cung là cách hay, cứu vãn cho cung độ quan trọng này nhưng xét chung tổ hợp có ý nghĩa xấu tác động qua lại khiến cung Phúc Đức gặp tai họa do Thiên Lươmg tại Thiên Di, tai họa do ra bên ngoài gặp điều không may, cũng vì lý do tương tác với nhau nên Phúc Phối Di mới tam hợp lẫn nhau. Ở lá số này đúng câu nói Mệnh tốt không bằng Thân tốt, Thân tốt không bằng Hạn tốt. Ở đây xét vòng đi của Đại Hạn rất hay, khi ban đầu bản mệnh và bản thân gặp những tai họa do tính cách, suy nghĩ ban đầu nhưng chuyển đổi, biến đổi được cứu vãn cho tới bây giờ. Chứng minh cho toàn bộ lá số tử vi mới có ý nghĩa là số mệnh, không phải chỉ cung Mệnh Tài Quan hay cung an Thân quyết định thọ yểu của đương số, đã có bài viết tác giả quy cung Mệnh cũng là một Đại Hạn nhưng sơ khởi có tính chất quan trọng hơn đánh dấu tư tưởng ban đầu về thói quen tác dụng tới các hạn tiếp theo.


Lúc nhỏ gặp nhiều tai ương họa ách và trầy trật trong cuộc sống khiến đương số cảm thấy bi quan, tự ti với cuộc sống nhưng đi đến đại hạn thứ hai cuộc sống đã trở nên tốt đẹp trở lại so với lúc thuở nhỏ. Đại hạn này có Thiên Phủ ngộ Tuần Khôi Hồng có Thiên Tướng là bộ Phủ Tướng đơn thủ thêm Xương Khúc Triệt ở vị trí tam hợp. Thiên Phủ ngộ Tuần, tam hợp có Triệt là cách cục không mấy tốt, tuy nhiên do Tuần tại bản cung không mấy xấu như việc có Triệt ngộ Thiên Phủ, ở đây là cách bị gò bó, soi mói nhưng có bộ sao quan trọng Khôi Hồng thêm Xương Khúc khiến bộ sao chủ trợ giúp, tương trợ này trở nên có tác dụng lớn hơn. Hạn này tinh thần và sự trợ giúp tới bản thân nhiều và đương số bước đi nhẹ nhàng qua hạn. Tới đại hạn thứ ba tại cung Phúc Đức gặp Cơ Âm ngộ Lộc Tuế tại bản cung có Không Hỏa đi với Thiên Lương tam hợp gặp tai họa khi đi đường, tuy nhiên không chết. Ở tiểu hạn năm Tuất và năm Dần tai họa đến ngay tức thì. Sang đại hạn thứ 3 vào cung Điền Trạch được đánh giá tốt nhất khi có Tử Tham tọa thủ ngộ Khoa Quyền Lộc giao hội thêm Đại Kình Việt Tả Hữu Thai Tọa có tính bạo phát rất mạnh, đương số phát nhanh vào hạn này do đã chịu qua khó khăn từ trước khiến trắc trở của Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham biến thành sức hoạch phát khiến đương số gặp thời lên vị trí rất cao trong sự nghiệp, địa vị ở mức cao trong xã hội được nhiều người kính nể, liên quan tới vi phạm pháp luật tức cách Kỵ Hình Tang Kiếp được đắc ý khi nhập hạn mà có được tiền của và xây dựng được quan hệ. Cũng chứng minh rằng việc có được phú quý cũng phần nhiều do Hạn quyết định, nếu Hạn mạnh hợp với Mệnh thì chỉ trong mười năm có thể thành tựu gây dựng được cơ đồ hơn một kiếp người. Tuy nhiên cuộc vui không được bao lâu khi đại hạn tiếp theo báo hiệu một tai họa rất lớn khiến cách cục sụp đổ. Bước qua đại hạn này mới năm thứ hai và tìm tới Tử Vi. Những người nhờ xem Tử Vi đa phần là đang gặp hoàn cảnh khó khăn phải trải qua.

Cách cục lớn về Tài cung (phần 2)



Cách cục lớn về Tài cung (phần 2)


Các Sát Tinh riêng nhập Tài cung có tác động liên quan tới hoạch phát tài danh. Cung Tài Bạch nếu gặp Sát Tinh hợp cách rất có lợi trong việc thu hoạch tiền bạc từ bên ngoài tức Thiên Di về bản thân. Không chỉ các cát tinh nhập tại đây mang ý nghĩa hay mà đôi khi còn mang ý nghĩa chậm tiến trong tài sản và ở mức ổn định dư giả không thể gọi là giàu có như các Sát Kỵ gia hội. Tuy nhiên nếu sát tinh gia nhập vào cung Quan Lộc lại là cách thăng trầm trong sự nghiệp không có tính chất thu giữ và bền vững như ở cung Tài Bạch. Vì vậy có câu " Công danh trước mắt trôi như nước". Chỉ cần một lần hoạch tài có thể giàu có cả cuộc đời và ngược lại nếu phá sản một lần vẫn có thể có cơ hội tạo dựng lại tài sản. Như cung Quan Lộc nếu thất bại thì khó có thể gây dựng lại cơ nghiệp do liên quan tới chữ danh. Chữ quý khó hơn chữ phú rất nhiều. Tiền nhân có câu " Xương Khúc cư Tị Hợi bất quý vi đại phú". Chữ Quý xếp ngang hàng với Đại Phú. Tuy rằng ngày nay có thể chữ Phú lên đứng đầu nếu xét về mặt thụ hưởng nhưng quyền lợi, quyền lực thật sự vẫn ở địa vị. Quan Lộc và Tài Bạch luôn tam hợp bổ trợ lẫn nhau nhưng phải phân biệt mỗi ngả không lẫn nhau với các sao tọa thủ tại mỗi cung. Bộ Không Kiếp là đại sát tinh có tính chất đảo ngược theo chiều hướng xấu, tai họa trong tất cả các cung trong Tử Vi. Ở cung Tài Bạch hai sao này cũng gây ra tai họa liên quan tới tiền bạc. Tuy nhiên có một tính chất nếu ở cung Mệnh hay xét toàn bộ tổ hợp là xấu nhưng chỉ xét riêng cung Tài Bạch luận là tốt là tính chất phá dã như lôi, hoạch phát thăng trầm vô độ của Không Kiếp đặc biệt khi đồng cung tại Tị Hợi tọa thủ Tài cung. Thiên Không nhập cung Tài Bạch có tính chất khác với Địa Kiếp. Sao này chủ sự bất ngờ, có tính Không Vong chủ mất mát khi đi với Sát Tinh. Thực chất khi Thiên Không tọa thủ cung Tài Bạch việc mất tài sản là chuyện bình thường hay xảy ra, tuy nhiên đây cũng là cách không ngờ mà có được, thành công được lợi nhuận khổng lồ cũng là Thiên Không khi hợp cách. Ở đây có cách tụ tán thất thường, tuy đi với Chính Tinh nếu gặp Cơ Nguyệt Đồng Lương là cách không may mắn trong tiền bạc. Tùy thêm các bàng tinh khác giao hội mới có thể đưa ra kết luận cho cách cục. Trường hợp nhìn thấy Địa Kiếp thì luận tính chất bất ngờ, mất mát theo sao này, thăng trầm vô độ với tai hoạ, tai kiếp. Với sao Địa Kiếp tọa thủ cung Tài Bạch có tính chất giữ của, thuộc cách bon chen, ích kỷ trong chuyện tiền bạc nhưng đây lại là hợp cách. Tuy nhiên do Địa Kiếp có tính tai nạn khiến cách cục dễ đổ vỡ khi đáo hạn xấu gặp tai kiếp, nếu có thêm Thiên Không có thêm tính bất ngờ. Nếu cung Tài có Thiên Tướng hay Sát Phá ngộ Không Kiếp tốt đẹp hơn vì tìm thấy lợi ích trong tai họa về mặt tiền bạc.


Bộ sao Hỏa Linh cư tài cũng mang nhiều ý nghĩa tốt xấu tùy vào từng cách cục. Nếu Hỏa Tinh sáng thì tiền bạc dễ kiếm được và trong thời gian rất nhanh chóng, đặc biệt khi có thêm sao chủ tham vọng như Tham Lang hình thành cách Hỏa Tham. Hỏa Tinh nhập Tài Bạch tính hoạch phát lớn vì mạnh bạo do khí của hỏa. Sao này mang tính chất nhiệt huyết nên cần cẩn thận trong quá trình kiếm tiền vì có thể mang tai họa vì sự quyết đoán, nông nổi của Hỏa Tinh. Sao Linh Tinh cư cung Tài Bạch là cách nhanh trí, cơ mưu trong việc tạo ra tài sản. Linh Tinh có đặc tính giữ tiền bạc rất tốt, nhập cung Tài thường có tính tiết kiệm với tiền bạc. Thuộc cách lạnh nhạt nhưng khi quyết tâm rất tập trung thực hiện công việc. Linh Hỏa nhập cung Tài Bạch không luận là xấu nhưng nếu có cách Việt Linh Hĩnh, Khôi Hỏa Hình, Kình Hỏa, Linh Xương Đà là cách cục xấu mang ý nghĩa tai họa. Tuy nhiên các cách này đều có thể vượt qua trở thành tốt nếu cung Mệnh có tính chất dụng được Hỏa Linh. Hỏa Linh cư Tài là vị trí tốt hơn so với Mệnh và Quan của hai sao này. Trong trường hợp nếu có cung an Thân an tại cung Tài tính chất càng quan trọng. Hỏa Tinh là nóng,nhiệt huyết, nhiệt tình, quyết tâm. Linh Tinh là lạnh, lạnh lùng, cô độc, quyết đoán. Hai so này tính chất khác nhau nhưng đều cách quyết tâm nên có tính phát lớn nhờ hóa Sát thành Quyền.



Thursday, March 30, 2017

Thực tế ngoài tác động lá số Tử Vi



Thực tế ngoài tác động lá số Tử Vi


Mỗi năm sinh ra do một Thiên Can kết hợp với một Dịa Chi và theo nguyên tắc Thiên Can dương đi với Địa Chi tam hợp hóa Thủy và Hỏa. Thiên Can âm luôn đi với câc Địa Chi tam hợp hóa Kim và Mộc. Có một số lượng sao với tính chất quan trọng tác dụng hiển hiện trên lá số Tử Vi an theo Thiên Can và Địa Chi của năm sinh sắp đặt sẵn trên lá số tinh bàn. Vì vậy ta thường nghe việc tiền nhân luận chỉ can chi của năm và ngũ hành gốc của bản mệnh là dự đoán khái quát để nhìn cuộc đời của mỗi người ở các nét cơ bản khi có thêm một số dữ kiện như tướng mạo hay một số điểm chính của quá khứ hay tư tưởng. Mười hai cung trên Tử Vi đều biểu diễn chính bản mệnh ta và hạn đi tới các cung như Phụ Tử Nô, Tật Điền Bào sẽ bộc phát tính chất ấy ra bên ngoài với tín hiệu mạnh hơn. Như việc trong tất cả các trường hợp của sao Thiên Việt thì đây đều là đôi vai của ta, luôn giữ đặc tính liên quan tới sự gánh vác trách nhiệm. Một ngôi sao có rất nhiều nghĩa và phân ra cũng rất nhiều cách khi bên ngoài thực tế biểu hiện. Thiên Việt nằm trong bố cục sao có ý nghĩa xấu ở bản cung Mệnh thì tính chất hiển lộ ngay tới tư tưởng, tính cách, nếu ở tam hợp mệnh tức cung Tài Quan tính chất ban đâu vẫn như vậy nhưng biến hóa đi liền thêm liên quan tới Tài Quan, tức việc biểu hiện không rõ về tính chất như thủ tại cung Mệnh. Nếu trường hợp khác ở bên ngoài cung Mệnh Tài Quan tính chất vẫn như vậy nhưng biểu hiện qua tính cách rất yếu chỉ tùy trong thời điểm và có tính chất biến đổi liên quan tới bản cung tọa thủ. Bị các sao ờ hiện tại hay Mệnh Tài Quan chiếm vị trí thể hiện tính chất. Việc này được thể hiện như một chiếc bóng đèn sáng liên tục và một bóng nháy sáng. Lưu ý rằng đại hạn cho tính chất dài, tiểu hạn cho tính chất ngắn trong thời gian một năm, nguyệt hạn ngắn hơn ở tháng và nhật hạn biểu diễn tính cách ở mức độ ngày.


Thực chất còn cả Thời Hạn tức thể hiện cho một canh giờ. Tuy nhiên dễ nhận ra rằng ở Nhật Hạn, Thời Hạn hay thậm chí cả Nguyệt Hạn bị ngoài cảnh bên ngoài đời thực tác động mạnh tới tư tưởng. Như việc bỗng nhiên sinh ra đương số bị cha mẹ truyền cho căn bệnh HIV, hay một khuyết tật khác như di truyền chất da cam mặc dù mệnh không có cách cục xấu gây thương tật hay mắc bệnh và có rất nhiều lá số tốt đẹp bị mắc những bệnh này dẫn tới cuộc đời các tư tưởng ở mức mạnh như cung Mệnh luôn có tâm lí lo lắng, sợ hãi ở trong tư tưởng khiến cuộc sống đời thực và lá số tử vi khác hoàn toàn nhau. Thực chất là việc tính chất của cách cục Tử Vi bị biến đổi dạng ở bầu thì tròn, ở ống thì dài theo dưới tư tưởng thường trực khi bản thân mắc bệnh trên. Đây là trường hợp mạnh ngoài cảnh bên ngoài tác động tới nhiều đại hạn. Trường hợp nhỏ hơn là khi hạn trước rất xấu đương số có cách phải ngồi tù thời gian khoảng một đại hạn và tới đại hạn tiếp theo rất tốt đẹp nhưng đang ở trong tù tính chất suy nghĩ, tư tưởng ở cấp độ Đại Hạn, khi ra bên ngoài tức sang đại hạn tiếp theo lại trở về bình thường nhưng sẽ mang được kinh nghiệm từ trước và khi gặp cách cục Sát tương tự khó vấp phải. Vì vậy bản mệnh có Sát tinh không luận vội là tai họa. Qua đó thấy việc Tử Vi phải tránh những trường hợp tưởng bên ngoài thực tế tác động quá lớn tới tư tưởng.

Lá số Thái Dương cư Tí (phần 1)


Lá số Thái Dương cư Tí (phần 1)


Nam mệnh sinh giờ Tị ngày 5 tháng 4 năm Giáp Dần. Thiên Can thuộc Giáp nhấn mạnh tính chất của cách Sát Phá Tham giao hội với Tử Vũ Liêm vì được đủ bộ tam hóa Khoa Quyền Lộc. can Giáp an tứ hóa theo thứ tự Liêm Phá Vũ Dương. Thật không may khi tam hóa không thấy đâu mà chỉ thấy lôi ra Thái Dương thủ mệnh đi với Hóa Kỵ. Bản mệnh thuộc Thủy mà chính tinh tại bản cung thuộc Hỏa nên tính cách có phần đi theo Cự Môn. Thực chất khi luận cả tổ hợp Cự Nhật cũng cho ra tính cách của mệnh tạo. Các sao ở bản cung như Thái Dương có tính chất mạnh hơn ở tam hợp, nếu chỉ luận cơ bản cũng không cần thiết đến ngũ hành nạp âm mệnh mà cần quan tâm nhất là tính chất của Mệnh, Thân và Hạn, chỉ cần xét đủ tính chất các sao của bản cung Mệnh và toàn bộ bố cục Mệnh Tài Quan của đương số đã khó khăn, nếu xét thêm hợp hay bất hợp với các chính tinh tọa thủ tại bản cung và tính chất sai biệt khi bất hợp trở nên khó khăn phức tạp hơn rất nhiều. Chỉ cần chú ý việc bản mệnh thuộc hành Thủy liên quan hơn tới Cự Môn và tính chất của Thái Dương tác động mạnh tới việc bản tính khi suy nghĩ sẽ theo sao này. Khi xét tổ hợp cho biết tính chất quan trọng hơn. Mệnh có Thái Dương cư Tí thuộc bố cục Cự Nhật với Cự Môn cư Thìn và Thái Dương cư Tí. Ở đây bản cung mệnh có Thái Dương ngộ Hình Kỵ Tuần có Điếu Binh ở vị trí Đế Vượng của vòng trường sinh. Thái Dương cư Tí lạc hãm chủ sự thua thiệt, không có tính hướng lên như gặp Tuần là tốt nhưng đây là cách Tuần Kỵ Hình, nếu có Triệt Kỵ Hình đã xấu đây lại Tuần Kỵ Hình có Điếu Binh là cách cục xấu của Thái Dương. Về bản tính luận từ khuyết điểm của Thái Dương khi gặp bàng tinh xấu như Kỵ Hình là sự vi phạm về hành vi, làm việc hay bỏ dở chóng chán, Thái Dương tốt đẹp là sự may mắn, báo hiệu cho cuộc sống tươi sáng phía sau, là ngày mới nhưng khi tối là mây đen, chủ sự buồn khổ vì những khó khăn. Thái Dương ở đây lạc hãm chủ sự khó khăn lại gặp phải bộ Kỵ Hình tại bản cung khiến sự khó khăn tăng lên, cuôc sống vất vả, chật vật với lo âu là điểm nhấn của cách cục này. Xét cả sự tác động của hoàn cảnh mệnh tạo có Thái Dương ngộ Cự Thanh Tang Khốc Kiếp nhập La Võng. Thực chất là giao hội với các bộ Tang Hư Khách, Thanh Phi Phục, Phượng Khốc, Thiên Mã, Hình Diêu và Sinh Vượng Mộ của vòng trường sinh đi với đại sát tinh, ngôi sao tai họa, kiếp nạn là Địa Kiếp.


Tuy Tang Hư Khách tức có Mã được Phượng Khốc nhưng bố trí không hợp lý hình thành các cách cục xấu tại bản cung như ở vị trí của Cự Môn. Ở đây ý nghĩa Cự Môn khi nhập La Võng xấu may được Thanh Long lại gia thêm Tang Kiếp Khốc Diêu Mộ, tam hợp có cả bộ Kỵ Hình Tuần ý nghĩa xấu tam hợp khiến cách cục biến chuyển theo chiều hướng xấu. Cách Kỵ Khốc Hình Tang Kiếp có La Võng rất độc vì hình thành đủ bộ ở tam hợp chiếu. Như việc nếu có Kỵ Hình đồng cung là xấu, thêm Địa Kiếp đồng cung rất xấu, tuy nhiên Địa Kiếp tam hợp có tính chất giảm nhẹ nhưng đây là Tang Kiếp Khốc có Thiên La tính chất mạnh tác động hiển hiện tới toàn bộ cách cục. Thực chất mệnh này khi sinh ra mắt đã rất kém, nuôi nấng là một sự khó khăn, vất vả. Thái Dương khi xấu là tăm tối, có thể ảnh hưởng tới cả đôi mắt vì đây là cái nhìn. Thưở nhỏ thoát chết nhiều lần, có lần nặng liên quan tới tai nạn sông nước, mệnh tạo luôn thường ở trong trạng thái trầm cảm, chán nản do Thái Dương là sao chủ tinh thần xấu, thường có những bất mãn về cuộc sống, cuộc đời khiến đương số sống khổ sở về mặt tinh thần, thường hay lo nghĩ tào lao, khi gặp khó có chiều hướng bi quan với cuộc sống. Ngay từ nhỏ đã có tính phản kháng lớn và gặp tai họa vì tính chất này. Có lần bị vỡ đầu khâu nhiều mũi do cự cãi với người khác, án nói khó nghe, thường hay chê bai người khác bằng cái miệng Cự Môn.

 Lá số tử vi :

Một số cách cục của Thiên Mã (phần 2)



Một số cách cục của Thiên Mã (phần 2)


Thiên Mã luôn an cố định theo Địa Chi tức năm sinh. Vì vậy do sự giao hội của các sao an theo Thiên Can và Địa Chi mà mỗi năm tức một Can Chi chứa đựng một Thiên Mã được định sẵn các tính chất của tuổi ấy, có nhiều cách cục giá trị với sao này. Với Địa Chi thuộc Thân Tí Thìn tức luôn gặp Thiên Can dương thì sao Thiên Mã an tại cung Dần. Với tuổi Giáp Thân thì sao Lộc Tồn cố định tại vị trí này, Thiên Hư cũng cư tại đây, đặc biệt có sao Phượng Các đồng cung hình thành bộ Lộc Mã Hư Phượng, đây là cách cục khá hay và giá trị của Thiên Mã khi có Phượng Các và Lộc Tồn đồng cung. Ở đây có sự sao Thiên Hư có ý nghĩa hư hỏng, thất bại và Mã Lộc Phượng thay đổi biến thành sự thành công nhờ tính động của Mã Phượng. Thiên Hư tại đây trở thành sự khéo léo, là cái giả nhưng có ý nghĩa tốt như việc giả không biết để nhận được thêm nhiều kiến thức từ người khác, giả nghèo khổ hay gọi là khiêm tốn. Thiên Mã tại vị trí cung Dần là cách Lộc Mã Giao Trì có Phượng Khốc mang ý nghĩa hay cho tuổi Giáp Thân. Ở tuổi Giáp nếu Mệnh an tại đây có các cách cục Chính Tinh đa phần hay vì cung độ Dần nơi khởi nguyên của Mệnh Thân của lá số, tại đây có thể có cách cách hay như Đồng Lương, Tử Phủ, Vũ Tướng, Liêm Trinh, Thất Sát, Phá Quân, Cơ Âm, Cự Nhật là các cách ban đầu có ý nghĩa hay khi an tại đây. Với tuổi Giáp Thìn cũng có một cách cục rất hay là bộ sao Mã Khốc Khách tại cung Dần. Bộ sao này có tính võ cách chủ sự gan dạ, bạo phát được người khác ngưỡng mộ của mệnh. Thiên Khốc kiên cường ý nghĩa sự ngẩng mặt, mang tính tàn khốc khiến cách cục trở nên linh hoạt, táo bạo. Mã Khốc Khách đồng cung là chính cách của cách cục này, mang đầy đủ tính chất khác với trường hợp thứ cách có một sao ở vị trí tam hợp chiếu ý nghĩa có phần khác. Ở đây cũng có thêm Lộc Tồn khiến cách cục trở nên tốt đẹp hơn hình thành bộ Lộc Tướng Ấn ngộ Mã Khốc Khách thủ Mệnh nếu gia cát là cách cục thượng cách. Với tuổi Giáp Tuất ở cung Thân cũng có bộ Mã Khốc Khách nhưng đi với cách Thanh Phi Phục, đặc biệt có Phi Liêm đồng cung không mấy hay, tuy nhiên hàm chứa ý nghĩa phi thường nếu gia cát là cách mệnh chủ làm việc nhanh chóng, nhạy bén cũng là cách cục hay, tuy nhiên kém hơn so với việc tại Dần của tuổi Giáp Thìn có cách Lộc Mã Giao Trì. Với cung độ Tị Dậu Sửu luôn gặp cách Thiên Mã cư Hợi cho các Thiên Can âm, ở đây không tồn tại Phượng Các nên  Thiên Mã ở đây hiếm khi được luận là hay và trở nên khó đắc cách. Ở một số câu phú nói về Mã cư Hợi tuyệt xứ muốn nhắc tới cách này phần lớn do Mã không có Phượng Khốc để có sự táo bạo, cương quyết vượt qua khó khăn do cách Tang Hư Khách gây ra. Tuổi này nếu sinh tại tháng Thìn tức tháng ba luôn gặp cách Mã Hình cư Hợi là cách Phù Thi Mã không hay, mang ý nghĩa của sự bế tắc, hình thương tới chân tay, cần có Hóa Quyền để hóa giải khiến cách cục biến về quyền cách, với tuổi Đinh gặp cách Việt Hình Mã xấu tối kỵ gia hội Linh Kiếp dễ gặp cách yểu tử khi mệnh an tại đây. Với tuổi Ất có Lộc Tồn cư Mão cứu nguy cho cách này vì được bộ Hình Ấn, luận tốt vì cách Hình Ấn rất hay, cũng hình thành cách Lộc Mã giao trì khiến Thiên Mã trở nên hữu dụng tuy vẫn gặp khó khăn trắc trở nhưng có thể vượt qua.

Wednesday, March 29, 2017

Tính chất cơ bản của sao Quốc Ấn



Tính chất cơ bản của sao Quốc Ấn


Sao Quốc Ấn nằm trong bộ Lộc Tướng Ấn, quyết định phần lớn về giá trị của tính chất bộ sao này. Quốc Ấn là sao mang tầm quốc gia, liên quan tới sức mạnh ở mức độ lớn nhất mà một lá số Tử Vi có thể diễn tả. Sao Quốc Ấn thủ Mệnh là một trường hợp đặc biệt trong Tử Vi, tuy nhiên tùy sự giao hội của các Chính Tinh hay Bàng Tinh mới luận mức độ quan trọng từ mệnh của nhân viên, công chức làm việc trong nhà nước tới lãnh đạo cao nhất của quốc gia cũng liên quan tới sao này. Quốc Ấn có thể hướng tới cả văn cách và võ nghiệp cách. Tướng Ấn ở đây là trọng trách bảo vệ tổ quốc, Tướng Quân chính là sao chỉ huy trong cách cục binh nghiệp. Vì vậy khi có thêm Thiên Hình hình thành bộ Binh Hình Tướng Ấn là sự tôn nghiêm của bản thân qua quân phục, Thiên Hình từ ngôi sao chủ hình khắc trở thành đắc dụng khi thể hiện qua trang phục. Ở đây có biểu tượng của đất nước nên là cách cục của người lãnh đạo, nếu theo binh nghiệp thì cũng đứng đầu một đơn vị, tổ chức. Sao Quốc Ấn luận tính chất có nhiều cách cục tốt xấu đan xen không phải luôn hữu dụng, có khi Quốc Ấn là sự xa cách, rời xa khỏi đất nước. Như trường hợp Cự Môn có Quốc Ấn hay xét chung giao hội với bộ Lộc Tướng Ấn là cách rời xa khỏi quê hương, đất nước để đi tới quốc gia khác. Ở thời nay việc đi sang các nước bên ngoài để công tác, sinh sống là chuyện thường nhưng thời phong kiến cách này thường gặp ở cách phản quốc dễ bị nguy hiểm tới tính mạng. Cách Cự Môn đặc biệt là Cự Nhật có Kỵ Ấn thường là cách sang định cư ở nước ngoài, nếu có Triệt khả năng rất cao. Cách này có mặt tại Hạn cũng luận như vậy. Quốc Ấn có thể hóa giải tính Sát trở thành Quyền. Quốc Ấn khi gia Sát Diệu gặp cách cục then chốt sự hi sinh vì tổ quốc, đất nước.


Nếu xấu là trường hợp chết đi để cả nước biết tới uế danh. Như các trường hợp hình sự giết người man rợ, hay những việc làm gây tai họa lớn mà để lại tiếng tăm tới khắp mọi nơi, nhẹ hơn là các trường hợp lập dị. Ngày nay việc cả quốc gia biết tới chính bản thân không khó khăn do tác động của công nghệ thông tin xã hội ngày càng phát triển. Quốc Ấn làm mạnh thêm cho Lộc Tồn, nếu có thêm Hóa Lộc hình thành cách Lộc trùng điệp, thêm cát diệu được luận là cách giàu có, bộ Song Lộc có tính tài cách lớn, Quốc Ấn làm to thêm tính chất này. Quốc Ấn còn là ngôi sao của sự ghi dấu ấn, cần hiểu rõ vì ý nghĩa quan trọng. Như tạc tượng của một danh nhân có công lao to lớn tới quần chúng cũng có Quốc Ấn chủ sự lưu giữ lại mang tính biểu tượng. Quốc Ấn có tính chất thu trữ, tích trữ do có Lộc Tồn tại vị trí tam hợp. Sao này chứa đựng sự uy tín, là vật có giá trị để thể hiện một sự kiện hay bản thân. Vì thế sao này có tính chất đại diện và chủ sự quý hiểm nếu đi cùng các sao có cùng ý nghĩa như Khôi Việt, Cô Quả. Khi có mặt trong cách cục xấu vong mạng chủ những kỷ vật còn giữ tượng trưng của một người. Nhìn chung khi luận tử vi thường chú ý tới cách Hình Ấn. Quốc Ấn thường biểu hiện cho sự thịnh vượng nếu không bị phá cách. Cách Hồng Ấn là cách cục mang ý nghĩa rất hay, gia tăng tính chất to lớn cho Quốc Ấn trở nên tốt đẹp hơn. Quyền Ấn thể hiện tính quyền lực. Cách Triệt Ấn có ý nghĩa xóa đi tính biểu tượng, xóa đi biểu tượng một nền văn minh là xóa đi toàn bộ di tích của nó. Ngoài ra có cách Kỵ Ấn, Kiếp Ấn đều là cách xấu, mang tính cản trợ hay tai họa với ý nghĩa của Quốc Ấn.

Đại Hao và sự bộc phát


Đại Hao và sự bộc phát


Đại Hao là sao thuộc cách Kình Đại hoặc Đà Đại, an theo Thiên Can của năm sinh nên có tính chất đặc trưng thể hiện cho cách cục. Các sách thường chỉ bàn đến tính chất hao phí của bộ sao Đại Tiểu Hao mà không mấy đề cập tới toàn bộ cách cục khi luôn ở vị trí tam hợp với Kình Đà. Đại Hao có tính chất trái ngược với Tiểu Hao và hai sao luôn xung chiếu lẫn nhau. Mệnh có Đại Hao tọa thủ tính chất khác biệt lớn với việc ở vị trí tam hợp chiếu. Đại Hao chính xác có tính chất hao phí, nhưng tính chất quan trọng của sao này gắn liền với sự thay đổi. Đại Hao là sự thay đổi lớn và Tiểu Hao là sự thay đổi nhỏ. Sự thay đổi của Đại Hao có tính chất liên quan tới ý tưởng, nhiều phần liên quan tới vật chất, tài sản gắn liền, trong khi thay đổi của Phá Quân thường gắn liền với thay cũ đổi mới ở tư tưởng, đường lối vì Phá Quân gắn liền với lý tưởng của Tử Vi. Cũng vì thay đổi mang yếu tố vật chất nên Đại Hao cũng có tính chất đầu tư. Song Hao là trục cách của trục Tồn Phi. Tính chất Lộc Tồn trái ngược Phi Liêm và tính chất của Đại Hao trái liền với Tiểu Hao. Hay việc Hao Kình trái ngược với Hao Đà. Ở các bài viết về bộ sao Kình Đà đã bàn về tính chất của các sao này. Khi mệnh có Song Hao luận khác có Kình Dương hay Đà La. Nổi bật ở các Song Hao là sự thay đổi liên tục liên quan tới tài sản, khi cư tại Mão Dậu gặp hai sao Cự Cơ đồng cung mang ý nghĩa tốt đẹp.
" Mão Dậu Cự Cơ tốt thay, công danh vinh hiển lại tay hoang tàn, ngộ Song Hao là làng quán thế".
Cự Môn và Thiên Cơ có bộ Song Hao tính chất thay đổi do thời cơ lớn kết hợp sự bất mãn khiến phải thay đổi để thành công.


 Bộ Song Hao còn có tính chất trao đổi, ở đây cũng là cách trong kinh thương khi Song Hao trao đổi để có lợi ích cá nhân tức về phía Thiên Cơ, ngoài ra còn chủ chi phí để đầu tư thu lại lãi lớn hơn phí ban đầu bỏ ra. Ở bài viết này chủ yếu bàn tới cách Đại Hao thủ mệnh. Với Đại Hao thủ Mệnh thì Tiểu Hao tại cung Thiên Di. Bản chất của cách này là bên trong bản thân to lớn, bên ngoài trở thành nhỏ bé. Nếu xét về sự hao hụt, hao phí bản thân ta phung phí lớn, tiêu hao lớn. Xét về sự thay đổi thì bên trong suy nghĩ tư tưởng thay đổi lớn thì bên ngoài khiến ta trở lại ý nghĩ thay đổi nhỏ. Điều này cũng như việc Thái Tuế chủ Sự Thật và Thiên Hư bên ngoài chủ Cái Giả. Lộc Tồn chủ sự tích lũy và Phi Liêm chủ sự tan vỡ. Hai bên hoàn toàn có ý nghĩa trái ngược nhau biểu thị cho hai cách cục khác biệt về tính cách. Bên trong ý nghĩa thay đổi lớn và bên ngoài ý nghĩa thay đổi nhỏ. Tất nhiên do gọi quen là bộ Song Hao nên ta mặc định sự liên kết của hai sao này với nhau để luận đoán nên thường luận cả bộ mang ý nghĩa tương trợ nhau. Thực chất nên gọi bộ Song Hao về tên gọi riêng là Trục Song Hao. Ta lại có bộ Đại Kình mang ý nghĩa thay đổi lớn để tranh đoạt, tranh đấu, chống lại có tính tấn công, dương tính. Khi thực hiện tấn công phải chuyển động, Đại Hao là chuyển động lớn. Mệnh có Đại Hao tam hợp có Kình Dương tức ta thay đổi tư tưởng vì mục đích là sự tranh đấu. Trái ngược với bộ Kình Đại ta có bộ sao Đà Đại. Ở đây có tính thay đổi lớn để phòng thủ, đề phòng, tiếp thu. Vị trí Đại Hao của bộ Đại Kình hay Đại Đà đều mang tính bộc phát lớn do bản chất của cách cục Kình Đà Hao. Từ Đại Hao chủ sự thay đổi lớn ta tìm ra khi đi với các Chính Tinh ưa thay đổi hay cố định mà đưa ra các luận đoán chính xác về sao Đại Hao này.

Tuesday, March 28, 2017

Dương Lương Xương Lộc hội



Tính chất bố cục Dương Lương Xương Lộc


Thực chất đây là sự phối hợp nhiều tính chất giữa chính tinh và bàng tinh, qua đó hình thành cách cục hay chủ sự nổi danh bởi việc học. Thường có câu phú đi cùng cách cục này " Dương Lương Xương Lộc hội lô truyền đệ nhất danh". Bố cục sao thuộc văn cách. Thái Dương và Thiên Lương giao hội tức gặp cả bộ Âm Lương hình thành cách Âm Dương Lương. Tính chất của bộ sao Âm Dương Lương có tính may mắn và sự công khai, dương lên của sao Thái Dương. Dương Lương đồng cung tính chất rõ rệt hơn việc tam hợp, khi đó chủ được sự thành công do may mắn và tài năng của Thiên Lương. Vũ Tham Cơ Lương là các sao chủ có tài, đa mưu. Dương Lương là tài năng được biết tới, trong khi Âm Lương là sự may mắn không thể hiện ra bên ngoài. Dương Lương hay vì lý do như vậy chủ tính dương, sáng tỏ. Trái ngược là cách Đồng Âm có tính âm, chủ sự âm thầm, kín tiếng, được hưởng phúc. Hai cách cục này tính chất trái ngược nhau, một bên phô ra, một bên đậy lại nhưng đều mang tính chất tốt đẹp khi Âm Dương đều sáng tức sự tốt đẹp hiện ra. Âm Dương Lương hoàn chỉnh có tính chất quan trọng ở mặt  danh tiếng, tinh thần vì Âm Dương là hai sao chủ trạng thái tinh thần. Như các cách có Âm Dương thường chữ quý hiển được đặt trên lợi ích, danh tiếng trên tiền bạc. Âm Dương chính là mắt thấy và tai nghe. Mắt thấy có tính dương, chủ động với Thái Dương và tai nghe mang tính thụ động, là Thái Âm. Bộ Dương Lương chủ động nắm lấy may mắn mà thành công dương lên. Đồng Âm được phúc đức của âm linh phù hộ mà nhận lấy thụ động những thứ hưởng thụ như tuổi thọ, công danh tiền bạc. Dương Lương do tính chất chủ động nên thường mang tính tự quyết định, tốt được người khác công nhận, xấu bị chê bai. Văn Xương là ngôi sao khác biệt hoàn toàn với Văn Khúc. Văn Xương chủ sự thẳng thắn, mang tính hiểu biết do tiếp thu từ người khác. Bộ Dương Lương có Văn Xương có tính chất học hỏi để biến thành kiến thức của bản thân sau kinh nghiệm và truyền đạt lại cho người khác.



Thiên Lương thường lấy của mình cho người khác, đi với Thái Dương được biết tới do sự công khai, công bố. Dương Lương có Xương là cách thể hiện tài năng, hiểu biết của chính bản thân ra bên ngoài. Văn Xương là sao của học vấn, phô trương tài học ra bên ngoài và gặp may mắn cũng là cách này. Việc có thêm Lộc tức Hóa Lộc hay Lộc Tồn cho thấy sự khen thưởng, mang tính tài lộc cho bộ Dương Lương.  Lưu ý việc có Hóa Lộc khác với gặp Lộc Tồn về ảnh hưởng của cách cục. Với Lộc Tướng Ấn tăng khả năng vị trí thành tích, có thể mang tầm quốc gia nếu được thêm các sao chủ tăng giá trị cho cách cục. Với Hóa Lộc chủ yếu có tính chất của tài lộc, không bao hàm giá trị lớn hơn như Lộc Tướng Ấn. Cần thiết rõ ràng cách phối hợp của Chính Tinh với bàng tinh để luận đoán thay đổi khi gia hội thêm Sát Kỵ tinh. Như có thêm Khôi Việt sự nổi danh càng lớn, đồng cung với Thiên Việt không được cách trên, đồng cung với Thiên Khôi hay hơn rất nhiều. Gặp Kình Hao hợp cách, đặc biệt là Kình Phượng. Gặp Đà La không luận như vậy vì Đà La đứng thứ hai, chủ đứng sau khi xếp vị trí. Với Dương Lương Xương Lộc gặp Hỏa Linh tùy theo các cách cục xấu gia hội để luận tai họa, nếu Hỏa Tinh đi với Thiên Lương là cách cục xấu mang tai họa không có ý nghĩa trên. Nếu Hỏa Tinh được chế ngự gặp như Khoa Quyền Triệt luận theo chiều hướng bạo phát do may mắn mà được danh tiếng rất nhanh.

Monday, March 27, 2017

Tham Lang độc tọa cư Tí Ngọ cách (phần 2)



Tham Lang cư Tí Ngọ thủ mệnh (phần 2)


Sao Tham Lang cư Tí Ngọ chia làm các trường hợp khi giao hội với bàng tinh an theo Thiên Can như cách Kình Hao, Đà Hao, Lộc Tướng Ấn, Thanh Phi Phục. Với Tham Lang độc tọa ở Tí Ngọ cần thiết nhất có bộ Kình Hao tăng tính tranh đoạt của Sát Phá Tham với nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm. Tuy nhiên ở đây nếu đồng cung dễ gặp cách Kình Dương ở Tí Ngọ Mão Dậu phi yểu chiết tắc hình thương. Vì vậy nếu có Kình Dương ở tại cung Thìn Tuất là cách hay vì được Kình cư Tứ Mộ. Sao Kình Dương khiến Tham Lang trở nên cứng rắn hơn, tăng mạnh tính chất ham muốn về vật chất. Tham Lang do tại đây đặc tính yếu chủ sự an phận và Thất Sát nhập La Võng tính chất không mạnh bạo, ương ngạnh dễ gặp phải tai họa của La Võng nên rất cần thiết có Kình Hao, kỵ gặp Đà Hao khiến tổ hợp thêm rối ren. Tham Lang ngộ Thanh Phi Phục đặc biệt ở vị trí của Thanh Long là cách hay chủ mưu kế, quyền biến khi vạch ra đường lối cho nhóm Sát Phá Tham hành động. Nếu Tham Lang độc tọa ngộ Lộc Tướng Ấn là cách cục xấu, chỉ hợp với vị trí đồng cung với Quốc Ấn tuy nhiên Phá Quân có ý nghĩa xấu không thể thay đổi được cái cũ bằng cái mới khiến tính hành động của nhóm sao này giảm thiểu lớn. Tham Lang đặc biệt thích hóa thành Quyền hơn Lộc vì Tham Lang khi đứng một mình tại Tí Ngọ không có được sự trợ giúp lớn nên cần thiết hóa thành mạnh bạo, cương cường mang tính quyền lực tức Hóa Quyền. Bộ Khôi Việt thường mang lại tai họa khởi phát cho nhóm Sát Phá Than thì tính chất bộc phát của bộ sao này, cách Khôi Phá nếu không có trợ tinh thì thường mang ý nghĩa không mấy tốt đẹp, chủ sự phá hoại lớn, kẻ mang tội nặng khi xấu. Với Tham Lang ngộ Khôi Việt tại bản cung vẫn là cách cục hay vì Tham Lang là mưu kế, định hướng cần thiết được khởi đầu nếu không có định hướng thì Sát Phá ưa làm càn dễ mắc sai lầm dẫn đến tai họa. Lưu ý cần tránh gặp thêm các sao như Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Hình, tạo thành các cách cục tăng cường tính sát dẫn tới tai họa nguy hiểm.



Với các sao an theo Địa Chi không hợp với bộ Tuế Hổ Phù đặc biệt là việc Bạch Hổ đồng cung với Thất Sát chủ xấu. Tham Lang ngộ Thái Tuế do tính chất hiển lộ của các sao an theo Địa Chi mà Thái Tuế mang tính thẳng thắn, thật sự khiến dễ lộ ra ham muốn của sao này ra bên ngoài nên không hay vì không có lý tưởng để Thái Tuế thể hiện ra bên ngoài, tuy nhiên nếu có bàng tinh tác động thì có thể luận theo chiều hướng tốt ngược lại. Ở Bộ Tử Vũ Liêm đối cung lại rất cần thiết có Tuế Hổ Phù để thể hiện lý tưởng của Tử Vi ra bên ngoài, được quần chúng hay không là do Phượng Khốc. Tóm lại cách Tham Lang tại Tí Ngọ cần thiết có Tang Hư Khách tức có thêm Thiên Mã, cách Tham Lang ngộ Tang Môn hợp lí, như có Phá Quân gặp Thiên Hư là hay. Cần gặp bộ Phượng Khốc để được ngưỡng mộ tăng giá trị cho Tham Lang, đặc biệt cách Khốc Hư ở Tí Ngọ luôn có Thiên Mã tại Dần Thân ngộ Phượng Khốc rất hay, tuy nhiên bất lợi khi xét riêng của Tham Lang trở thành mang ý nghĩa ham muốn ảo vọng. Nhìn chung nếu được bộ Mã Khốc Khách tại Dần Thân có thể theo võ cách dễ thành tựu. Tham Lang ngộ Xương Khúc đặc biệt là cách Tham Lang ngộ Văn Xương tại bản cung là cách quyết tâm thực hiện điều khó làm. Ngược lại nếu Tham Khúc là cách hay bỏ dở ý định kế hoạch của bản thân. Tham Lang ngộ Tả Hữu cũng mang ý nghĩa tốt, khiến Tử Vũ Liêm thiếu tay chân đắc lực, thế lực hai bên cân bằng hơn. Mệnh có Tham Lang hạn gặp Cự Cơ Đồng có tính chất thay đổi hoạch định do nhiều tác động bất mãn, đây cũng là hạn khá khó khăn của Tham Lang. Tham Lang ngộ Tam Không là cách cục rất tôt chủ tham vọng lớn, nếu chỉ gặp Triệt tại bản cung lại là cách ham muốn nhỏ. Tham Lang ưa gặp Hỏa Linh chủ tham vọng về quyền bính hay tài lộc. Cách này rất cần có Khoa Quyền Lộc để tạo thành công khiến bố cục Sát Phá Tham trở thành hữu dụng, nếu không có chỉ là bố cục bình thường

Tử Tướng Thìn Tuất cách thủ mệnh (phần 2)



Tử Tướng nhập La Võng thủ mệnh luận (phần 2)


Tử Vi và Thiên Tướng đồng cung tại Thìn Tuất đủ bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm. Do Tử Vũ Liêm và Phủ Tướng có đa phần các bàng tinh đều hợp với hai nhóm sao này nên khi đủ bộ giao hội với các bàng tinh thường mang tính chất tốt đẹp hơn so với trường hợp Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham khó luận do bản chất hai cách cục mâu thuẫn khiến nhóm cần gặp thì nhóm kia kỵ gặp. Tuy tại vị trí Tử Tướng là khá kém với cách Tử Phủ Vũ Tướng Liêm so với cách Tử Vi độc tọa, Tử Phủ nhưng vẫn là cách có ý nghĩa khá tốt. Tử Tướng nhập La Võng rất cần thiết có bộ Lộc Tướng Ấn, bộ sao này mang ý nghĩa tượng trưng cho ấn tín của quốc gia, ở đây chứa cả tình yêu tổ quốc khiến lý tưởng của Tử Vi nếu tốt là sự phục vụ cho tổ quốc, vì vậy dễ được lòng quần chúng do hướng tới mục tiêu chung là sự phát triển, bảo vệ tổ quốc. Tử Tướng cư Thìn Tuất cần thiết nhất là sự giúp đỡ và mang lý tưởng chính nghĩa nếu không đối cung Phá Quân nắm quyền tức Sát Phá Tham đoạt được sự nghiệp từ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm. Tử Tướng cần thiết gặp bộ Tả Hữu là bộ sao mang tính trợ giúp cho toàn bộ tổ hợp, được gọi là cách nhất hô bách nặc. Do Tử Tướng vai trò là người lãnh đạo, đứng đầu một tổ chức, lớn hơn là đứng đầu xã hội rất cần sự ủng hộ, trong mọi trường hợp sao Tử Vi thủ mệnh đều cần hai sao Tả Phụ và Hữu Bật là trung tinh vì Cự Môn luôn ở vị trí lục hội khiến Tử Vi khi xấu là bị phản đối cho tới phản bội. Ngoài đời thực, mệnh có sao Tử Vi thường ưa tổ chức một hệ thống từ nhỏ là gia đình tới lớn là một đoàn thể, thực chất các cơ quan hay tổ chức đều theo cách này để hoạt động được hiệu quả từ thời xa xưa đã dùng cách này.



 Bộ Tả Hữu đồng cung có tính chất mạnh hơn việc ở vị trí tam hợp. Khi đồng cung gắn liền Tử Tướng với Tả Hữu, đặc biệt tại Thìn Tuất có thể có Tả Hữu xung chiếu không hay bằng việc đồng cung với tam hợp.
" PHỤ BẬT ÁI NHẬP MỘ CUNG, HỈ PHÙNG ĐẾ TƯỢNG VĂN ĐOÀN VÕ CÁCH HOẠCH PHÁT TÀI DANH".
Cách này về việc Tả Hữu đồng cung thủ Mệnh tại Sửi Mùi, cung Thìn Tuất cũng là cách tốt có sự yểm trợ khi ra bên ngoài nhưng không hợp với thế Tử Tướng và Phá Quân ở đối cung. Tuy nhiên vẫn có trường hợp bên ngoài Phá Quân trợ giúp bộ Tử Tướng bên trong nhưng trường hợp này khó gặp cần rất nhiều bàng tinh hợp cách cho bộ Tử Tướng khiến bên trong mạnh hơn bên ngoài nhiều phần mới có thể đắc dụng khi Tướng và Phá trở nên trợ lực cho nhau. Sau bộ sao Tả Hữu luận tới việc Tử Tướng gặp các sao còn lại an theo Thiên Can là cách Kình Hao, Đà Hao và Thanh Phi Phục. Với cách Kình Dương tại bản cung là cách tranh giành, bên Sát Phá Tham ngộ Đà La tức ta đang tấn công và đối phương phòng thủ. Có thể là hay nếu đi theo kinh thương, nhưng không hay nếu theo con đường công danh, địa vị. Dễ bị đổ vỡ và thường bị nhận xét là mưu mô. Ngược lại nếu Tử Tướng có Đà Hao cũng là cách không hay vì đây là cung độ La Võng, mặt khác bên đối phương, bên ngoài luôn công kích bản thân, lý tưởng của ta. Nếu ngộ Thanh Phi Phục đồng cung với Thanh Long tuổi Đinh Kỷ Quý là cách hay, đặc biệt hai tuổi Đinh, Kỷ có Thanh Long cư Thìn ngộ Tử Tướng là mưu trí, nổi danh cách. Ở đây cách Tử Tướng không quá kỵ bộ Không Kiếp, trừ trường hợp đồng cung ý nghĩa không hay, tối kỵ gặp Triệt Tuần tại bản cung hơn bộ Không Kiếp.  Ngộ Hỏa Linh không mang ý nghĩa xấu vì Tử Phủ Vũ Tướng Liêm hoàn chỉnh có thể dung nạp Hỏa Linh.

Sunday, March 26, 2017

Trong cuộc chiến và số mệnh


.Trong cuộc chiến và số mệnh


Báo đài hay các trang mạng điện tử hay đăng những sự việc căng thẳng của Triều Tiên và Mỹ cùng Hàn Quốc. Chiến tranh khiến chia đôi hai miền Nam Hàn và Bắc Hàn khiến nhiều người phải xa cách gia đình, thương vong ở thời kỳ trước. Hiện nay việc Mỹ và Hàn Quốc đang có ý định đánh Triều Tiên được đăng tải rất nhiều trên báo. Việc bàn tới trong Tử Vi là trong cuộc chiến tranh những số mệnh được dự đoán bởi tử vi và thực tế có gì đặc biệt. Khi cách chiến tranh xảy ra liên quan tới vận nước tức tầm quan trọng lớn nhất ảnh hưởng tới tất cả mọi người dân, và đây là chữ Mệnh trong từ Số Mệnh. Lá số tử vi hay bát tự tướng số chỉ là chữ Số trong từ này. Tất nhiên do mang tính chất Sát có tính chất lớn nên khiến tính chất của tất cả các cách cục thay đổi theo hướng võ cách, binh nghiệp trở thành vị trí đứng đầu trong xã hội, trong khi thời bình là thương nghiệp hay học vấn đứng đầu. Ở thời này các Sát Tinh phát huy công dụng tai họa thực sự khi đi liền với tính Sát của toàn bộ quốc gia. Do tất cả những Khoa Quyền Lộc hay các bàng tinh khác định hướng cho cách cục của sống và chết, liên quan tới chính tính mạng của mệnh tạo, không phải chỉ sự thành bại trong sự nghiệp tùy tính chất mức độ của hoàn cảnh xã hội từng thời kỳ. Như hiện tại việc Triều Tiên người dân đang có cuộc sống không mấy no đủ, được hưởng thụ những tiến bộ của công nghiêp khoa học trong khi ở cùng một đất nước, người dân Hàn Quốc được hưởng thụ cuộc sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên có một điều luôn không đổi là giá trị địa vị của bản thân trong từng xã hội luôn tồn tại và dễ so sánh không bị khập khiễng như sự giàu có của từng địa phương khác nhau vô cùng khi cùng một lá số. Có thể ở Triều Tiên xét theo tiền quốc tế chỉ bằng một phần nhỏ với mệnh tại phía Hàn Quốc. Ở Triều Tiên do chính sách luật pháp khác nên có những việc vi phạm sẽ bị xét xử trong khi Hàn Quốc không bị coi là vi phạm. Cũng như vậy khi xét tổng thể ở thời chiến và thời bình. Khi thời chiến toàn bộ các cách cục trong tử vi có phần luận khác biệt so với ở thời bình.


Trong chiến tranh các cách cục Sát Phá Tham trở thành những người cầm súng đánh giặc. Trong khi ở thời bình có thể là nhà nghiên cứu hay khám phá khoa học khác hoàn toàn về mặt tai họa ở hai trường hợp. Vì vậy quan trọng cần nhìn được những hướng chung của Vận Nước tức toàn bộ xã hội mới xét tới sự tốt xấu của Vận Mệnh bản thân theo Vận Nước mới có thể chính xác. Bộ Sát Phá có hung tinh nên thường nếu tốt là giết được giặc, nếu xấu là bị giết trên chiến trường. Riêng sao Tham Lang là ngôi sao ham muốn sống sẽ không tốt đẹp về mặt công danh nhưng về mặt chữ thọ được bảo đảm. Trong cuộc chiến bộ Không Kiếp tác động mạnh tới lá số tử vi khiến mệnh tạo có thể gặp nguy hiểm. Trong cuộc chiến thường nhắc tới số mệnh những người thoát được luận là sự may mắn của số phận. Vì vậy sao Thiên Lương lại có vị trí quan trọng trong các cách thời chiến. Sao này thể hiện sự quan trọng rất lớn của sao Thiên Lương với các cách cục. Khi tốt là gặp may khi xấu là sự không may. Trong cuộc chiến cách cục Việt Linh Hinh, sao Thiên Hình đóng vai trò rất quan trọng trong xác cách này.

Luận bàn về Phượng Khốc



Luận bàn về bộ sao Phượng Khốc


Mỗi người dù trong mọi trường hợp tuổi tác hay địa vị xã hội luôn quan trọng nhất cái mối quan hệ của xã hội và vị trí của bản thân trong mối quan hệ ấy. Có thể mệnh tạo nghèo khổ nhưng cuộc sống xung quanh đều là những người nghèo khổ, không có sự chê bai hay những thái độ tới bản thân thì cuộc sống vẫn tiếp tục dù chúng ta không được sự sung túc. Cũng như vậy nên nhìn vào mối quan hệ của mỗi người cho biết một phần vị trí địa vị của họ trong xã hội. Bản thân con người tự phân chia xã hội ra thành các tầng lớp để chung sống cho phù hợp. Vố tầng lớp giàu thường những người này có mối quan hệ xã hội, không kể quan hệ gia đình, dòng họ với những người giàu và tri thức là chủ yếu. Ngược lại với những người nghèo lao động chân tay đa phần đều có các mối quan hệ tương ứng. Vì vậy phát sinh ra các trường hợp giới trẻ hiện nay người viết nhìn thấy rõ việc do đa phần các trường đại học chuyển lên Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh và những người thuộc tầng lớp lao động cho con trẻ của mình lên các thành phố này học và chúng bắt đầu với cuộc sống mà báo đài hay viết là lối sống ảo. Những việc lấy mạng xã hội để đăng tải những thứ của cuộc sống thường ngày mang tính chất thỏa mãn sự tư tưởng nông nổi muốn thể hiện bản thân. Trên lá số Tử Vi có bộ Phượng Khốc khiến tăng giá trị của bam thân vì đây là cách được người khác ngưỡng mộ và khiến bản thân ta thay đổi vị trí mối quan hệ của bản thân bằng một mặt nào đó như ngoại hình, phẩm chất.


Phượng Khốc là bộ sao góp phần thành công rất lớn, tương tự về tính chất giá trị như Khôi Việt nhưng có thêm được sự ngưỡng mộ của người khác. Vì vậy bộ sao này nếu ở vị trí tam hợp mệnh, đặc biệt có Phượng Các tại mệnh bổ cứu cho trường hợp bố cục cho chính tinh không đắc ý. Phượng Khốc an theo Địa Chi có tính chất thể hiện ra bên ngoài, đây là nhóm sao quan trọng của Địa Chi. Phượng Các thủ mệnh luôn có một tài năng hay đa phần là ngoại hình đẹp để thu hút người khác. Thường ngoài cuộc sống kẻ có ngoại hình đẹp được ưu ái hơn xét về việc tài năng chỉ hơn kém nhau chút ít, chưa kể Phượng Khốc có cả tài năng. Chỉ hai sao Quyền Khốc được tôn vinh là cách hay. Hoặc Đồng Âm có Kình Dương chủ tranh đoạt mang tính chất xấu, người khác ghét bỏ nhưng có Phượng Các lại thành hay được sự ngưỡng mộ. Phượng Khốc cho bản thân ta cái danh, ngoài thực tế mệnh có sao này tọa thủ thường có khuôn mặt dương lên, cách này mang tính biểu tượng như sao Quốc Ấn. Kình Phượng là biểu tượng của sự tranh đấu. Tuế Hổ Phù và Tang Hư Khách tùy giao hội với Phượng Khốc được ngưỡng mộ bởi cả phẩm chất. Phượng Các còn có mặt ở các cách tôn sùng, sùng bái. Như việc tạo tượng của vua Quang Trung để nhân dân ngưỡng mộ cho vị anh hùng dân tộc là một trường hợp. Phượng Khốc vì vậy còn mang cả ý nghĩa về danh tiếng. Phá Quân cư Tí Ngọ tượng trưng là quân tử nếu đắc cách, đặc biệt của cách Khốc Hư ngộ Phá Quân là cách phá cũ đổi mới được ngưỡng mộ, vì thế Phá Quân được quần chúng ủng hộ đắc cách. Nhìn trên lá số Tử Vi vị trí của Phượng Khốc để luận được sự ngưỡng mộ của ta hay người khác dành cho bản thân ta ở mặt nào. Như Phượng Các ở cung Thiên Di khi ta ra ngoài tùy theo hạn thường được nhiều người biết đến, nếu tốt là sự ngưỡng mộ, nếu xấu là bị chê cười, xấu hơn là chửi rủa. Phượng Khốc khi gặp Thiên Mã hay bộ Tang Mã Khách sẽ hình thành bộ sao Mã Khốc Khách thực chất là Phượng Khốc giao hội với Tang Hư Khách. Bộ sao này có ý nghĩa là sự vượt qua khó khăn bằng bản lĩnh và linh hoạt, nghi lực được người khác tôn trọng, yêu quý nên luận là cách hay, đặc biệt trong võ nghiệp cách này rất có giá trị trong việc dùng binh để khiến binh lính tuân theo mệnh lệnh của người chỉ huy. Nếu Phượng Khốc đi với Tuế Hổ Phù được bộ Tứ Linh chủ được ngưỡng mộ vì phẩm chất thẳng thắn, tư cách của bản thân. Vì vậy thực chất bộ Phượng Khốc tùy đi với nhóm sao nào thì thường được thành công tại đó.

Tử Tướng Thìn Tuất cách thủ mệnh (phần 1)



Tử vi đồng độ Thiên Tướng tại Thìn Tuất p1


Tử Vi và Thiên Tướng nhập La Võng, nhóm Tử Vũ Liêm giao hội Phủ Tướng hình thành tổ hợp Tử Phủ Vũ Tướng Liêm với Tử Tướng thủ mệnh, Vũ Phủ cư Tài Bạch và Liêm Trinh độc tọa cư Quan Lộc. Cách cục này bố cục các Chính Tinh tại các cung độ hợp lí. Bản chất của cách cuc này thường được luận bằng việc mâu thuẫn khi Tử Vi đối mặt với Phá Quân với lực lượng của Tử Phủ Vũ Tướng Liêm và Sát Phá Tham cân bằng, các sao đối xung đúng vị trí với cặp Tử Vi xung Phá Quân, Vũ Khúc xung Thất Sát, Liêm Trinh xung Tham Lang. Nhóm Tử Vũ Liêm mạnh do có được bộ sao Phủ Tướng đắc lực nhưng lý tưởng của Tử Vi có phần khuyết điểm khi Phá Quân trực tiếp phải xung chiếu và hai bên đều có lực lượng ủng hộ. Của Tử Vi là Phủ Tướng và của Phá Quân là Cự Môn ở phía cung nhị hợp. Cự Môn tại đây phản kháng, phản bội do bất mãn với lý tưởng của Tử Vi. Vì vậy cách cục này thường được luận rối loạn không hay như cách Tử Vi độc tọa Tí Ngọ hay Tử Phủ cư Dần Thân.
"TỬ VI THIÊN TƯỚNG THÂN PHÙNG PHÁ NGỘ VƯỢNG KÌNH ĐA MƯU YẾM, TRÁ".
Trường hợp đặc biệt khi mệnh có Tử Tướng tại Thìn Tuất và cung an Thân đóng tại Phá Quân. Tính chất cung an Thân là hình tượng của bản thân, là những dòng suy nghĩ tư tưởng sau khi lý tưởng của Tử Vi khởi ở ban đầu bản chất như việc ban đầu lý tưởng của Tử Vi là an dân, thái bình tới khi suy nghĩ trong quá trình hoạt động trở thành khởi binh, dùng bạo lực để được an dân hoặc tốt xấu hơn khiến mâu thuẫn giữa ý tưởng ban đầu và thực hiện, ở đây có thêm bộ La Võng nhầm lẫn khiến nếu bị Kình Vượng xâm phạm tức cách tranh giành được luận là đa mưu, yểm trá vì lợi ích bản thân. Cách cục Tử Vi và Phá Quân tất nhiên vẫn hay ho hơn rất nhiều việc Tử Vũ Liêm giao hội với Sát Phá Tham tạo ra mâu thuẫn giữa hai cách cục. Kẻ muốn xây buổi sáng chiều lại có ý tưởng phá bỏ đổi cái mới, kẻ ban phát cũng có tính cách tranh đoạt, kẻ trong sạch cũng có tư tưởng tham lam.


Tử Tướng cư Thìn Tuất khi đó bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm vẫn hoàn chỉnh, hoạt động của lý tưởng tới hành động vẫn thống nhất không có nhiều mâu thuẫn. Chẳng qua thế Phá Quân và Cự Môn khá mạnh. Ở đây nếu Tử Vi có lý tưởng chính nghĩa thì bộ Cự Phá là cách phản bội, phá hoại. Ngược lại nếu Tử Vi mang tính phi nghĩa thì Cự Phá là sự nổi dậy đòi lại công bằng, chính nghĩa. Khi Tử Vũ Liêm và Sát Phá Tham, Cự Môn tranh giành nhau việc lý tưởng tốt xấu thì chỉ có bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương luôn mang ý nghĩa sự hưởng thụ, không tranh chấp nên cổ nhân luận với cách tầm thường sự nghiệp không có tính lãnh đạo, đứng đầu do lý tưởng không mạnh như Tử Vi và Cự Phá. Cự Môn có những trường hợp đứng trung lập không phải tất cả trường hợp đều có tính kết hợp với Phá Quân nên Cự Môn có thêm tính chất can gián giữa mâu thuẫn. Đây là thế đứng của cách Tử Tướng cư Thìn Tuất khi nhập La Võng có tính phức tạp. Tử Tướng cư Thìn Tuất có tính khai sáng lớn do gặp phải khó khăn, ở đây cần sự trợ giúp nếu không khó có thể thành công.
"TỬ VI THÌN, TUẤT NGỘ PHÁ QUÂN PHÚ NHI BẤT QUÝ HỮU HƯ DANH".
Tử Vi và Thiên Tướng tọa thủ tại Thìn Tuất có Phá Quân tại cung xung chiếu được phú khó được quý hiển. Câu phú này được luận khi trường hợp xấu sao Tử Vi có lý tưởng sai trái khiến thế Tử Phá trở nên mâu thuẫn tăng lên khó theo con đường công danh sự nghiệp mà theo phú cách bằng kinh thương, buôn bán tốt hơn.

Tham Lang độc tọa cư Tí Ngọ cách (phần 1)



Tham Lang cư tại vị trí Tí Ngọ luận đoán p1


Sao Tham Lang thuộc nhóm Sát Phá Tham, trường hộ độc tọa không gia hội với Tử Vũ Liêm hình thành các cách Tử Tham, Vũ Tham, Liêm Tham. Trong trường hợp độc tọa có sáu vị trí ở cung Thìn Tuất Dần Thân Tí Ngọ. Bài viết này bàn luận về cách Tham Lang cư tại cung Tí Ngọ được luận là cách cục bình thường khó thành tựu sự nghiệp lớn nếu không được bàng tinh tốt đẹp gia hội. Bố cục của Tham Lang cư Tí Ngọ là Thất Sát nhập la võng và Phá Quân  cư tại Dần Thân. Tham Lang là ngôi sao của sự tham muốn, khi đứng một mình tính chất đầy đủ. Sao Tham Lang tại đây có Tử Vi ở đối cung hay toàn cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm rất mạnh nên bản thân có phần kém hơn so với ngoài xã hội. Tham Lang tọa mệnh không mang ý nghĩa hay như việc ở cung Dần Thân hay Thìn Tuất khi cả nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm ý nghĩa tương đương với Sát Phá Tham. Trường hợp này cả nhóm Sát Phá Tham phải phục vụ cho lý tưởng của Tử Vi nói riêng và toàn bộ hệ thống chỉ huy, lãnh đạo của Tử Phủ Vũ Tướng Liêm. Tốt là tướng phục vụ cho vua chúa, xấu hơn là người phục vụ cho kẻ có quyền. Tham Lang mạnh ở tính dục vọng từ vật chất tới tinh thần, khi gặp các tinh diệu có dâm tính là cách cục dâm đãng nếu không có thêm các sao Xương Khúc, Khoa, Khôi Việt thường không có học thức nên thuộc hạ cách, nếu có văn tinh thủ chiếu tính chất dâm chuyển hướng về nghệ thuật khiến mệnh tạo giữ được giá trị và được sự tôn trọng của người khác. Tuy Tham Lang ở đây không mấy hay nhưng nếu không bị phá cách nặng nề thường được chữ thọ trong bộ ba phú, quý, thọ. Ở đây tính chất của Sát Phá Tham không có chí hướng lớn do tham vọng của tham lang. Thường được luận là tâm trí bạc nhược, sự cố gắng và quyết tâm không lớn nên khó có được cách bạo phát tại đây. Cung độ Thìn Tuất sao Thất Sát nhập La Võng tính nhầm lẫn lớn cũng ảnh hưởng tới quyết định của Tham Lang sau mỗi lần thất bại. Trường hợp Sát Phá Tham tại đây các sách đều không đánh giá cao và có tên riêng là Trúc La Tam Hạn.


Tham Lang có thể chuyển hóa tham vọng thành sức phấn đấu tiên quyết, tuy ở đây trở ngại lớn khó gặp được thành công sau nhiều thất bại nhưng nếu đắc cách lại là việc phản vi kỳ cách như trường hợp Thiên Đồng cư Tuất của tuổi Đinh. Tham Lang có tên gọi khác là Đào Hoa Tinh, đây chỉ trường hợp Tham Lang độc tọa không có Hỏa Linh hay Khoa Quyền để định hướng  ước muốn về tài trạch hay quý hiển, danh vọng mà bị Đào Hồng tác động khiến sao này trở nên hư hỏng. Trường hợp Tham Lang cư Tí và Tham Lang cư Ngọ cũng được luận có tính chất khác biệt. Qua nghiệm lí thì tính chất về mặt tính cách của hai cách này đại đồng nhưng dị biệt, Tham Lang cư Ngọ bản thân có chứa tính cương quyết trong việc đề ra kế hoạch bà thực hiện, có sự vất vả, ưa thích trải nghiệm gian lao. Trong khi Tham Lang cư Tí thường gắn với các tính chất liên quan tới dâm cách, hưởng thụ. Tính chất này khá rõ rệt đặc biệt khi có bàng tinh giao hội. Tham Lang là sao ham muốn vì vậy một số trường hợp giao hội với các bàng tinh khiến tính chất thay đổi về sự đứng đắn không ham dục vọng hay vật chất, đây là một trường hợp trong các cách cục thành công của Tham Lang, trường hợp còn lại do sự chuyển hóa về ham muốn trở nên mãnh liệt về phú hoặc quý. Tham Lang cư Mệnh rất quan trọng vị trí cung an Thân, nếu cư tại sao Tử Vi cư Tí Ngọ hay bộ Liêm Phủ Thìn Tuất đắc cách tối hỉ vì được cách thân thể, thân phận cao quý trong khi mệnh tạo bản tính tư chất bình thường không nổi trội, ngoài thực tế cũng rất nhiều trường hợp như vậy. Khi bấy giờ Tham Lang mang nặng tính thụ hưởng và phải đến tuổi trưởng thành khi cung hạn nhập vào Phúc Phối Di nếu hợp cách mới có thể thay đổi tự tay tạo nên sự nghiệp, bằng không khí tránh cảnh suốt ngày ăn chơi trác táng.

Saturday, March 25, 2017

Phá Quân độc tọa tại Dần Thân (phần 2)




Phá Quân tại vị trí cung Dần Thân (phần 2)


Phá Quân khi đơn thủ có nổi bật ở tính khai sáng, khám phá những thứ mới chưa được biết đến. Điều này có tính chất cơ mật được lộ ra, vì vậy Thiên Cơ lộ thì Phá Quân tìm được thứ đã không phải còn là bí ẩn. Phá Quân có tính xung kích, đồng cung với Kình Dương tăng nặng khả năng tranh đoạt, tiến bộ do tính dương kim của Kình Dương kích phát. Tuy nhiên Kình Dương không thể đồng độ với Phá Quân nên xét các trường hợp tam hợp với Thất Sát và Tham Lang. Kình Dương đi với Thất Sát ở cung Thìn Tuất được luận là cách hay. Kình Dương cư Thìn ở tuổi Ất và cư Tuất ở tuổi Tân, cũng thích hợp với trường hợp theo võ cách. Kình Dương ở hai tuổi này thuộc Thiên Can âm nên chỉ có thể đi với Đào Hồng Cô Quả Kiếp Sát không hay như việc đi với Tuế Hổ Phù, Tang Hư Khách và cần thiết nhất là cách Phượng Khốc tại đây có thể gặp bộ Kình Mã Khốc Khách rất tốt. Phá Quân cư Dần Thân có tính chủ động, đặc tính này là ưu điểm nhưng cũng là nhược điểm của Phá Quân độc tọa. Khi Phá Quân sai lầm thì dẫn tới tai họa lớn do chủ động của nhóm Sát Phá Tham. Ở đây Phá Quân không nên gặp Đà La vì tổ hợp tại La Võng có tính rắc rối gặp Đà La càng dễ gây tai họa do mắc bẫy của chính suy nghĩ chủ động khai phá của bản thân gây ra hoặc do sự tác động bên ngoài gây ra. Cách này không xấu như cách Phá Quân cư Thìn Tuất ngộ Lộc Tồn khiến tai họa do sự chủ quan của bản thân gây ra, cách này nhìn chỉ là Phá Quân ngộ Lộc Tồn có người luận là cách hay, có người luận xấu nhưng không đánh giá được tính chất xấu, bộ sao này có tính hung rất nặng, nếu gặp thêm Đào Không gia Sát Tinh nguy hiểm lớn tới cả tính mạng.



Xét trường hợp Phá Quân cư Dần Thân ngộ Lộc Tướng Ấn ở tuổi Canh với Phá Quân cư cung Thân đông độ với Lộc Tồn, cư Dần với tuổi Giáp. Ở đây Phá Quân đồng cung với Lộc Tồn luận xấu. Ở tuổi Giáp có tứ hóa Liêm Phá Vũ Dương được Hóa Quyền thành cách tinh tường nên có thể tránh được một phần tai họa do cách Phá Quân ngộ Lộc Tồn. Cần thiết có Triệt tại bản cung để hóa giải tính chất xấu. Phá Quân đi với Bệnh Phù hay Quốc Ấn có ý nghĩa tốt hơn đồng cung với Lộc Tồn, tuy nhiên vẫn thuộc cách cục bất hợp. Phá Quân cư Dần Thân gặp bộ Thanh Phi Phục có ý nghĩa tốt hơn gặp bộ Lộc Tướng Ấn và Đà Hao tuy nhiên xấu hơn cách gặp Kình Hao. Phá Quân đồng cung với Phi Liêm dễ trở thành phá hoại, phá phách do Phi Liêm là sao của sai lầm. Phá Quân độc tọa hỉ có đồng đảng tức bộ sao Tả Hữu mang ý nghĩa hay khi có trợ giúp đắc lực. Cũng như các chính tinh khác sao này rất cần có Khoa Quyền Lộc, đặc biệt Hóa Quyền chủ sự uy tín, giải trừ một số tính sát. Hóa Khoa thiên về việc nghiên cứu khoa học, đặc biệt khi có thêm Xương Khúc học nghiệp tinh thông do sự tìm kiếm tới bản chất mới dừng lại. Phá Quân tại đây hóa giải được tính Sát trở thành sự cương quyết tìm ra đáp án, lời giải cho thắc mắc ban đầu. Tại đây đối cung là bộ Vũ Tướng uy lực mạnh khiến Phá Quân vất vả để phá cũ thay đổi khi ra bên ngoài xã hội. Phá Quân tối hỉ được bộ Tam Không tại bản cung hay tam hợp là cách rất hay, có ý chí kiên cường, khó lung tung. Phá Quân tại đây dễ thành công do tính không của bản thân. Mệnh có Phá Quân tại đây nên có cung an Thân tại các vị trí Tử Vi, Liêm Phủ, kế đến Tham Lang và Vũ Tướng, tiếp theo mới đến Phá Quân, Vũ Tướng và Thất Sát không nên cư tại cung an Thân là yểu cách tai họa lớn.

Thiên Lương ngộ Kiếp Kỵ tại bản cung



Thiên Lương ngộ Kiếp Kỵ tại bản cung


Sao Thiên Lương tọa thủ cung Mệnh tùy trường hợp độc tọa hay giao hội với các Chính Tinh khác mà luận tính cách ban đầu của mệnh tạo. Thường luận sao này có tính chất che chở, phúc ấm. Bản chất từ thiện, ưa làm việc giúp người, có ích cho xã hội. Tuy nhiên có một số bạn hỏi người viết rằng trong trường hợp kiến Sát tinh các tính chất mang tính bản tính của Thiên Lương là sự lương thiện, thích lấy của mình để giúp người có thay đổi trở thành cách tư lợi, ích kỷ làm những việc ác hại tới người khác mà không run tay hay không. Trong tử vi có một cách cục biểu hiện tính ác rất nặng là cách Kỵ Kiếp đồng cung. Bản chất của bộ này do Hóa Kỵ lấy khuyết điểm của Địa Kiếp là sự ích kỷ phi nhân và không quan tâm tới những mặt đạo đức mà lấy lợi ích làm gốc gây ra. Thực chất bộ này không hợp cách thể hiện rất rõ tính chất này, đặc biệt có thêm Thiên Hình thành bộ Kỵ Kiếp Hình rất độc. Địa Kiếp cổ nhâm luận có tính hiểm độc, tức tính chất xấu không lộ ra bên ngoài nên không thể đánh giá được bằng việc chỉ tiếp xúc qua. Bản thân đã gặp không ít cách Kỵ Kiếp trong cuộc đời luận giải tử vi và tất nhiên có những trường hợp lương thiện bị kẻ khác ức hiếp, có trường hợp làm việc ác vì lý do nhân nghĩa ở trong lòng, có trường hợp do lợi ích mà làm ra các việc phi nghĩa. Qua gần cuộc đời để xem tử vi mới thấy cổ nhân nhận ra chân lý không sai, cách cục chứa tính sát thì nhận hậu quả sát, cách cục chứa tính nhân từ thì nhận kết quả thọ hưởng. Thực chất trong vô thức chúng ta đều có thể nhận ra được sự nguy hiểm từ khí sát xung quanh và sinh ra các cách đề phòng. Như việc với một Thất Sát ngộ Kỵ Kiếp tại bản cung do bản chất khí xuất phát từ tâm luôn phải bộc lộ ra bên ngoài có thể ở khuôn mặt hay cử chỉ thể hiện cách ưa giết chóc, tàn sát mà cũng dần bị xã hội đào thải. Thực chất với mệnh Thiên Cơ hay Thiên Lương nhiều trường hợp ngộ bộ sao này bên ngoài có hình thức thư sinh, tính tình có vẻ hiền lương nhưng bản chất ích kỷ, độc địa.



 Trên báo đài hay các trang mạng chúng ta thường sau khi nghe một kẻ giết người có quen biết với ta thường nhận được những lời bất ngờ như " Thằng ấy hiền thế mà giết người" hay" Nó ở nhà có bao giờ làm gì ác đâu" thực chất do bản tính của tất cả con người thường chấp nhận sự suy nghĩ, đánh giá ban đầu với những thứ quen thuộc, tất nhiên có cả trường hợp người này tiếp nhận thông tin người khác cũng suy nghĩ theo chiều hướng đó và cho nhận định như vậy. Nếu có người tiếp xúc ở mức độ lâu đến nhìn ra toàn bộ tính cách thì sẽ lập luận khác, tất nhiên sẽ có nhiều ý kiến khác nhau tùy vào mỗi người. Chúng ta thường hay nhìn ra những kẻ sát nhân có những điểm tương đồng. Và khi một người biết xem tướng ở mức độ dày dặn sẽ nhận ra được những tính cách trong bản chất mà có thể chính đương số không thể nhận ra. Đến ngay chúng ta cũng đôi khi khó hiểu với bản thân mình và khi ghi chép lại những hành động chợt nhận ra những hành động vô thức và bất ngờ trước hành động đó. Thực chất có một nhận định mà tất cả những người tìm hiểu về huyền học hay các môn toán mệnh như lý số, tướng học, mai hoa, dịch lý đều nhận ra rằng không thể có chuyện kẻ có bản tâm lương thiện thật sự phải chết vì các tai họa, bệnh tật. Điều này có thể khó tin trong các trường hợp tai nạn mang tính nghiệp định như tai nạn tập thể, chiến tranh toàn cả nước. Nếu bạn có dịp nghiệm lí sẽ thấy được sức mạnh của Đồng Lương đắc cách có tính khó tin về may mắn như thế nào. Bất phạ tai ương là câu nhận định đúng khi hai sao này hợp cách. Còn có nhiều bí mật khác hiện trên lá số tử vi mà kiểm nghiệm ở thực tại hoàn toàn đúng như việc có thể con người tốt hay xấu trong một thời điểm nào đó rồi thay đổi trong cả cuộc đời. Cái hoàn cảnh và giáo dục qua nghiệm lí tác động rất lớn tới tính cách của đương số. Có một lá số Thiên Lương ngộ Kỵ Kiếp tại bản cung và Thiên Hình tam hợp không có cứu giải nhưng bên ngoài người này thể hiện khó tính, tư lợi nhưng bản chất rất tốt do thuở nhỏ gia đình này theo đạo Phật nên có dịp được đọc những sách vở trong đây, lớn lên dốc hết tâm trí tuy nhiên biết rõ nếu bên ngoài lương thiện sẽ bị chèn ép nên có ý nghĩ như vậy, cuối cùng ông ta nắm được số tài sản rất lớn và đột tử khi nhập hạn xấu, để lại di chúc tiền cho tất cả trẻ em nghèo, khi đó mọi người mới hiểu ra do một người tâm phúc nói ra những việc làm âm thầm của ông ta mặc dù khi sống ông ta bị nhiều người ghét bỏ. Vì vậy nhấn mạnh ở tính chất giáo dục và môi trường tác động rất lớn tới cái gọi là nhân cách. Thiên Lương ngộ Kỵ Kiếp có thể xấu hay tốt phải nhìn lâu mới có thể rõ và ngay cả các cách khác.

Phá Quân độc tọa tại Dần Thân (phần 1)



Phá Quân tại vị trí cung Dần Thân (phần 1)


Sao Phá Quân thuộc nhóm Sát Phá Tham khi độc tọa tức bộ Sát Phá Tham đầy đủ tính chất. Phá Quân đứng một mình tại các vị trí Dần Thân, Tí Ngọ, Thìn Tuất. Giao hội với Tử Vũ Liêm hình thành cách Tử Phá, Vũ Phá và Liêm Phá. Sao này được luận ít có vị trí đắc địa trong 12 cung vì đều mang khuyết điểm trong cách cục. Phá Quân độc tọa tại cung Dần Thân tương đối tốt đẹp so với các vị trí khác, ở đây bộ Sát Phá Tham khá yếu do Tử Vi cư Tí Ngọ điều khiển nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm. Phá Quân tại trường hợp này đầy đủ tính chất. Phá Quân nổi vật ở tính tiên phong đi đầu và sự khai sáng. Tính chất này có được do Phá Quân đưa ra những phương án trái với truyền thống lý tưởng của Tử Vi để thực hiện do thời cơ tức Thiên Cơ tại vị trí nhị hợp thay đổi. Bản thân Phá Quân chứa tính sát phạt, thường có tính chất tự tìm hiểu do tính động lớn, qua đó nếu hợp cách có tính chuyên môn cao do sức khám phá lớn, ở đây có thể dẫn tới công việc theo hướng nghiên cứu khoa học nếu được các Văn tinh như Khôi Việt, Xương Khúc, Khoa đặc biệt là bộ Xương Khúc giao hội. Phá Quân thủ Mệnh khó có được tính ổn định, một số trường hợp có tính động lớn ở tâm trí gây tác động xấu tới hành động của bản thân. Phá Quân độc toa tại Dần Thân xét tới trường hợp sáng tạo nên sự nghiệp khi đắc cách, đây là Phá Quân đi đầu có tính chất đổi mới so với lề lối cũ và thường gặp khó khăn, gian khổ. Nếu sáng tạo ra cái xấu xa trái ngược với đạo đức thì Phá Quân trở thành phá hoại. Qua nghiệm lí các cách Phá Quân độc tọa tại Dần Thân nổi bật nhất ở ý chí quyết tâm khi thực hiện các công việc, ý tưởng của Tham Lang. Do tinh hệ sao Tử Vi tại đây có tính chất xây dựng xã hội và mang chính nghĩa, tư tưởng của số đông nên Phá Quân khó có được sự thành công nhờ thay đổi lý tưởng của Tử Vi.


Bộ Sát Phá Tham có Thất Sát nhập La Võng và Tham Lang cư Tí Ngọ đối xung với Tử Vi khó tạo thành bố cục hay, sao Thất Sát ở cung Thìn Tuất có tính nhầm lẫn và Tham Lang thường có kế hoạch tầm thường khi Tử Vi bên ngoài đầy đủ tính chất của Đế Tinh. Cổ thư nhắc đến việc làm của Phá Quân là phá hoại rồi kiến thiết tức nhắc tới khi Tử Vi là chính đạo, Sát Phá Tham là tà. Phá Quân hóa khí thành Hao, tức sự mất mát, thay đổi. Phá Quân giỏi đoạt nhưng không giỏi thủ, do chỉ biết việc tấn công không nhường nhịn nên chứa tính Sát trong bố cục. Tuy nhiên có nhiều Phá Quân hiền lành, không phá hoại hay mang tính chủ động tấn công. Phá Quân có tính coi trọng lợi ich của bản thân nhiều như Thiên Cơ, tuy nhiên sẵn sàng bỏ đi vì lợi ích lâu dài trong các trường hợp cần thiết. Phá Quân cư Dần Thân cần thiết tăng cường vị trí trong cách cục với các sao tăng tính chất, Phá Quân mang nặng tính quyền lực, nếu không theo hướng này hoặc theo phú cách khó mà đạt được thành tựu trong cuộc đời. Với Phá Quân thăng trầm bất định trong cuộc sống, không ưa các việc nhàm chán, lặp đi lặp lại mà ưa thích mày mò, khám phá nhưng đắc cách tượng chính là Quân Từ.

Liêm Trinh độc tọa cung Dần Thân (phần 2)



Liêm Trinh ở vị trí cung Dần Thân (phần 2)


Luận về sao Liêm Trinh khi giao hội với các bàng tinh cần hiểu tính chất của toàn bộ tổ hợp Tử Phủ Cũ Tướng Liêm với Tử Tướng cư Thìn Tuất, Vũ Phủ cư Tí Ngọ và Liêm Trinh tại Dần Thân. Cách cục này khiến Tử Vi có khuyết điểm, tuy tính chất của Tử Vi cách Tử Tướng có lý tưởng cần sự công bằng nhưng dễ gặp sự cản trở của La Võng khiến không thực hiện được mà gây ra tai họa cho cách cục. Vũ Khúc có Thiên Phủ tốt đẹp chủ tài cách. Liêm Trinh cư Dần Thân cần thiết nhất gặp bộ Lộc Tướng Ấn hình thành nhiều cách hay khi giao hội với Tử Phủ Vũ Tướng Liêm. Liêm Trình rất cần đồng cung với Quốc Ấn hay Lộc Tồn mang ý nghĩa hay. Khi gặp Quốc Ấn tăng cường tính chất hình pháp liên quan tới pháp luật nhà nước mà đắc cách hợp lí. Khi đồng cùng với Lộc Tồn có tính tích lũy trong sạch về đạo đức của Liêm Trinh. Trường hợp xấu là vết nhơ về đạo đức bị lên án rất lâu khi vi phạm tiêu chuẩn đạo đức xã hội. Như việc Đạo Chích chuyên hành nghề ăn trộm ở thời xưa nay vẫn còn lấy gương xấu để sử dụng. Vì vậy khi Mệnh hoặc Hạn có Liêm Trinh độc tọa ngộ Lộc Tướng Ấn sẽ có tính nổi bật đối với danh tiếng, tức việc danh tiếng được nhiều người biết tới. Nếu Liêm Trinh giao hội với nhóm Thanh Phi Phục và ngộ Thanh Long là cách cục hay chủ tiếng thơm được lưu truyền. Thanh Long không gặp tại cung Dần Thân nên trường hợp hay là cách Thanh Long cư Thìn cho tuổi Đinh Kỷ và cư Tý cho tuổi Giáp chỉ có cách tam hợp với Liêm Trinh, tác động trực tiếp tới bộ Tử Tướng hay Vũ Phủ ở vị trí tam hợp chiếu. Liêm Trinh ngộ Phi Liêm đồng cung là cách cục của chính và tà, nếu dễ theo phải sự sai trái, lệch lạc và thiếu đạo đức trong công việc, khi tốt chủ ngăn chặn cái xấu. Liêm Trinh cần thiết gặp Phục Binh hình thành cách Liêm Binh thích hợp cho binh nghiệp. Liêm Trinh đạo đức nhưng thẳn thắn nóng nảy cần thiết có thêm tính chất chờ đợi, phòng bị của Phúc Binh để giảm khuyết điểm.



Trường hợp Liêm Trinh ngộ Kình Đà thích hợp với cách Liêm Đà hơn gặp Liêm Kình dễ vì tranh đấu về quyền lợi hay pháp luật mà phải chịu cảnh tù tội. Liêm Trinh không nên gặp bộ Kình Đà, nếu có cần thiết có Phượng Khốc tức phải ở Thiên Can dương mới có thể có bộ sao này.  Với tuổi Giáp sao Liêm Trinh hóa thành Lộc hỉ giảm tính tai họa cho sao này, khi hóa Lộc có tính liêm chính hay bất chính đều thuộc trường hợp tốt, tuy nhiên với cách bất chính cần thiết tránh việc hóa thành Tù tinh. Ở đây có bộ Khoa Lộc, nếu tại cung Dần được cách Lưỡng Lộc có Khoa rất tốt đẹp. Liêm Trinh hóa Kỵ ở tuổi Bính tăng tính ám và biến đổi tính chất theo chiều hướng cực đoan, đặc biệt là cách Kỵ Hình cho giờ sinh Tị Dậu Sửu. Liêm Trinh gặp Khôi Việt là cách tăng sự tôn quý bởi phẩm chất, tính cách. Khôi Việt tại đây rất hay là cách tốt đẹp. Cách Liêm Việt chủ khởi phát về sự liêm chính, Liêm Khôi là đứng đầu mang tính biểu tượng của sự liêm chính, đạo đức. Liêm Trinh ngộ Tả Hữu hay cho tổng thể bố cục của Tử Phủ Vũ Tướng Liêm. Ngộ Đào Hông có tính chất dâm trong cách cục.
"LIÊM TOẠ THÂN CUNG PHÙNG PHỤ BẬT CANH KIÊM HOÁ CÁT PHÚC QUANG VINH ".
Liêm Trinh tại cung Thân có Phụ Bật gia cát chủ quý được danh tiếng quang vinh. Liêm Trinh chủ quý hiển hơn về mặt kinh thương.
"LIÊM TRINH THÂN, MÙI CUNG VÔ SÁT PHÚ QUÍ THANH DƯƠNG CHIẾM VIỄN DANH".
Cách về Liêm Trinh đa phần về thanh danh của mệnh tạo do Liêm Trinh tốt đẹp do đạo đức, được làm tấm gương cho người khác noi theo. Nếu gặp thêm bộ Phượng Khốc tính chất này càng rõ rệt hơn trong các lá số nổi tiếng. Liêm Trinh có thể phù hợp với rất nhiều nghề nghiệp từ ngoại giao, binh nghiệp, giáo viên, chính trị đều có thể tạo thành tựu lớn.

Friday, March 24, 2017

Liêm Trinh độc tọa cung Dần Thân (phần 1)



Liêm Trinh độc tọa cung Dần Thân (phần 1)


Sao Liêm Trinh thuộc ngũ hành Hỏa, thuộc nhóm Tử Vũ Liêm. Liêm Trinh có thể giao hội với Sát Phá Tham và Phủ Tướng hình thành các cách Liêm Sát, Liêm Phá, Liêm Tham, Liêm Phủ, Liêm Tướng. Chỉ có trường hợp duy nhất độc tọa tại cung Dần Thân với cách Tử Phủ Vũ Tướng Liêm hoàn chỉnh. Do đa phần các cách phối hợp với các chính tinh thành cách hai sao đồng cung nên Liêm Trinh biến đổi tính chất liên tục, trường hợp độc tọa chỉ tại hai cung Dần Thân. Liêm Trinh cư Dần có tên riêng là " Hùng tú triều nguyên cách". Sao này độc tọa là cách cục khá hay đầy đủ toàn bộ tính chất ban đầu của Liêm Trinh. Một số sách viết Liêm Trinh là ngôi sao chủ quản quyền uy, có tính tà ác, làm việc cương quyết bất chấp hậu quả, tính tình tham lam thích tranh đoạt, dễ làm việc vi phạm mà trở thành tù tinh. Liêm Trinh còn mang tính thù hận trong lòng, không coi trọng lễ nghĩa, phép tắc, cá tính ứng xử cứng nhắc nhưng lối sống lại buông thả. Thực chất sách ám chỉ đây là một trường hợp khi Liêm Trinh đồng cung với Sát Phá Tham tùy từng cách gây ra. Với trường hợp đi với bộ Phủ Tướng luận khác và đơn thủ Dần Thân luận khác. Cách Liêm Trinh cư Dần Thân bản tính ban đầu ngay thẳng, lấy sự đạo đức, liêm khiết làm trọng. Trong cuộc sống có tình nghĩa, thuộc cách trọng nghĩa hơn tài. Liêm Trinh đơn thủ không mang tính đào hoa, cư xử đúng mực và có lòng nhiệt huyết lớn. Ở đây luận là hùng tú chỉ do tính chất uy tín và ngay thẳng mà hóa thành quyền, hàm ý sự tốt đẹp của Liêm Trinh tại vị trí này. Trường hợp này thuộc tinh hệ Tử Vi cư Thìn Tuất nhập La Võng. Ở cách cục này Sát Phá Tham hoàn chỉnh nhập miếu và Tử Phủ Vũ Tướng Liêm cũng có tính chất tốt đẹp, hai thế cân bằng giữa Tử Vi và Phá Quân khiến cách cục không bị mâu thuẫn rối loạn như việc Sát Phá Tham giao hội với Tử Vũ Liêm. Sao Liêm Trinh ngoài thực tế khi tốt là chuẩn mực đạo đức của xã hội, chủ về thanh danh, phẩm chất cao quý đáng ngưỡng mộ về một số tính cách. Liêm Trinh tại vị trí này không mang tính tranh đoạt, giành được như Liêm Sát hay Liêm Phá. Liêm Trinh là sao của sự đánh giá, suy xét luôn nhị hợp với Thiên Lương chủ sự may mắn, từ thiện. Ở trường hợp này lục hội với Thiên Đồng có tính liên quan tới tập thể. Liêm Trinh là ngôi sao của sự bày tỏ lý tưởng và đánh giá của Tử Vi. Với Tử Vũ Liêm đắc cách là lý tưởng xây dựng xã hội của Tử Vi phù hợp với đạo đức của Liêm Trinh, đi liền với hành động của Vũ Khúc. Muốn được như vậy rất khó khăn vì vậy cần thiết được sự ủng hộ, giúp đỡ của Tả Hữu hay tình cảm của Phủ Tướng. Liêm Trinh cũng giỏi việc giao tiếp, ngoại giao với bên ngoài. Sao này cũng chủ thiên về hình pháp, luật pháp cũng do yêu cầu về đạo đức. Khi xấu là cách vi phạm chính đạo đức, sai trái pháp luật mà phải mắc tù tội. Liêm Trinh độc tọa có tính cát hóa lớn do cách Tử Phủ Vũ Tướng Liêm hoàn chỉnh có nhiều tính chất hay.

Thiên Đồng độc tọa tại cung Mão Dậu



Thiên Đồng độc tọa tại cung Mão Dậu


Cách cục này thuộc trường hợp Cơ Đồng giao hội với sao Cự Môn trong nhóm Cự Nhật. Khi đó Thiên Cơ cư tại Sửu Mùi và Cự Môn tại Tị Hợi tam hợp chiếu hình thành bộ Cự Cơ Đồng có tính chất riêng đặc trưng mang tính phản kháng, không được yên ổn, may mắn như cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, tuy nhiên bộ CNĐL khó thành công khi kiến sát tinh như cách Cự Cơ Đồng. Thiên Đồng là ngôi sao chủ phúc lợi, thường làm việc liên quan tới cộng đồng tuy nhiên khó có được thành công rực rỡ do tính hưởng thụ của sao này. Thiên Đồng độc tọa tại cung Mão Dậu có Thái Âm xung. Tính chất ban đầu của Thiên Đồng bình thường không có sự vượt trội như các cách Đồng Lương hay Đồng Âm ban đầu đã chứa sự may mắn của cả cách cục. Vì vậy bộ sao này cần thiết có bàng tinh hợp cách để trợ lực và giảm tính xấu xa, mờ ám của cách này. Tại cung Mão có thể gặp bộ Khôi Việt ở tuổi Nhâm Quý và ở tuổi Bính Đinh với mệnh an tại Dậu. Thiên Đồng là sao phúc hậu khi gặp Khôi Việt hình thành cách Đồng Việt chủ phát phúc. Từ phúc của Thiên Đồng có thể là phúc lợi, phúc phận với bản thân của người có sao này. Thiên Đồng khi tốt là bất phạ tai ương tức không bị vạ với tai ương họa hại. Qua nghiệm lí mệnh có sao này tính cách có khuynh hướng tâm linh, tôn giáo lớn, thường gặp các sự việc nguy hiểm rồi tai qua nạn khỏi nhanh chóng, thích sự hưởng thụ an nhàn, việc này khác hưởng thụ của sao Tham Lang thiên về việc đáp ứng được ham muốn này lại sinh tới ham muốn khác. Cái thụ hưởng của Thiên Đồng đơn giản hơn, có khi chỉ là đáp ứng cho người khác một yêu cầu. Vì vậy Thiên Đồng luôn có suy nghĩ đơn giản, trẻ hơn so với cùng lứa tuổi. Thiên Đồng khi độc tọa đầy đủ toàn bộ tính chất của sao này. Thiên Đồng cần gặp nhất là bộ Khôi Việt, kế đến là cách cục Tam Hóa.


 Ở cách Cự Đồng Cơ khó được cả bộ Tam Hóa, với tuổi Đinh gặp cách Khoa Quyền Kỵ có Lộc xung là cách hay. Với tuổi Bính có Cơ Đồng thành bộ Quyền Lộc, hỉ được Xương Khúc hình thành bộ tam hóa Khoa Quyền Lộc có tính thành công lớn. Thiên Đồng hoán cải vô thường có Tả Hữu giúp sức khiến sự thất bại giảm thiểu. Thường có sao này hay gặp cảnh làm việc tới lúc khó khăn bỏ dở, không chịu được gian truân mà tìm cách để thoát khỏi khó khăn, vì vậy khi đứng một mình đôi khi cần sát tinh kích phát. Như cách Thiên Đồng Kình Dương uy chấn ở biên di. Tuy nhiên cần tránh trường hợp Sát Kỵ trùng trùng khiến sao này gặp nguy hiểm tới bản thân vì tính dụng hóa Sát tinh không mạnh như Cự Môn hay Sát Phá. Thiên Đồng hay cả bộ Cự Cơ Đồng ưa gặp cách Đào Hồng Cô Quả chủ sự vui vẻ, hạnh phúc dù cho không có nhiều danh lợi. Cách cục này thường trong xã hội là người không bền chí nên ít gặp thành công rực rỡ, tuy nhiên xét về mặt tinh thần là cách tốt đẹp được cách bất phá tai ương mà cuộc sống thanh bình. Thiên Đồng tối kỵ Hỏa Linh xâm phá, tất nhiên là xét ở trường hợp đồng cung nếu đi với Hỏa Tinh chủ sự nông nổi, bất an trong tâm tính khiến mệnh tạo trở nên vất vả hơn. Nếu gặp Linh Tinh chủ sự lạnh nhạt trong việc đối xử cộng đồng. Thiên Đồng lấy niềm vui vì giúp đỡ kẻ khác nên gọi là Phúc, nếu ở mặt này xấu thì tính chất biến đổi về cách tự phấn đấu để hoạch phát vì không có chỗ dựa tinh thần. Bộ Hỏa Linh còn khiến tổ hợp Cự Cơ Đồng thêm rắc rối và mâu thuẫn của Cự Môn với những điều gặp đẩy lên.

Thursday, March 23, 2017

Vũ Tham cách Sửu Mùi giao hội (phần 2)



Vũ Tham cách cư tại Sửu Mùi (phần 2)


Xét theo các sao an từ Thiên Can có các trường hợp giao hội với Lộc Tướng Ấn, Thanh Phi Phục, Kình Hao, Đà Hao khiến tính chất bố cục thay đổi đưa ra những dự đoán đầu tiên. Cách Vũ Tham ngộ Lộc Tồn tại bản cung vẫn kể là cách hay chủ tích lũy được tài sản, có Tướng Ấn hóa được sát thành quyền. Cung độ Sửu Mùi không có nhiều Chính Tinh đắc cách tại đây. Xét 14 chính tinh cư tại cung Sửu Mùi chỉ có cách Vũ Tham Sửu Mùi và một số cách vô chính diệu có ý nghĩa hay, còn lại như các cách Tử Phá, Liêm Sát, Thiên Cơ Sửu Mùi, Thiên Lương Sửu Mùi, Âm Dương, Cự Đồng đều là cách cục mang ý nghĩa ban đầu bình thường. Khi Vũ Tham giao hội với bộ sao Thanh Phi Phục mang tính chất động trái với bộ Lộc Tướng Ấn chủ tĩnh. Có tính linh hoạt và quyền biến đặc biệt tại vị trí sao Thanh Long. Cách Tham Vũ có Thanh Long mang ý nghĩa hay, tính cát hóa toàn bộ tổ hợp lớn, có thể theo nghiệp võ mà thành tựu. Bộ Thanh Phi Phục tăng tính xung đột khi Tử Vũ Liêm giao hội với Sát Phá Tham khiến Mệnh tạo nặng sự tranh đấu giữa lí tưởng và hành động của chính bản thân. Tại vị trí Phi Liêm có tính bất chính, sai lầm và phá tán, đối nghịch với tính chất của sao Lộc Tồn ở đối cung. Tại vị trí Phục Binh thủ mệnh tại đây thiên về các cách chủ binh nghiệp, có tính chờ đợi để khởi sự phản kháng. Vũ Tham có Phi Liêm đồng cung khiến Tham Lang gia tăng khuyết diểm vì ham muốn, tham vọng về tiền bạc, tài sản có tính chất phi nghĩa trong việc tạo ra tài sản. Vũ Tham ngộ Kình Hao tranh đoạt giỏi, đặc biệt khi đồng độ với Kình Dương ở tuổi Đinh, Kỷ tại cung Mùi và tuổi Qúy tại cung Sửu hợp cách với bộ sao này. Vũ Tham thích hợp kinh thương cần thiết cạnh tranh, Kình cư Tứ Mộ chủ sự phát triển lên, Vũ Khúc có Kình Dương thường được luận là cách cự thương. Với cách Đà Hao ở trường hợp này ý nghĩa xấu vì Đà La chủ nhẫn nhịn, âm thầm không thích hợp với cách này. Chủ sự thua thiệt trong khi kinh doanh. Tính bộc phát của Đà La trường hợp này cần thêm Phượng Khốc tăng thêm tính táo bạo và chủ sự mở rộng được ủng hộ, ngưỡng mộ. Đà La giảm tính hoạch phát của cách cục, tuy nhiên cũng giảm tác họa với tính sát phạt khó kiềm chế của các sao Sát Phá. Vũ Tham rất cần gặp Khôi Việt chủ có mặt trong cách phát tài. Bộ Khôi Việt có tính phát sinh và bộc phát thích hợp với tính chất của Vũ Tham.  Do Tham Lang có đặc tính hưởng thụ về vật chất và tinh thần, gặp bộ Xương Khúc tốt đẹp cho cả sao Vũ Khúc là cách đa tài. Tham Lang giỏi đánh giá trong những việc được mất, cũng chủ dám thử những việc mới chưa có người làm. Tham Lang đa năng, Vũ Khúc đa tài hình thành cách cục tài năng phối hợp.
"THAM VŨ MỘ TRUNG CƯ TAM THẬP TỔNG PHÁT PHÚC".
Cách Tham Vũ nếu không có Khôi Việt hoặc Hỏa Linh thuộc cách phát muộn ngoài ba mươi vì hình thành cách phí phạm tuổi trẻ do Vũ Tham và Liêm Sát tạo nên. Vũ Khúc là sao chủ danh tiếng, đi với Tham Lang thường tuổi trẻ do chơi bời nên không có được tiếng tốt. Vũ Tham tối hỉ được Tả Hữu đồng cư giảm tính mâu thuẫn của bố cục do Tả Hữu hợp với cả bộ Sát Phá Tham và Tử Vũ Liêm. Vũ Tham tối kỵ gặp bộ Không Kiếp khiến Vũ Tham trở thành ham muốn tạo ra tai kiếp vì tiền bạc. Nếu Không Kiếp cư Tị Hợi không gia thêm Sát Tinh thì đây là cách hoạch phát rất mạnh hợp với bộ Vú Tham. Với tuổi Giáp, Canh, Mậu gặp bộ Khôi Việt tại Sửu Mùi hoặc ngược lại. Đặc biệt với tuổi Giáp cứu nguy cho vị trí Sửu Mùi với cách giao hội Tử Vũ Liêm và Sát Phá Tham do được cả bộ Tam Hóa theo Liêm Phá Vũ Dương. Bản cung được Hóa Khoa khiến mệnh tạo trở nên có hiểu biết, danh tiếng. Với tuổi Kỷ có bộ Vũ Tham bản cung hóa thành Quyền Lộc cũng là cách cục hay. Vũ Tham rất cần tam hóa để có được thành công. Xét theo Địa Chi cần gặp bộ Tuế Hổ Phù có Phượng Khốc là hay nhất, kế đến là bộ Tang Mã Khách cũng mang ý nghĩa tốt đẹp.

Vũ Tham Sửu Mùi cách luận đoán (phần 1)




Vũ Tham đồng độ tại vị trí Sửu Mùi ( Phần 1 )



Bộ sao Tử Vũ Liêm và Sát Phá Tham giao hội tại 6 cung Tị Dậu Sửu và Hợi Mão Mùi. Trường hợp này Vuc Khúc đồng cung với Tham Lang trong bộ ba sao Sát Phá Tham. Ngoài ra còn trường hợp Vũ Sát và Vũ Phá. Cách cục Vũ Tham tại Sửu Mùi là vị trí hay nhất của Vũ Khúc so với tổng ba cách cục trên. Thuộc tinh hệ Tử Vi cư Tị Hợi, tam hợp có bộ Tử Sát và Liêm Phá. Vũ Khúc đi với Tham Lang một sao chủ tham vọng định hướng và một sao chủ đa mưu, hành động khiến các tính chất bổ trợ cho nhau hoàn chỉnh hơn so với việc Vũ Phá hay Vũ Sát tăng cường tính hung khiến Vũ Khúc mang nặng tính sát phạt và cô khắc nếu không hợp cách. Tham Lang thường được luận tốt hơn hai sao Sát Phá trong bố cục Sát Phá Tham vì khi bất hợp cách tai họa có phần giảm thiểu so với Sát Phá. Tham Lang khiến tính chất toàn bộ tổ hợp Sát Phá Tham không trở nên mù quáng gây tai họa lớn hoặc chịu tai họa nếu không gặp Sát Kỵ trùng phùng. Tham Lang chủ tham vọng từ nhỏ cho tới lớn, luôn tồn tại kể cả trong Hạn hay cư tại Mệnh Thân đều có tính chất sợ gặp nguy hiểm tới tính mạng, nhưng vẫn mang tính tham vọng dẫn dắt cho Sát Phá hoạt động. Vì vậy cách Hỏa Tham tương phùng hay Tham Linh một phần lớn hợp cách do không tác họa khi Tham Lang bắt đầu công việc luôn tính tới hậu quả trước sau khiến Hỏa Linh trở thành dụng mà nhập miếu tính chất hỗ trợ cho Tham Lang
 Với Vũ Khúc độc tọa vẫn mang khuyết điểm là tính vô khắc, cương cường, ương ngạnh tuy nhiên khi được Tham  Lang gia hội tính chất biến hóa trở nên hữu dụng.



Nói đơn giản hơn như việc với Sát Phá sao Tham Lang luôn đi cùng nhưng gặp hạn xấu hay tổng thể mệnh Tham Lang không gặp tai họa như Sát Phá mặc dù tam hợp bổ trợ toàn cách cục, chưa nói đến Vũ Khúc không có tính Sát như hai sao trên. Vũ Tham có tính đa tài đa năng, luôn có Đồng Âm tại cung Tí Ngọ nhị hợp.
"VŨ KHÚC THAM LANG TÀI TRẠNH VỊ HOẠNH PHÁT TƯ TÀI".
Vũ Tham thuộc tài cách, cư Tài Bạch hay Điền Trạch đều mang ý nghĩa tích tụ được tài sản do lòng tham về tiền bạc. Tham Lang là sao chủ tài của nhóm Sát Phá Tham, Vũ Khúc chủ tài của Tử Vũ Liêm. Cách này nhấn mạnh về phú hơn quý. Tài cách của Vũ Tham đa phần mang tích hoạch phát do mâu thuẫn của Tử Vũ Liêm và Sát Phá Tham.
"QUAN CUNG THAM VŨ CÙNG XÂM ĐƯỜNG MÂY THUỞ ẤY HẢI LÂM BỔN TRÌ".
Câu phú này viết về cách Vũ Tham cư tại cung Quan Lộc không hợp mà phải lao đao, vất vả mới được chút thành tích. Vũ Tham là cách chủ tài và có được do hoạch phát thất thường kỵ khi trên con đường quan lộ dễ đổ vỡ do sao Tham Lang có tính chất xấu, lý tưởng của Tử Vi không được quần chúng ngưỡng mộ, nghe theo nên không hợp với đường quan lộ. Vũ Tham bình thường nếu kiến Sát Tinh hợp cách có thể theo nghiệp võ cũng được thành tựu nhưng cũng do hoạch phát không bền, do có bộ Đồng Âm nhị hợp tác động lớn. Đồng Âm cũng tác động tới một phần lớn tính chất của cách cục này, Vũ Tham tại đây có tính chất từ thiện, khi làm việc thường có người đồng hành giúp đỡ, không có nhiều tính Sát như bộ Sát Phá.

Cơ Âm Dần Thân cách


Cơ Âm Dần Thân cách


Đây là trường hợp bộ Cự Đồng giao hội với Âm Lương hình thành nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương hoàn chỉnh với Thái Âm và Thiên Cơ đồng độ tại vị trí cung Dần Thân. Ở đây Thái Âm đi cùng Thiên Cơ tạo thành cách cục có lợi so với trường hợp đơn thủ.
" Thái Âm thủ Mệnh Thân nhất sinh khoái lạc".
Mệnh có Thái Âm đơn thủ tức tính chất biểu hiện đầy đủ khi hợp cách thường được hưởng thụ sự an ổn, cuộc sống yên bình tốt đẹp ít biến động lớn. Bộ Cơ Đồng giao hội với Âm Lương Cự tạo nên bộ Cợ Âm, Cơ Lương và Cơ Cự có tính chất phối hợp giữa hai chính tinh đồng cung, hợp với bản chất của sao Thiên Cơ và giảm khuyết điểm của sao này. Cách Cơ zâm Dần Thân phân hai vị trí cư Dần và Thân có tính chất hoàn toàn khác biệt nhau. Thiên Cơ mang tính động lớn, chủ sự tính toán lợi ích cá nhân trong công việc của tập thể. Thiên Cơ luôn nhị hợp Phá Quân chủ phá dỡ, bỏ cũ thay mới nếu có thời cơ từ Thiên Cơ và ngược lại Thiên Cơ cần sự tìm hiểu, khai phá của sao Phá Quân so với tư tưởng của Tử Vi để tìm ra cơ hội, thời cơ. Cơ Âm có tính chất âm nhu, mưu kế sâu xa, nếu ngộ Sát Kỵ thường tính cách nham hiểm, ích kỷ. Cơ Âm cư Thân được Thái Âm sáng và cư cung Dần sao Thái Âm tối xấu hơn có tính chất thua thiệt, nhẫn nhịn. Cách cục này tối hỉ tuổi Đinh được bộ Tam Hóa, tại bản cung hình thành cách Khoa Lộc và Hoá Quyền tam hợp đi với Cự Môn, đây là chính cách của Tam Hóa tác dụng hiển hiện.



Nếu cư Dần được thêm bộ Tồn Ấn Bệnh có Quốc Ấn tại bản cung. Có thể được thêm bộ Đào Hồng, Cô Quả theo Địa Chi, gia Tả Hữu Xương Khúc là thượng cách được cả phú, quý, thọ và sự an nhàn. Bộ Cơ Âm không kỵ cách Kình Hao hay Đà Hao mặc dù tác động xấu tới Thái Âm, có lợi với tổng thể toàn bộ tổ hợp. Tuy nhiên nếu gặp bộ Thanh Phi Phục hay Lộc Tướng Ấn theo Thiên Can tốt đẹp hơn khi ngộ Kình Dương, kế đến Đà La. Cần thiết gặp Khôi Việt chủ khởi phát cơ hội, tăng giá trị cho toàn bộ cách cục do Thiên Đồng và Thiên Lương cũng ai mộ Khôi Việt. Bộ Cơ Âm tối kỵ việc có Hỏa Linh đồng cung luận tính chất trở nên xấu, tai họa lớn chủ sự căng thẳng về đầu óc, dễ gặp cảnh tâm thần không ổn định khiến Thái Âm mất giá trị an ổn, tính đa tài đa nghệ của Thiên Cơ trở nên phù động mà sai laamftrong suy nghĩ. Nếu gặp Hỏa Linh cần thiết các cách giải như Khoa, Quyền, Lộc, Ấn, Tả Hữu. Kỵ gặp thêm Khôi Việt hay Hình Diêu hình thành bộ Việt Linh Hình, hay Khôi Hỏa Hình, đều mang sắc thái cực đoan phá cách lớn tới cách cục. Bộ Cơ Âm ưa gặp Tang Hư Khách và Tuế Hổ Phù, đặc biệt bộ Phượng Khốc với các sao an theo Địa Chi. Cơ Âm là cách cục hiền lành, phúc hậu với nữ giới tối hỉ chủ diện mạo xinh đẹp đoan chính, có từ tâm không chứa tính Sát. Cơ Nguyệt Đồng Lương sách viết thích hợp với các công việc mang tính đại chúng, xã hội. Thiên Cơ khi tốt là Thiện Tinh, nhấn mạnh ở tính lễ phép, lấy lợi ích cá nhân để đóng góp xây dựng cho tập thể, cư xử hợp lí, linh hoạt thích nghi, khi gặp khó khăn không rối loạn, thích phục vụ cống hiến âm thầm, nhiều ảo tưởng, đa sầu đa cảm. Bộ Cơ Âm có đầy đủ các tính chất trên nếu được Lục Cát Tinh và Khoa Quyền Lộc, Lộc Tướng Ấn giao hội tránh được Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp. Kỵ nhất là đồng độ Hỏa Linh, kế đến là Địa Kiếp.

Thiên Cơ cư Tị Hợi cách



Thiên Cơ cư Tị Hợi cách


Thiên Cơ luôn tam hợp với Thiên Đồng hình thành tổ hợp bộ Cơ Đồng. Bộ sao này có thể giao hội với Âm Lương và Cự Môn hình thành cách Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Cơ Đồng. Thường thì cách Cơ Nguyệt Đồng Lương có ý nghĩa hay hơn bộ Cự Cơ Đồng. Thiên Cơ trong bộ sao này có thể đồng độ với Cự Môn hoặc đơn thủ tại cung Tị Hợi. Sao này tọa thủ tại cung Tị Hợi tam hợp là bộ Cự Đồng và một cùn vô chính diệu, xung chiếu là Thái Âm. Trường hợp Thiên Cơ đơn thủ tính chất bộc lộ rõ ràng thể hiện ở mặt tính cách, tuy nhiên khác với các sao thuộc Sát Phá hay Tử Vũ Liêm ưa sự đơn thủ. Thiên Cơ Tị Hợi dễ bị đánh giá là do mục đích cá nhân gây ra bất mãn cho người khác hoặc tập thể chung. Thực tế nhiều lá số mệnh có Thiên Cơ thất bại vì lý do này. Tính chất của toàn cách cục Cự Cơ Đồng cũng mang ý nghĩa việc phải chống đỡ khó khăn với sao Cự Môn có tính chất luôn có sự bất mãn khiến đa phần Mệnh tạo có cách này thường tâm trí ít có được sự bình yên mà có nhiều khổ não. Trái với cách Cơ Nguyệt Đôngf Lương mang tính thụ hưởng an nhàn do việc hưởng phúc êm đẹp, hoặc thời cơ và may mắn trợ giúp.



Bộ sao Cự Cơ Đồng hợp với tuổi Đinh và tuổi Bính. Với tuổi Đinh có bộ Đà Khôi Hao hoặc Kình Việt Hao có thêm bộ Khoa Quyền Kỵ. hóa Lộc xung chiếu thành thứ cách của bộ Tứ Hóa. Tùy trường hợp do thiên can Âm có thể đi cùng với Thiên Mã tức bộ Tang Mã Khách hay Tuế Hổ Phù và đặc biệt là bộ Phượng Khốc. Với tuổi Bính có thể đi với bộ Đà Việt Hao hoặc Khôi Kình Hao giao hội với Quyền Lộc và Lộc Tồn ngộ Triệt tại cung Tị. Hình thành bộ Song Lộc ngộ Triệt bản cung Tị, nếu cư Hợi thì được bộ Cưu Đồng Binh chủ sự phản kháng mang quyền lợi của tập thể từ quyền lợi của cá nhân. Với tuổi Bính thuộc thiên can Dương có thể đi với bộ Đào Hồng Cô Quả Kiếp Sát. Sao Thiên Cơ tại Tị Hợi may mắn vì được nằm trong bố cục tinh hệ Tử Vi cư Tí Ngọ có đủ bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm. Mệnh Thiên Cơ thuộc vị trí thua thiệt hơn ngang bằng với Sát Phá Tham, cư tại Tị tốt hơn tại Hợi do được bộ Âm Dương sáng dẫn tới cơ hội lớn hơn. Thiên Cơ trong hoàn cảnh này phải thay đổi đêt chống lại khó khăn do Cự Môn gây ra nên có tinh thực tế, giảm thiểu sự ảo vọng như cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, đánh giá đúng tình hình do Cự Môn giỏi việc đánh giá, Thiên Cơ là cơ hội nhưng thiếu sự may mắn nên chưa hoàn chỉnh. Nhìn chung mệnh có sao này nên có cung an Thân tại vị trí của Phúc Phối Di là cách tốt đẹp, khirend dễ đạt sự thành công hơn.

Wednesday, March 22, 2017

Cự Đồng Sửu Mùi cách tổng luận



Sao Cự Môn đồng cư Thiên Đồng cách


Trường hợp có bộ Cự Đồng là trường hợp bố cục Chính Tinh không mấy hay của các cách cục trong Tử Vi. Trường hợp này thuộc Cự Môn giao hội với nhóm Cơ Đồng, đồng cung với Thiên Đồng không hay bằng việc đi với Thiên Cơ. Thường tiền nhân luận Thiên Đồng có tính chất thay đổi, không bền chí thực chất do cơ hội đến từ sao Thiên Cơ. Trong Toàn thư có đoạn luận về Thiên Đồng có tính chất khi đắc cách chủ tính tình hòa nhã, khiêm cung, biết tôn trọng người khác và có lòng nhân từ, suy nghĩ sâu sắc mà hành động tránh làm tổn hại đến nỗi quan hệ với người khác. Nhấn mạnh tính chất thay đổi có mới nới cũ, xây dựng ý tưởng kế hoạch nhưng mang tính phù trầm, khó có quyết tâm thực hiện, vì vậy mà nói thì nhiều mà làm thì ít, có tính hài hước và tính trẻ con. Thiên Đồng nhấn mạnh ở tính thụ hưởng, chấp nhận với thực tại ở trong các trường hợp tốt xấu kể cả bị lấn át, chèn ép nếu xấu nên cũng không gặp tai họa lớn như các Sát Tinh đấu tranh bằng cả bạo lực và tinh thần, vì vậy luận là Phúc Tinh chủ có phúc đức. Tuy nhiên khi đứng cùng sao Cự Môn đặc tính này không hay để bị nhận xét là cách cục xấu. Cách Cự Đồng là cách chấp nhận sống với sự bất mãn của Cự Môn. Sao Cự Môn là sao luôn chứa bất mãn với Tử Vi nên rất cần cách cục đấu tranh hoặc trực tiếp thay đổi để chống lại sự bất mãn. Vì vậy cách Cự Môn ngộ Kình Hao hay Đà Hao đều thuộc cách tranh đấu hoặc nhẫn nhịn để bộc phát như đã luận ở tính chất bộ Kình Đà. Đồng độ với Thiên Cơ chính là thời cơ, cơ hội thoát khỏi bất mãn và lợi ích từ sự bất mãn, từ đó sinh ra quyền lợi hay những thứ khác.


Với Cự Đồng nếu tầm thường là sự cam chịu số phận để hưởng thụ cuộc sống bình thản. Tử Vi cư Tí Ngọ độc tọa lý tưởng cao và đầy đủ bộ Vũ Tướng và Liêm Phủ khiến Cự Môn về vị trí hãm, khi Tử Vi có lý tưởng sai lầm nghiêm trọng sẽ hình thành cách tất cả chung sự bất mãn tức cách Cự Đồng. Bộ sao này nằm trong tinh hệ Tử Vi cư Tí Ngọ, các Đại Hạn đi qua tùy tốt xấu mà luận tính chất biến đổi theo gốc tính cách của bản cung Mệnh. Cự Đồng nhập mệnh ý nghĩa bản thân thiếu quyền lực vì phải chấp nhận bị chèn ép, vì vậy rất cần có bộ Tam Hóa hoặc Sát Kỵ nhằm kích phát khiến bố cục nâng cao hơn. Cự Đồng Sửu Mùi tối hỉ được bộ Khôi Việt nâng giá trị cho bộ sao này, đặc biệt là cách Tọa Quý Hướng Quý theo Thiên Can ở các tuổi Giáp, Canh, Mậu. Cần thiết gặp bộ Phượng Khốc hoặc Đào Hồng theo địa chi để Cự Đồng giảm tính khuyết điểm trong cách cục. Ở đây kỵ gặp bộ Lộc Tướng Ấn tăng tính bất mãn của Cự Môn, mệnh tạo khổ sở vì những việc không thể chống cự dù có thể chỉ là những chuyện tào lao. Ở đây gặp Kình Hao lại là cách hay mặc dù có cách Thiên Đồng Kình Dương thân thể tao thương nhưng đây là phản kháng cách. Tuổi Đinh Kỷ có Kình Dương cư Mùi và tuổi Quý có Kình Hao tại Sửu. Đặc biệt bộ Cự Đồng hỉ được tuổi Đinh có tứ hóa Nguyệt Đồng Cơ Cự hình thành bộ Khoa Quyền Kỵ gia hội Thiên Khôi hoặc Thiên Việt ngộ Kình Hao hoặc Đà Hao. Tuổi này là trường hợp tốt nhất cho bộ Cự Đồng cư Sửu Mùi, nếu được thêm bộ Phượng Khốc luận là hay, chủ được sự ủng hộ, đồng lòng khi Cự Môn bắt đầu lên tiếng phản đối trong trường hợp có Việt, và đứng đầu trong tổ chức đối lập trong trường hợp có Khôi. Cách cục này cần thiết kiến Sát Kỵ để thay đổi tính chất cam chịu. Với Mệnh Cự Đồng cung độ gặp tổ hợp Sát Phá Tham là thời cơ để thay đổi cái nhìn để thành công. Cự Đồng ngộ Xương Khúc chủ giảm khuyết điểm của Cự Môn, ngộ Tả Hữu được sự giúp đỡ khi khó khăn, gặp Tang Hư Khách không luận xấu. Vì vậy cách này chỉ kỵ gặp Không Kiếp và thứ đến là bộ Hỏa Linh.