Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Sunday, May 27, 2018

Bàn luận tử vi về cách cục nhập Mệnh Thân




Phần trao đổi bàn luận về cách cục tử vi người viết giản lược một số phần bàn luận để ngắn gọn hơn. Với tam hóa nên bỏ những kiến chấp về Xương Khúc, Khoa Quyền Lộc, Khôi Việt, Tả Hữu. Như so sánh bố cục tam hóa như sau. Mệnh cách có Thái Âm ngộ Khoa Quyền Lộc Tả Hữu Xương Khúc hội mệnh. Mệnh cách thứ hai Thái Âm ngộ Hình Kỵ Kiếp Khốc Linh Quyền Ấn nhập vòng Trường Sinh. Lá số thứ nhất mệnh tạo yểu mệnh, có vài lá số vẫn có cách cục khá tốt, thành đạt, nhưng mệnh không tạo nên thành tựu đột biến lớn. Lá số thứ hai tuy tính cách sát phạt, táo bạo, âm quyền thành tựu phát đại quý, giữ chức vị rất cao trong quốc gia. Lá số thứ nhất sinh trưởng tốt, được nuôi dưỡng, giáo dục tốt, cuộc sống ổn định. Mệnh tạo tới trung niên thì phát. Lá số thứ hai sinh trưởng bần tiện, thuê mướn, không có học vấn, tuy nhiên tham vọng rất lớn, bản tính khác biệt với cùng lứa, ưa sát phạt, thâm trầm, vượt qua nhiều giai đoạn bế tắc, khó khăn. Trung niên hoạch phát khi nhập vận tam hợp Mệnh. Một điểm quan trọng khi nhìn mệnh cách của tử vi đông a là nhìn vào khí hóa của Sát, nếu cường vượng, mệnh tạo đảm nhiệm và dẫn hóa được. Sát cách có đặc điểm phối hợp ngũ hành, Hỏa Kim là gốc. Nhìn vào bởi phát xung lực. Mệnh tạo với tham vọng lớn, hành động thể hiện quyết tâm không dời là phát Kim sáng. Mệnh tạo nhiệt huyết, táo bạo với tham vọng là Hỏa sáng. Mệnh tạo liên tục bám nắm, không thay đổi với tham vọng nhưng linh hoạt với hành động là Thủy sáng. Trong bế tắc không tuyệt vọng, đâm gốc rễ sâu vững chắc, hướng tới phát triển liên tục là Mộc sáng. Ổn trọng, giữ vững không để những tính cách vượt qua kiểm soát, là Thổ sáng. Chữ sáng ở đây là hợp, hữu tính, chế hóa thành cách. 



Ngũ hành khi người nghiên cứu hiểu nhầm với tên gọi. Vạn vật từ vô tình tới vật có sinh mạng đều chịu tác động bởi các quy luật, không thể nằm ngoài các quy luật này. Vạn vật đều có các thuộc tính Âm Dương và phân Ngũ Hành tác động, nằm sâu trong tính chất.  Ở đây Thủy ở cách dùng vật diễn giải, chỉ đặc tính chuyển dịch, linh động, lấy tên làm tượng, không phải mang ý nghĩa là nước. Do bản tính nằm trong Ngũ Hành nên giản đơn lấy Tử Bình chỉ gồm Vòng Trường Sinh, Âm Dương, Ngũ Hành biến dịch luận mệnh thọ yểu. Vạn vật luôn biến động, đây là lý thứ nhất là quan trọng nhất, thâu suốt. Vạn vật phân làm Âm Dương là lý thứ hai. Vạn vật đều có thịnh suy, vượng tuyệt là lý thứ ba. Vạn vật khi biến động sinh ra các tính chất, đó là Ngũ Hành là lý thứ tư. Cũng như phương tây, nghiệm lý bởi khoa học thiết bị hiện đại không nằm ngoài sự thực. Thầy Nguyễn Bỉnh Khiêm nắm được diệu dụng của Thái Ất Thần thư mà dự đoán được vận nước. Về lý toán mệnh, luận ở thế vận động, kết quả của biến động lý Âm Dương Ngũ Hành dụng y học hay các môn khác không phải thua kém hoàn toàn với Phương Tây. Do cùng lấy nguyên lý xuất phát từ quy luật chung vạn vật. Như trong một cộng đồng, một tập thể kẻ nổi trội là đứng đầu. Sức vượt trội trong quần chúng, là sự khác thường. Kết hợp từ Ngũ Hành thiên lệch. Do bất bình thường nên hợp hóa hữu tình là mệnh quý, bất bình thường nhưng hợp hóa vô tình là tuyệt mạng. Đó là tính quân bình. Các tính chất sao trong Tử Vi không nằm ngoài vậy. Vòng Lộc Tồn tác động rất lớn không nằm ngoài vị trí Lâm Quan vượng khí của vòng Trường Sinh bởi Thiên Can lưu trên vòng Địa Chi. Có một phần người viết đưa ra thường gặp phản đối, thực lấy ngũ hành để phân tính cách, bản tính mệnh tạo tức quy về bản thể chung là điểm nên dụng trong tử vi, cũng là cách phân loại tránh rối loạn của Tử Vi Đông A. 




Tuy nhiên người nghiên cứu thường nói rằng việc này gán ghép vô tình giữa Tử Bình và Tử Vi. Thực hai môn này không khác nguồn gốc. Lý đơn giản chỉ lấy ngày tạo sinh, hấp thụ khí, khai tạo như việc thời điểm khai tạo một tổ chức, xuất hiện lý nhân duyên. Lý nhân duyên sinh ra do biến động của vạn vật. Rồi lấy Khoa Quyền Lộc Kỵ gán cho tứ mùa Xuân Hạ Thu Đông là lấy xuôi bẻ xuôi, không đi ngược lên nguồn gốc. Tứ thời gồm 4 mùa cũng chỉ là sự biến hóa của Ngũ Hành. Ở những nơi không có bốn mùa này lẽ nào không có mệnh lý. Thấy tương đồng nhưng không ngộ nhận. Khi luận có người luận Tứ Trụ lấy khí
Sự diệu dụng của các môn Toán mệnh nằm ở sự khởi tạo tương liên giữa Thiên Văn và khai tạo ra bản thể một mệnh tạo. Sự khai tạo của một bản thể cũng như sự khai sinh một tổ chức, một vận đều liên quan tới trời đất. Cổ nhân dụng Thiên Văn phối hợp định cách rõ được thời gian liên quan tới hành khí của Ngũ Hành là Lục Thập Hoa Giáp từ một điểm truy được toàn bộ các năm khác theo Can Chi, tới ngày nay cũng vậy. Đó là mối tương quan đầu tiên của thời gian kiến với Âm Dương Ngũ Hành, mối quan hệ mà Phương Tây không nhìn ra, cũng không quan tâm nhiều do sự phát triển lịch sử. Phương Tây thường hướng tới bên ngoài trợ lực, phương tiện tạo ra. Sau đó hướng tới định cách bởi vạn vật đều chịu tác động của Âm Dương Ngũ Hành, khi khởi tạo truy nguồn gốc của hành khí theo quy luật thì ra được Mệnh Lý. Do đó lá số tử vi là một tờ giấy ghi trước số mệnh, tuy nhiên nhìn cuộc đời khi tới mệnh vong bởi Tuyệt cách thực chẳng sai lầm, đại vận hoạch phát hay bệnh tật cũng vậy. Người đời sau khi nghiên cứu về mệnh lý do không có tài liệu, kinh sách không còn nhiều người rõ được nên khi luận nắm đuôi không nắm đầu nên có phần thiếu sót. Cũng không biết rõ khi biến động mạnh bởi dòng khí điểm thì mệnh tạo mỗi người thực chẳng có ý nghĩa so với tác hóa của Thiên Địa lớn hơn ta, theo thứ tự là làng, nước, thiên hạ, thiên địa. 




Một cơn sóng thần hay nổ bom nguyên tử khiến số mệnh bản thể không còn mang ý nghĩa. Trong chiến loạn cũng vậy. Lá số tử vi mỗi người là bản tính, sự biến động của ngũ hành tới bản tính, ai cũng có số mệnh nên đồng khí tương liên, dẫn tới diệu dụng khi toán mệnh. Xét về khảo cứu khoa học hiện đại của Phương Tây rất đột phá. Tuy nhiên kiến thức của chúng ta cũng rất uyên thâm, rất nhiều điểm khiến họ nể phục. Bản chất vạn vật không có Thiện Ác. Chỉ tư tưởng mỗi người khác nhau phân Thiện Ác. Vật ta thích thì sợ hãi khi thấy chữ Diệt, vật ta ghét thì sợ hãi khi thấy chữ Sinh. Cổ nhân luận rằng nếu ta không có suy nghĩ của con người thì đã có thể nắm được lý của trời đất. Trạng thái Không chỉ là một trạng thái không bất biến của vạn vật. Tư tưởng của ta nhận lầm về tính cố định. Bản thân hôm qua tới hôm nay như không khác biệt. Nhưng nếu gặp một biến cố lớn thay đổi hoàn toàn nhận thức trong một khắc thì tâm nhận biết rõ về thay đổi thành người khác. Ta thường chấp vật tại một thời điểm là bất biến. Khi nhìn vạn vật không nhìn sinh diệt, vì thực không có sinh diệt, do nhận thức sai biệt mà ra sinh diệt. Không có vật bất biến. Cổ nhân luận vật qua ba trạng thái. Trong đó có trạng thái Không cũng  chỉ mang tính tạm thời. Khi thực lý bởi dịch lý uyên thâm, cố nhận định ra toàn cục về y lý dụng âm dương ngũ hành chữa bệnh khi không phát triển như tây y với phẫu thuật bên trong. Thứ hướng tìm tới bản nguyên nguồn gốc trong nội tâm. Sinh được các kinh thư cổ qua nhiều giai đoạn biến cố thời gian thực đã gần như thất truyền. Trong đó có phần định về Không cách rõ, thì mệnh lý được rõ. Trong cuộc sống, nhiều thời gian bản thân mỗi người rơi vào trạng thái Không, tức không nhận thức. Mắt đôi khi nhìn nhưng không thấy. Tai nghe không nghe. Đứng ở một vị trí nhưng không biết. Đó là ứng hợp đặc tính của Không. Tất cả đều sợ một điều là. Cái chết. Tất cả hoàn Không khi chết. Do nhầm lẫn về Sinh Diệt. Tất cả đều rõ khi chết vạn vật không biết, không nghe, không thấy, không nhận thức. Những việc về linh hồn hay cõi âm đều do tưởng tượng ra về một thế giới tốt đẹp hơn. Do sợ chữ Không và tư tưởng luận nhầm lẫn bởi Sinh Diệt mà không rõ là thực không có Sinh Diệt mà chỉ có biến đổi. Ta thở một cách đều đặn từ sinh ra tới khi chết, phần lớn ta không biết. Các nội tạng, ta không cảm nhận được từng nội tạng của ta. Khi bị biến đổi cơ thể ung thư nguy hiểm, ta không nhận thấy. Lời nói vừa ra khỏi miệng, không nhớ rõ. Hôm qua làm việc nọ, nhớ chưa làm. Khi sợ hãi về Không cách thì ngay việc giác quan không hoàn chỉnh, bám nắm lấy. Tiền nhân để lại hậu thế tri kiến uyên thâm khi tuổi cao. Khi già, sáng làm, trưa quên. Mắt thấy không còn rõ như xưa, không sợ hãi, hoảng loạn. Tai chuẩn bị điếc, không sợ hãi, hoảng loạn, Làm nhớ chưa làm, không sợ hãi, hoảng loạn, quên gần hết chuyện xưa kia, không sợ hãi, hoảng loạn.  Tới gần chết, mắt không còn nhìn thấy, không sợ hãi cố chấp. Cuộc đời theo quá trình thì không sợ hãi. Nếu biến đổi ngay tức khắc từ trẻ tới già thì hoảng loạn. Sinh Lão Bệnh Tử một người, nằm trong quy luật tức Sinh Vượng Tuyệt Không. Vạn vật không nầm ngoài quy luật. Cũng vì quy luật đúng vạn vật tới mức không sai sót. Nên mệnh lý và huyền học phương Đông rõ hơn về chữ Tử. 





Do Không cách mang tính tạm thời. Thực tế khi mỗi người sống. Đôi khi tâm tách khỏi thân, còn sự thực không làm chủ hoàn toàn với thân tức cơ thể như ở trên. Do vậy, Tâm tức Mệnh và Thân tức cung an Thân. Hiện nay người luận tử vi thường chỉ nhìn Mệnh và Thân không rõ lý tiền nhân để lại sau này. Chỗ quy về đại ngã với quan niệm một số tôn giáo do nhìn nhận về Không cách. Mệnh sinh khởi trước Thân, là nguồn của Thân, tuy nhiên về sau phụ thuộc song hành với Thân. Đây là cách khởi nguyên định của Mệnh Thân. Thân sinh khởi do Mệnh mà có.  Sau này hỗ hoán tác động lẫn nhau. Do Thân khởi từ Mệnh khi ứng hợp bên ngoài, tức với vật chất, nên Mệnh không làm chủ hoàn toàn Thân. Nơi này thì phát triển như vậy, ở nơi khác phát triển khác. Thân là phần ngoài ứng hợp, Mệnh là phần trong. Tử Vi hay các môn toán mệnh chỉ là một phần nhỏ trong trí uyên thâm của cổ nhân, chỉ đáng tiếc là man thư nhiều nhưng kinh thư ẩn không có duyên không gặp. Ta nhìn sợ hãi chữ Không. Do đó không rõ Không cách. Tâm khi chết quy về Không. Cũng như trong suốt thời gian sống, tức biến đổi liên tục bản thân mỗi người đã trải qua trạng thái này. Sau đó sẽ khởi nhập vòng Trường Sinh do tính quy luật của vòng Trường Sinh tác động vạn vật, không có ngoại biệt. Do khởi biệt như vậy, sinh ra các việc luận đoán về quá trình của khởi phát tiếp theo. Sinh ra nhiều thuyết về sinh tử hồn phách đầu thai. Trong cuộc sống, khi trạng thái Không xuất hiện, các hoạt động vẫn diễn ra bởi ngũ hành luôn biến động, Thân là ngũ hành nên các hành vi vẫn vô thức diễn ra. Do đó khi tuyệt mạng các hành tức hành vi vẫn vô thức diễn ra tới khi biến đổi khỏi trạng thái Không, khởi tạo được vòng Trường Sinh. Bản thể ta hay thế giới vẫn tuân theo các quy luật trời đất như vậy. Tức Nam và Nữ, Chính và Tà, Thiện và Ác cũng vậy, len lỏi qua từng vật, từng quá trình nhỏ nhất. Người thường nhầm lẫn vật hữu tình, vật sống do hoạt động nên không chịu tác động của nguyên tắc trên. Lại phân định nên sai lầm. Người viết luận cho học trò sâu hơn một chút về định cách. Thực tế người xem tử vi cũng không cần rõ về nguyên lý của Mệnh Thân. Khi luận cần thiết nghiên cứu rõ về tính chất của cách cục và phối hợp cách khi luận mệnh vận là đủ để có thể tự luận tử vi cho bản thân. 

Wednesday, May 23, 2018

Linh Tinh luận mệnh cách giao hội



Các bài viết về sao Linh Tinh ở phần luận được bàn luận ở trước đây mang tính chất cơ bản của sao này. Khi giao hội các sao khác hình thành các bố cục mang ý nghĩa biến hóa phức tạp, thường khác với luận tử vi thường, do đó người nghiên cứu tử vi nên tự nghiệm lý các bố cục để tránh sai lầm khi định cách cục với sao này. Sao Linh Tinh có tính chất đặc biệt, chủ hàm chứa âm kim, nội Sát khí vượng. Mệnh cách có Linh Tinh thường là mệnh khác biệt do tính âm kim này. Cũng là sao dễ biến hóa theo chiều hướng cực đoan, thành tựu lớn. Cổ nhân luận Linh Tinh ngộ Hình Việt là bố cục mang ý nghĩa gặp sấm sét, điện giật, búa đao. Tuy nhiên cách cục mạnh thành tựu sự nghiệp của Linh Tinh lại nhiều bố cục hàm chứa tổ hợp cách này được cát hóa. Trước đây việc nghiệm lý các mệnh cách thành tựu khó khăn do việc tiếp cận thông tin đúng về những người thành công trong sự nghiệp. Hiện nay thông tin phát triển dễ dàng tiếp cận hơn với những người thành đạt, tầng lớp địa vị cao trong xã hội. Do không phải thời phong kiến với khí hình gốc ban đầu sinh ra trong tầng lớp cao, các mệnh cách tử vi thường luận thượng cách đa phần đều xuất thân bình thường, có kẻ xuất thân bần tiện nhưng thành tựu lớn. Những người đứng đầu đất nước, người giàu có, phú quý rất nhiều mệnh tạo như vậy, luận trong bố cục chế hóa Sát cách. Trước đây mệnh cách Tử Vi ngộ Tam Hóa đắc cách Tả Hữu là thượng cách do hàm chứa Phủ Tướng chủ nối nghiệp nên thường luận đứng đầu. Trong rất nhiều lá số mệnh như vậy nhưng có kẻ nghèo, yểu, có kẻ thành tựu do khí hình gốc ban đầu, dòng dõi tạo nên. 



Kẻ yểu mệnh do bố cục Sát tập trung ở đại vận thứ hai không có trợ tinh hóa cục nên yểu cách. Luận tử vi trước đó nhiều người nghiên cứu luận chưa tinh định cách mệnh thượng cách như vậy, tới nay vẫn áp dụng. Mệnh cách Tử Vi ngộ Tam Hóa đặc biệt có Lộc Ấn là mệnh quý, tuy nhiên nếu Sát cách trùng phùng tại một tổ hợp đại vận thì hung hiểm khi nhập vận trên, sức bộc phát thành tựu cũng không lớn, đa phần tới vận trung niên về Tài Bạch hay Quan Lộc thì thành tựu, trước đó vận xấu khí hình vận bất vượng nên nhập vận trung niên được an ổn, phò trợ mà có tài danh. Kẻ khí hình gốc vượng lại đắc cách là cách cục hiếm gặp. Đa phần thường bị Sát cách tác họa do bản chất của bố cục Sát cần liên tục chế áp, vượt qua các khó khăn. Người viết rất hoan hỉ khi có một số trao đổi về tử vi của đạo hữu uyên thâm trong dịch lý toán mệnh, hiểu rõ về tính chất của Sát cách và lý biến hóa ứng hợp của Sát khi chịu biến đổi bởi tham muốn mãnh liệt, không gián đoạn, cũng luận toán mệnh ở phần gốc. Sao Linh Tinh có một số cách tổ hợp nằm trong bố cục thành tựu hoạch phát. Khi mệnh cách có Linh Hình Việt giao hội với Vũ Sát hay Thiên Cơ, đặc biệt khi đồng cung hội họp Sát Kỵ thì dễ gặp tai họa điện giật, sấm sét búa đao thương tích. Bố cục này tính Sát vượng do Linh Hình lại có Việt phát sinh, bố cục Kim hóa Sát mang ý nghĩa vậy. Cũng là cách cục vượt qua giới hạn, thái quá đặc biệt khi có Kỵ hay Kình Kỵ. Ý nghĩa hay của Linh Hình Việt là cách làm việc thái quá, mang ý nghĩa tốt khi có Kình Khoa và Lộc Tướng Ấn. Mệnh có Linh Tinh không dương tính, loạn động và nhiệt huyết như Hỏa Tinh, tuy nhiên hàm chứa Sát vượng, thâm trầm, quyết đoán, không dùng tình cảm do đó Linh Tinh đắc cách hóa Sát thành Quyền không theo khuynh hướng Tình Duyên nên thành tựu. 




Mệnh Linh Tinh có tính chuyên nhất, tập trung lớn. Linh Tinh khi giao hội với Sát cách tối hỉ nhập vòng Trường Sinh hướng biến hóa không gặp cách tuyệt khí do Sát cách vượng. Linh Tinh rất cần gặp Lộc Tướng Ấn là cách cục tốt, đặc biệt Việt Linh Hình nhập vòng Lộc Tồn mang ý nghĩa tích lũy, đặt tham vọng lớn. Linh Tinh có khả năng nhìn nhận sâu về công việc, tập trung không gặp cản trở do tình cảm. Trong tử vi có cách cục Linh Xương Đà Vũ hạn chí đầu hà mang ý nghĩa hãm hại chủ kẻ khác, hay trong nội tâm mệnh tạo do Sát vượng tác động tới bản thân nghe theo tự tử. Như bố cục Kỵ Hình Kình Việt chủ ưa Sát, nội tâm thường đặt lợi ích lên trên mà có thể vi phạm pháp luật, trường hợp có Khoa Thanh hay Cơ, Vũ là lách luật, đặc biệt khi có Thiên Cơ tại bản cung. Cách cục biến hóa linh hoạt, chớp thời cơ là cách cục tốt với sao này. Linh Tinh tham vọng lớn, đây cũng là sao chủ danh và linh tính. Linh Tinh chủ lạnh lùng, khi gặp Kỵ hình thành cách Linh Kỵ là mệnh cách đặc biệt. Mệnh cách có bộ Linh Kỵ đắc cách thường được thành tựu do suy nghĩ khác biệt, tìm ra hướng đi mới ứng hợp phát danh nên luận tốt. Linh Tinh hợp với Lộc Tồn, trong bố cục Tồn Tướng Ấn tăng tính quan trọng của Linh Tinh, cũng chủ ngoài lạnh trong có tình cảm với mối quan hệ đặt tham vọng. Linh Tinh không được chế hóa bởi tình cảm hay Văn cách thường bố cục Sát tác hóa theo khuynh hướng lạnh lùng, gây thương tích tới người khác, cũng do tham vọng ý nghĩa thành hành động tận tay, khi đó Linh Kỵ thành sát nhân. Khí hình vượng mệnh xuất thân quý hướng tới tham vọng quyền lực, hóa Sát cách thành Quyền chủ quyền ngầm. Sao Linh Tinh là sao có Sát tính mạnh, lại âm sát, với Kỵ chủ ám tăng mạnh tính âm sát này. Với nhiều mệnh cách Cơ Linh gia Sát mệnh xuất thân khí hình thấp phạm tội nặng do Sát cách tác họa thực không ít. Người luận tử vi nghiệm lý thường luận đây là Sát tinh mang tính sát phạt, lạnh lùng. Linh Tinh mệnh quý là lưu lại danh tiếng cho hậu thế do những việc phi thường của bản thân. Linh Kỵ là cách cục mạnh của Linh Tinh. Đây là sao khó hình thành bố cục thành tựu, bố cục Sát tác họa lớn khó chế hóa. Do đó mệnh cách có Linh Tinh luận phức tạp hơn Hỏa Tinh. Đặc biệt các bố cục Linh Hình Việt, Linh Kỵ, Tham Linh Xương cần cẩn trọng khi xét giao hội ý nghĩ tổ hợp tránh định cách sai với bố cục thành tựu hoạch phát của sao này. Tính chất của Tứ Sát gồm Kình Đà Hỏa Linh tác động mạnh tới bản tính. 

Sunday, May 20, 2018

Hỏa Tinh luận mệnh cách giao hội



Lưu ý khi Hỏa Tinh nhập mệnh khác với tam hợp chiếu ở tính chất tác động thường trực, ý nghĩa bố cục cũng khác nhau.  Hỏa Tinh thuộc một trong Lục Sát Tinh, được luận ở tính dương hỏa, chủ nóng nảy, nhiệt huyết và sát phạt. Hỏa Tinh có tính chất dương hỏa khi xét tính chất cơ bản, khi giao hội biến hóa do phối hợp với Chính Tinh hay bàng tinh. Tính chất của Hỏa Tinh nhập mệnh không phải là bố cục tốt, nhập cung độ Tài Bạch hay Quan Lộc tốt hơn khi tại mệnh cung. Hỏa Tinh hợp bố cục Sát cách đắc dụng, bất hợp với cách cục ổn định. Hỏa Tinh và Linh Tinh là hai sát tinh có tính chất trái nghịch, xét ngũ hành dương hỏa và âm kim. Linh Tinh thâm trầm, Hỏa Tinh thường bộc phát. Mệnh cách thành tựu khi khí hình gốc thấp cần thiết thành cách với hai sao này. Hỏa Tinh giao hội với Chính Tinh phân khuynh hướng Tài Cách và Quan Cách mang ý nghĩa dụng khác nhau. Đứng đầu đồng độ với Tham Lang hình thành cách cục tham muốn giàu có. Tuy nhiên Tham Hỏa đồng độ chưa được luận là cách cục phát phú. Bố cục này cần đắc vòng Lộc Tồn bất luận cách cục đều là mệnh phát phú. Thêm Kỵ Khốc là mệnh quý khí, bất kể khí hình gốc thấp tạo thành tựu rất lớn, nếu có thêm Sinh Vượng hay Tam Hóa ắt phú gia địch quốc. Rất nhiều mệnh cách thành tựu Bạch thủ hưng gia do bố cục này, đặc biệt cách cục Tham Hỏa Kỵ Khốc Mã có Hình Ấn là cách cục đặc biệt phát phú và quý. Hỏa Kỵ tối hỉ Lộc Tồn, đặc biệt khi Hỏa Tinh hội họp Sát cách cần Lộc Tồn bởi trong vòng Lộc Tồn có sap Tướng Quân rất quan trọng. Khiến Hỏa Kỵ không hình thành cách bị trừ bỏ do khí sát. Tồn Tướng Ấn mang lợi ích riêng của Tham có Đồng nhị hợp khi thực hiện Sát do đó không bị Sát phản hóa tác họa. 



Trong bố cục Tham Hỏa Kỵ Khốc ngộ Lộc Tướng Ấn hình thành rất nhiều cách cục tốt đẹp, chế hóa Sát cách. Thứ nhất bởi lợi ích nhóm trong tranh đoạt. Thứ bởi tham muốn phát phú, sức nỗ lực định hướng tham vọng. Bố cục này cũng mang ý nghĩa được quý trọng, nghĩa khí đặc biệt khi có thêm Thiên Hình thành cách Binh Hình Tướng Ấn. Do Sát cách được hóa nên khí hình gốc bất luận là cách cục thượng cách. Tuy nhiên ở cách cục này vẫn tang hung hiểm, do Sát cách mang tính hai mặt. Trong trường hợp Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham luận khác, bố cục này cần cát hóa bởi Tam Hóa và Tả Hữu với cát tinh mới có thể thành tựu. Nghiệm lý cách cục Tham Hỏa Kỵ theo Quan Cách và Tài Cách đều có thể thành tựu, thăng trầm đột biến, khi phản hóa tuyệt khí nhập vận suy nếu mệnh cách không đắc vòng Trường Sinh thì vong mạng. Nếu theo Tài Cách hóa Quyền bất triệt để nên không nguy hiểm tới bản mệnh. Thứ tới Tham Hỏa gia Sát nếu không có vòng Lộc Tồn cần Khoa Tả Hữu, Phượng Khốc hay Xương Khúc có thể thành tựu. Tính chất Tham Lang nhị hợp với Thiên Đồng là tính chất rất quan trọng do Cơ Nguyệt Đồng Lương có Tình, Tham Lang trong Sát Phá Tham có tham vọng, cũng hàm chứa Sát cách lớn. Hỏa Tinh khi giao hội với Kình Dương rất cẩn trọng, khi đó không gặp vòng Lộc Tồn. Trong các nhóm sao an theo Thiên Can chính gồm Kình Hao, Đà Hao, Lộc Tướng Ấn và Thanh Phi Phục. Bố cục Hỏa Kình không mấy hay, cần hóa dương cách của bố cục này, đặc biệt nếu có Kình Hình Kỵ là bố cục mang ý nghĩa tạo tai họa do tính tham của bản thân, cần Khoa hay Xương Khúc tại đây. Thường các sách luận Hỏa Tinh đắc địa từ Dần cung tới Ngọ cung. Tuy nhiên việc đắc này không quan trọng bằng việc giao hội của Hỏa Tinh với Chính Tinh hay các Bàng Tinh khác. Chỉ xét phối hợp cách của sao này đã rất phức tạp, các vị trí đứng đắc địa không tác động lớn tới ý nghĩa cách cục. 




Hỏa Tinh có tính chất quyết đoán, tính tham vọng và thực hiện ý định. Một mệnh cách tốt của tử vi không hẳn phải thiện, kẻ gian hay ác cũng có một ký tưởng của bản thân, cuộc đời. Do đó mệnh thành tựu không xét ở tính chất này mà ở kết quả sự nghiệp. Trong bối cảnh xấu thời loạn, nhất tướng công thành vạn cốt khô. có nhiều trận chiến mang tính vô nhân, sát hại dân thường vì mục đích đe dọa, trấn áp hay thực hiện kế sách, do chiến loạn là Sát nên khi luận với cách cục đặc biệt bố cục Lục Sát luận về tính hợp và bất hợp. Cách cục Hỏa Kỵ là cách cục mạng của Hỏa Tinh, mang tính sát phạt nhưng thành tựu được do chủ động, tiến không thoái. Trong tử vi Hóa Kỵ là hóa khí trợ tinh tác họa lớn nhất khi phối hợp Sát tinh mang ý nghĩa âm ám, sát phạt, xung đột. Tuy nhiên Hóa Kỵ cũng chính là hóa khí tạo nên đột phá phát triển theo hướng mới sau xung đột, bế tắc. Nếu không có bế tắc thì không có hanh thông, bĩ thái là nguyên lý của Dịch cũng là nguyên tắc của vạn vật. Nhìn nhận đúng cách cục Hỏa Kỵ thì không bỏ qua nhiều mệnh cách bạo phát đại phú. Nhìn nhận sai về Tam Hóa, Khôi Việt, Tả Hữu, Xương Khúc vô tình nhiều mệnh tầm thường trở thành quý cách. Tất cả các thành tựu đều qua thăng trầm. Thăng trầm biến đổi là lẽ công bằng, tất cả đều phải chịu tác động. Với Sát cách, vạn kẻ phải tai họa thì được một mệnh đắc cách chế hóa được Sát cách. Với các bố cục cát tinh, vạn kẻ được an ổn, tuy nhiên kẻ thành tựu thường không nhiều. Tất cả các Chính Tinh, Cát Tinh hay Sát Tinh đều là sao. Thường do quy luật sinh diệt nên đa phần người luận nhìn cái ổn định   tốt hơn thăng trầm thịnh suy. Mệnh có Hỏa Tinh hay trong bố cục tam hợp mệnh thì nội tâm thường khó ổn định, Các Sát cách đều định chế hóa bởi lý tưởng xây dựng của bản thân, tức mục đích. Tham muốn lợi ích nhỏ mang tính tranh đoạt vì tư lợi, hưởng thụ, là khí hình thấp. Lý tưởng về đường lối lớn, quan điểm của bản thân đúng với lối đi. Vạn vật khởi tạo, chuyển biến đều nguyên do. Vì lợi ích của Nhật nên biến đất nước thành đế quốc, xâm lược tài nguyên các quốc gia khác. Gây nên thảm sát Nam Kinh. Phát xít Đức do Hitle thảm sát 6 triệu người Do Thái đều xuất phát từ các nguyên do. Trong đó có khoảng 1 triệu trẻ em cũng bị sát hại. Kẻ trong cuộc thường do những lợi ích bên trong khó nhìn thấu hơn bên ngoài đánh giá. Hỏa Tinh thường nhầm lẫn do tính chất nóng nảy, chủ quan. 

Friday, May 18, 2018

Vũ Tham cách phát phú



Lá số nam mệnh Vũ Tham đắc vòng Trường Sinh và vòng Lộc Tồn. Khí hình gốc thấp, khuynh hướng Tài Cách ứng hợp mà thành tựu trong khó khăn bế tắc lớn. Mệnh cách Vũ Tham ngộ Lưỡng Lộc có Đào Tướng, bản cung Mệnh có Vũ Tham Hóa Lộc, cung an THÂN ở Quan Lộc với Tử Sát Lưỡng Lộc ở vị trí Lộc Tồn. Tài cách vượng, Đào Hoa cách bị chế hóa ứng hợp về Tài Cách, dù mệnh không có Tam Hóa Xương Khúc Tả Hữu nhưng hoạch phát là do vậy. Nếu khuynh hướng Đào Hoa Cách thì bất dụng, phá cách. Năm Giáp Ngọ nợ tiền lớn do bài bạc, gặp bế tắc. Sau đó nỗ lực, năm Đinh Dậu ứng khí hình cực vượng, Tài cách nhập đại tiểu vận trùng phùng Tướng Binh Bật Không Kiếp hoạch phát hoạch phá, phát phú cách, đương số từ bế tắc phát tài. Khí hình vận vượng, tham vọng về Tài rất lớn, đương số 30 tuổi. Đại vận hành qua mỗi lá số gồm 12 cung vận ứng với tối đa số tuổi là 125. Tuy nhiên thực chất đến cung độ Thiên Di nhìn lại đối cung là Mệnh thì biết được mệnh trời. Các cung độ trên lá số tử vi đều quan trọng, tất cả các sao đều là của bản thân ta do vận hành. Phân làm 4 nhóm sao chính Tử Phủ Vũ Tưởng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật. Các nhóm sao này đặc trưng cho các mặt tính cách biệt của mỗi tư tưởng bản tính, cũng biểu hiện qua xã hội xung quanh qua tư tưởng của bản thân dẫn tới các hành động theo các hướng. Như một bức tranh, kẻ chú ý cái này, kẻ chú ý nơi khác, người khen kẻ chê là sự nhìn nhận qua mệnh cách với xã hội bên ngoài. Các cơ hội thành tựu cũng vậy, người vận bạo phát tài danh thì nhìn ra. Kẻ nhập vận xấu thì đa phần chiêu cảm nguy cơ. Sự chiêu cảm tác động rất mạnh ứng hợp các bố cục như Sát cách tác họa gây ra tai kiếp, nặng có thể nguy hiểm vong mạng. Trong khi mệnh Tử Vi nhìn xã hội bởi đường lối, sự nhóm họp những ngoài xung quanh bởi lý tưởng của bản thân, ưa việc gánh vác, xây dựng đường lối. Thiên Cơ nhìn xã hội ở mặt lợi ích và cơ hội để thu lợi ích về, khác với cách nhìn của Tử Vi. Xã hội mỗi mệnh tạo khác nhau hướng tới khuynh hướng bản tính khác nhau và thành tựu hay thất bại cũng khác nhau về khả năng. Ở đây điểm đại vận đầu tiên ở ngay chính cung Mệnh chính là nét vẽ phác họa cuộc đời, xuyên suốt ảnh hưởng từ đầu tới cuối. Khó có thể thay đổi bản tính của chính ta, do bản tính phát khởi trong tiềm thức. Tuy nhiên có thể khiến bản tính hướng theo chiều hướng tốt. Bản tính của Cự Môn là lời nói, cự cãi, mang tính ám. Khi hóa Quyền cách là sự quyền uy khiến được sự nể trọng. Bản tính của Cự Môn vẫn là ngôi sao ngôn ngữ, miệng lưỡi. 



Bố cục này cũng vậy. Mệnh cách đại vận Vũ Tham thuộc Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham là đại vận đầu tiên. Khó khăn và những việc không ngờ mà thất vọng là ý nghĩa toàn bộ cách cục này. Khi tốt lại mang ý nghĩa bản thân mệnh tạo có Sát tính và mâu thuẫn trong suy nghĩ tìm ra hướng giải quyết tốt nhất cho khó khăn. Sát lực lớn. Ở đời muốn thành tựu từ khó khăn đi lên người viết chưa gặp trường hợp không được Sát cách hợp hóa hữu tình mà thành tựu. Vũ Tham có tính chất mạnh, cách Vũ Tham Việt có điểm mạnh phát sinh lòng tham với tiền bạc, tài chính. Giao hội Song Lộc đặc biệt Lộc Tồn rất có giá trị tại đây hình thành cách cục luôn cảm thấy bất mãn trong nội tâm, chính là tích lũy khí đương vượng mà có thể thành công. Cổ nhân luận vòng Lộc Tồn là vòng Thiên Can rất quan trọng do biểu thị của đương khí, khả năng vượt qua khó khăn, liên tục, bám nắm với mục tiêu nên là vòng sao dễ thành tựu sự nghiệp. Cách cục này Vũ Tham thuộc tài, lại có Lưỡng Lộc là cách cục tốt, thêm Đào Quả nhận được kết quả xứng với mỗi khi bản thân nỗ lực, cố gắng. Tất nhiên phân loại thì ở đây tổ hợp ở mức tương đối tốt. Bố cục nếu giao hội thêm các sao tới mức hoàn chỉnh. Nếu có Hỏa Tinh đồng độ là hơn một mức, tham vọng về tài cách trở nên thường trực, cháy bỏng. Do Tham Hỏa Tồn là cách cục rất mạnh. Thứ đến,  Triệt thay bằng Tuần cách cục tham muốn trở nên vững chắc với kế hoạch, thêm sự cẩn trọng lớn và tăng mạnh tính tác dụng của Vũ Song Lộc. Nếu thêm Tả Hữu trong khi đắc hai vòng Lộc Tồn và vòng Trường Sinh là mệnh thuộc địa vị đứng đầu của quốc gia. Vì Sát cách hình thành tại đây nhưng hữu lực vô hướng. Ở đây bản cung mệnh cho một tham vọng rất tốt thường trực trong nội tâm. 



Cũng cách cục này mang ý nghĩa phương pháp giải quyết công việc và vạch ra kế hoạch cụ thể. Vũ Tham tốt bởi khả năng linh hoạt, tùy biến. Tuy nhiên ở đây ngộ Tồn Tướng Ấn tức khuynh hướng ổn định, không biến động thích nghi như việc giao hội với Kình Đà Hao hay Thanh Phi Phục. Đường lối lý tưởng chính là cách Tử Sát ngộ Lộc Tồn. Ở đây lý tưởng của Tử Vi ít dụng tình cảm, sự trung thành của kẻ phò tá mà chủ dụng tính chất Sát mạnh của Thất Sát. Bố cục này với Vũ Tham chịu tác động đường lối của Tử Sát thuộc cách hành động nhanh mạnh để sớm đạt mục đích. Định hướng như vậy phù hợp với Vũ Tham. Đại vận đầu tiên qua cung độ mệnh như vậy hình thành cá tính tham vọng lớn báo hiệu cho thành tựu lớn hoặc thất bại lớn ở các vận sau. Nam mệnh với cung an Thân tại Tử Sát như vậy hợp với tính quyết đoán, chớp thời cơ. Lưu ý bố cục này nếu ưa sự tích lũy dần phát triển, hoặc gây dựng một thời gian dài chỉ khiến nội tâm càng dễ tạo nên sai lầm. Ở đây nếu dụng Lưỡng Lộc là sự cẩn trọng, sẵn sàng bỏ qua các cơ hội không chắc chắn để quyết đoán thực hiện thời vận dù lớn hay nhỏ. Vũ Tham có khả năng dự đoán, mưu tính rất tốt, đặc biệt khi có Song Lộc có Việt thường các sách luận chuyên quyền. Do thực chất bố cục Song Lộc ngộ Vũ Tham là sự suy xét lợi ích trước sau. Nếu bố cục Song Lộc đi với các cách cục đều khiến tăng vượng bố cục chính tinh nhờ sự nghiên cứu sâu trong bản chất và lợi ích. Do tính thời cơ đủ nên Sát cách có thể dụng tuy có khuyết điểm bởi khả năng cát hóa do sự quyền biến chưa thực khả dụng để nắm bắt và tạo ra thời cơ. Các bố cục cần thiết khi nhập đại vận bổ trợ sẽ thành cách. Rất lưu ý điểm tốt ban đầu là cung an Thân nhập vượng Tử Sát Tồn Sinh Vượng bất phá cách. Lý tưởng định hướng công phá, nắm vững thời cơ để chủ động quyết định. Mệnh cách có tính tùy biến linh hoạt chưa thực sự lớn, dễ đưa ra quyết định sai khi ổn định và chỉ đúng khi bản thân rơi vào thế khó khăn, bế tắc khiến nam mệnh phải tự định đoạt. Nếu nghiên cứu sách, hay nghiên cứu các sách về quân sự, các chiến thuật đánh trận và chắc chắn việc này sẽ cát hóa rất lớn bố cục này vì thế chiến trận chính là Sát Phá Tham giao hội Tử Vũ Liêm. Trong đó sẽ mô tả một trận chiến bởi toàn cách cục. Khi cơ hội và việc chiếm ưu thế quyết định đánh sẽ khiến kẻ yếu đánh thắng kẻ mạnh gấp mười. Một lần đầu tư là một trận đánh. Một lần chắc chắn có giá trị hơn nhiều lần quyết định khi vẫn còn khả năng thất bại. Người viết sẽ luận sâu vào các đại vận hiện tại và vận sau do ba vận liên tiếp mang ý nghĩa khá hay. 


Vũ Tham cách qua vận đầu tiên tại cung Mệnh nhập đại vận thứ hai bản cung độ Cự Nhật ngộ Mã Khốc Khách Đại giao hội Kình Tang Phượng có Hỏa Linh. Bản cung xuất hiện cách cục Cự Nhật Mã Tuyệt, bố cục này nhập đại vận thứ hai là cách cục hay với Vũ Tham. Cự Nhật cư Dần có tính chất hướng lên, dương lên, chủ tính chất khai sáng lớn. Cách cục này cũng mang ý nghĩa vươn lên, với tham vọng của Vũ Tham nhập vận Hỏa Linh. Mã Tuyệt là điểm yếu của bố cục này khi giao hội với Cự Nhật hình thành thế bế tắc, phản kháng. Cái tốt ở đây là bố cục Kình Hao Phượng Khốc có tính quyết liệt thay đổi. Từ đó, Vũ Tham nhập tới cung vận thứ hai đạt được sự linh hoạt biến đổi trước bế tắc và có sự ngưỡng mộ đắc danh. Đại vận này rất có giá trị khiến cách cục Vũ Tham có thể thành tựu sớm hơn. Cự Nhật phát khởi lòng tham muốn của Tham Tuần, với cách Mã Khốc Khách chủ táo bạo trong suy nghĩ tham vọng của bản thân. Cự Nhật dương lên bởi Kình, chủ động là Cự Kình. Cự Nhật còn là chuyên môn, khả năng nghiên cứu sâu vấn đề. Đại vận này kiến thức, kinh nghiệm, bản lĩnh mang ý nghĩa tốt trước khi nhập vận Tướng Không Kiếp. Sự khó khăn là bất mãn, ưa hướng đi mới khiến nam mệnh xuất hiện các tư tưởng khác xây dựng sự nghiệp. Nhìn chung vận Cự Nhật mang ý nghĩa tốt cho Vũ Tham phát triển, cách Kình Phượng tiến lên phía trước vượt qua khó khăn. Chỉ khuyết điểm bởi khí vận không mạnh mà ở vị trí Suy Tuyệt khiến cách cục chưa thể bạo phát về Tài cách ngay vận này, những tư tưởng tham vọng và hướng đi chưa thực sự táo bạo, lớn như ở vận sau. Đại vận thứ hai nếu theo Văn cách thì hợp trợ cách, lấy Tài cách trợ lực dẫn khí tham muốn cho Văn Cách. Nếu vận này ưa việc phát tài thì khó khăn vì chưa đủ khí lực và khí đang suy tức khó khăn trùng trùng, Cự Nhật Kình Hỏa là nông nổi, hay gặp trong bố cục " Cự Hỏa Kình Dương gia Sát chung thân ải tử". Ở đây Cự Linh Xương có Hỏa Kình dễ nghe lời không đúng nông nổi gặp sai lầm. Vũ Tham cách có đặc điểm rất dễ sai lầm do tham muốn khi trẻ, may mắn khi cung an Thân tại Tử Sát Tồn tính ổn định khá tốt khiến những sai lầm không tới mức độ nguy hiểm tính mạng do lý tưởng sống vẫn còn, Tử Sát không giao hội với Không Vong thì còn vững, mặc dù trong bối cảnh khó khăn, bế tắc. 


Qua vận Cự Nhật nhập tới cung vận Thiên Tướng ngộ Kiếp Không Phụ Bật Khôi Khoa. Đây là sự khác biệt của Sát cách được chế hóa thành tựu chỉ với Khoa Phụ Bật nhưng cát hóa lớn hơn rất nhiều cách cục toàn cát tinh giao hội. Nếu ở đây không gặp Không Kiếp thì bố cục chỉ luận bình thường. Phàm vạn vật khi an ổn thì khó được đột biến, khi lâm vào thế cùng, khó khăn lại tạo lực kích phát với thành tựu rất lớn. Ở đây bố cục Thiên Tướng độc tọa đơn thủ trong nhóm Phủ Tướng không có Tử Vũ Liêm để hoàn chỉnh nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm xấu vì lâm vào thế bất ổn, khó khăn do không gặp đường lối tổ chức. Với Vũ Tham và cung an Thân là Tử Sát nhập cách cục này nên tư tưởng đường lối do bản thân ta làm chủ, vì vậy thực chất là giao hội đủ cách Tử Phủ Vũ Tướng Liêm. Với Thiên Tướng ngộ Không Kiếp Phụ Bật tính chất hoạch phát lớn. Tuy nhiên. Đây là hoạch phát hoạch phá nên rất cẩn trọng. Đại vận này sẽ là những thăng trầm, do đó phải biết giữ trung dung. Khi thăng ắt sẽ gặp khó ngay tức thì và khi trầm sẽ có việc đột biến bất ngờ đạt được. Đây là cách thường gặp trong bố cục của Tướng Không Kiếp Phụ Bật. Cái để Thiên Tướng thực sự dụng được bố cục này là không ngừng tiến lẻn, không lơ là bất cứ một thời điểm khi dụng cách. Cách cục Phủ Tường tại đây sẽ phần lớn không do nhân chủ định mà do sự bộc phát tạo ra thành tựu và thất bại. Cách cục vận này không phải là vận thành tựu, mà là vận biến động mạnh. Phủ Tướng tốt khi lấy Phủ chế Tướng, trong thế Thanh Phi Phục. Kiếp tại vị trí Thiên Di ngộ Thanh Long. Do đó tính cát hóa của Thanh Long với Thiên Phủ giảm. Điều này dễ dẫn tới sự sai lầm khi tính toán, quản lý. Cũng với bố cục này, tiền bạc chủ Thiên Phủ quản lý nếu ổn định thì ắt bị hao hụt lớn qua các công việc. Nếu sử dụng luân chuyển thì có được mất nhưng Phủ Tướng có lợi ích hơn việc Phủ phá. Cách cục này có chế hóa hữu tình do Thiên Tướng ngộ Hữu Bật và Thiên Phủ đồng độ Tả Phụ lại gặp Hóa Khoa của Hữu Bật. Ở đây Tướng Bật là võ cách, Tả Phụ thuộc văn cách. Tuy cách cục không đầy đủ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm hoàn chỉnh tổ chức, mang ý nghĩa người quản lý và nắm quyền trong tổ chức. Do không có Tử Vũ Liêm nên bản thân tự gây dựng quyền cho chính ta. Tử Vũ Liêm hay vì đưa ra con đường cho bản thân, lý tưởng đường đi, giải pháp và có tính bạo lực, quyết tâm với chí hướng. Mệnh Thân trợ cách cho đại vận Thiên Tướng rất lớn. Khi mục tiêu và hành động thống nhất khi sẽ có thành tựu từ nỗ lực. Đại vận này đã qua được hơn một nửa. Năm Mậu Thất tức năm 2018 nhập tiểu vận Cơ Lương trong bố cục Cơ Nguyệt Đồng Lương ngộ Diêu Đà Kỵ ngộ Hình Khúc Thương Sứ. Đây là cách cục không mấy hay. Bố cục Cơ Nguyệt Đồng Lương chủ sự hạnh phúc, an ổn gia đình. Tuy nhiên, ở đây cách cục Cơ Lương ngộ Tam Ám lại có Khúc Sứ Hình mang ý nghĩa ngày tháng đen tối, khổ cực trong nội tâm. Bố cục Cơ Nguyệt Đồng Lương mang ý nghĩa yên ổn, hạnh phúc nay mang ý nghĩa không may, dễ thất cơ lỡ vận. Trong bố cục này còn có thể gặp phải chuyện đau buồn, chia ly trong năm. May ở đây không có Phượng Khốc nhưng bố cục này vẫn bất lợi cho Thái Âm tức nữ giới trong nhà. Trong năm này, nhiều cơ hội tới và thời vận tuy nhiên những việc ấy thường là những nguy cơ thất bại lớn. Sát cách này có thể chế hóa nhưng khả năng thất bại lớn. Bố cục Cơ Nguyệt Đồng Lương còn là tình cảm gia đình, ở đây luôn có Tam Ám tức ba sao Diêu Đà Kỵ tạo nên sự đen tối. Trong khi đó gốc Đại Vận là Tướng ngộ Không Kiếp nếu năm này có khởi tạo hay đầu tư thì mất nhiều hơn được. Bố cục Cơ Lương rất thôi thúc bởi thời cơ tới nhưng đây thực là nguy cơ. Vũ Tham đa tài nhưng mắc bởi chữ tham vọng và khả năng chế hóa thất thường Sát cách của Tướng Không Kiếp. Tiểu Vận này không nên động, quẻ thời bĩ nếu động ắt dễ gặp nguy khốn. Tiểu vận năm Kỷ Hợi tức năm 2019 tốt hơn. Bố cục Tử Sát Tồn Sinh trong bố cục Lưỡng Lộc, gốc đại vận là Tướng Không Kiếp mang ý nghĩa khá hay. Năm này Sát cách đắc ý, tức Tử Sát may có Thất Sát hóa hợp với Tướng Không Kiếp mà thành bè đảng, Sát cách tương hợp, trong cái quyết đoán, cương cường chớp thời cơ mà đạt được lợi ích của Tài cách. Năm này là năm phát tài, nếu mở rộng, đứng đầu khởi tạo sự nghiệp, gánh vác trách nhiệm thì năm này là năm tốt, được cả tài lẫn danh. Tính thăng trầm bất ổn của Tướng hóa bởi Sát Phá Tham. Trong năm này xuất hiện bế tắc, tuy nhiên cách cục mạnh hóa khó khăn thành kích phát. Vũ Tham đều hóa Quyền Lộc tiểu vận trùng phùng mệnh, năm này ắt có dấu ấn để lại. Tuy không phải đại cát nhưng là năm tốt để tiến hành tạo dựng. Tiểu vận năm Canh Tí tức năm 2020 nhập cách VCD nội Cự Nhật, ngoại là Đồng Âm. Bố cục Cự Nhật giao hội Kình Tang Phượng có Mã Khốc Khách. Bố cục này càng động càng có lợi. Cự Nhật có Kình Mã Phượng là hướng lên, dương lên phát triển. Cách cục này có Lưu Lộc nên mang ý nghĩa tốt, tiểu vận năm này hợp với Tướng Không Kiếp, luận tốt cho Tài Danh. 


Qua đại vận Thiên Tướng độc tọa nhập vận tiếp theo với cách cục Cơ Nguyệt Đồng Lương. Cơ Lương nhập Thìn cung ngộ Tuế Đà Kỵ Hình tại bản cung, giao hội Hổ Quyền Khúc Triệt tại cung độ Đồng Âm. Bố cục này mang ý nghĩa Sát vượng, cách cục tác hóa rất mạnh. Cơ Lương nhập Thìn cung đắc ý, tuy nhiên bản cung lại là Kỵ Hình trong bộ Tam Ám đầy đủ, do đó Thiên La trong bộ La Võng có khuynh hướng gây họa hơn tạo phúc. Cơ Lương khó có thể chế hóa được Sát cách tạo bởi Tam Ám và Hình Kỵ Tuế do tính chất của Thiên Lương. Sao Thiên Lương trong bộ Âm Lương rất kỵ ngộ Tam Ám, chủ ngày tháng vất vả, khó khăn, tối tăm. Trong trường hợp này có Quyền Tinh nhưng trong cách cục Quyền Hình hội Sát Kỵ mang lại nhiều họa hơn phúc. Bố cục Cơ Lương này có thể chế hóa một phần nhưng khó toàn diện. Toàn cục đại vận này mang ý nghĩa rủi ro, cái bẫy giăng trước với những sai lầm trong tính toán thời cơ, bố cục này còn tăng thêm bởi Hình trong cách Hình Kỵ tức việc sai lầm, sai sót tới từ tính toán của bản thân. Nếu chỉ Thiên Cơ độc tọa trong cách đã có khó khăn, nay thêm Thiên Lương lại càng dễ gặp sai lầm. Vận này dụng Cơ bất dụng Lương. Với Thiên Lương là may mắn, chủ được thời vận nay thành nguy cơ. Buộc hóa cách cục Tam Ám Kỵ Hình thành sự thâm hiểm, mưu toán sâu trong nội tâm khi làm việc mới có thể dụng được bố cục này. Trong vận này Sát cách vượng nên sẽ cần cẩn trọng một số tiểu vận quyết định cách tác họa có thể gặp họa tới tính mạng vì Xương Khúc Thương Sứ là cách Quế Sứ Hoa Thương tối hiềm giao hội, lại kiến Sát cách. Lá số Vũ Tham luận tốt không phải do mệnh cách tốt, mà chính ở yếu tố vận đều thuộc bố cục Sát cương gặp chế. Ở đại vận này thì có khó khăn hơn. Nam mệnh buộc vận này phải hướng tới tư tưởng bày âm mưu, âm kế mang tính chất sâu để giành được lợi ích khi cạnh tranh. Tuy nhiên lưu ý tránh việc liên quan tới phạm pháp, hay gây hại do Hình Kỵ Quan Phủ có Lưỡng La sẽ tạo tai họa sạp đến khi tác hóa sai. Trong vận này như một việc này mưu thế cờ. Trong tâm luôn âm thầm tính toán nhiều bước đi, rà soát cẩn trọng, dụng âm mưu, lại hướng tới nghiên cứu các môn toán số, như Dịch Lý hay Kỳ Môn tức hướng tới cái âm huyền bí của Kỵ Cơ mà phá được cách La Võng thì vượt qua dễ dàng. Bằng nếu xuất hiện sự nôn nóng, chóng đạt được thành tựu, ra quyết định không bày cơ mưu sâu sắc thì Sát cách hóa bố cục ứng hợp cái bẫy là cho bản thân ta. Lúc đó hình thành cách cục lâm vào thế bí, đường cùng làm lại rất khó, khí hình đã suy mất nhiều cơ hội của cuộc đời, lại Sát cách hóa được thì mang lại thành tựu lớn tức được 2 lần, nếu thất bại thì lại từ số không tự bố cục thử thách thất bại khiến nhiều lá số mệnh quý cuộc đời thăng trầm không thành tựu chữ danh và lợi. Đại vận Cơ Lương, nếu trong vận có tiểu vận năm Sửu Tuất thì đây là hai năm cẩn trọng hơn với tất cả mưu tính, cơ hội. Đại vận này luôn khiến bản thân nắm thế chủ động, tức khiến Lưỡng Đà không được hóa nguyên cục thành cái bẫy tác họa. Năm Sửu là năm đầu tiên của đại vận nên chú trọng hơn. Nhìn chung cần rõ Cơ Lương là chủ tinh, ý nghĩa cơ bản của dịch biến bởi giao hội tổ hợp bàng tinh. Cơ Lương nhập vận với mệnh Vũ Tham họa phúc, thành bại đều liên quan tới cách dụng thời cơ, thời điểm và may mắn tới. Ở đây ý nghĩa đại vận khi phối hợp toàn cách cục báo hiệu sự cản trở, nguy cơ rất lớn, đề phòng. Tuy nhiên Cơ Lương vận này lại đủ khí của Sát, nếu hỏa luyện được kim thành hữu dụng tức cuộc đời làm nên đại nghiệp, nếu thất bại thì tuy không tuyệt đường nhưng sẽ mất nhiều công sức gây dựng lại. Tới vận sau Tử Sát khí hình vận trước không mạnh thì thành tựu không lớn. Thầy luận tóm lược, không dài dòng trợ cách rất quan trọng, tới khi nhập vận tới đọc lại khắc rõ nên ứng hóa với tình thế. Đại vận này là đề phòng trước các cơ hội, biến hóa tâm thành cơ mưu tính toán sâu xa, âm cách vượng thì thành hơn bại. Vận này cũng rất chú trọng tới sức khỏe, các bệnh âm thầm trong cơ thể dễ tác họa. Trong tình cảm gia đình cũng sẽ có sóng gió, do đó nên tùy cơ ứng biến trước, chủ vận này hoàn cảnh, thời vận mang tới không phải bản thân. Tuy nhiên tới vận sau chính là bản thân ta. 



Nhập vận Tử Sát từ 44 tới 53. Đại vận này nhập cung Quan Lộc với cách Tử Sát Tồn Sinh giao hội Đào Lộc hình thành cách cục Lưỡng Lộc ngộ Trường Sinh. Đại vận trước phải lo lắng về sức khỏe thì vận này vấn đề này rất tốt. Nội tâm cũng có khí thế rất mạnh. Cách cục Tử Sát cần Quyền tinh để luận phản tác tinh tường, tuy nhiên có Lưỡng Lộc chủ quyền biến có khuyết điểm nhỏ nhưng vẫn là cách cục có lợi cho tài danh. Đại vận này ổn định khó biến động mạnh bởi những cơ hội như vận Cơ Lương. Lưỡng Lộc có tác dụng ổn định tất cả bố cục, ngay cả cách cục VCD ngộ Tam Không là cách cục biến động rất mạnh. Ở đây Tử Sát cư cung an Thân tức Thân và Vận nhập bố cục này. Nếu Sát cách vận trước được hóa cục bởi trợ cách thì đại vận này thân phận ta, bản thân ta có quyền định đoạt tới xã hội. Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham đắc cách mang ý nghĩa đứng trên xã hội. Tuy nhiên với cách cục này luôn gặp khổ trong nội tâm, cũng xung đột trong hoàn cảnh, tạo nên khó khăn, bế tắc cần phải giải quyết. Vũ Tham nhập vận Lưỡng Lộc có Sát là cách cục hoạch phát về tài cách. Đại vận này là đại vận khá tốt giúp ổn định về cách cục trước biến động của đại vận trước. Do đó Sát cách được bình ổn thì tạo nên lực hoạch phát, lại có Thất Sát tại bản cung vận khá hay. Nếu qua tiểu vận năm Tí và năm Dậu đều là hai năm tạo nên thành tựu tốt. Trong vận này thì tình cảm gia đình cũng sẽ gặp bất hòa. Tử Sát nắm quyền định đoạt số phận chính là làm chủ bản thân. Bố cục này hoàn toàn khác với câu phú Thất Sát lâm Thân chung thị yểu. Một điểm khuyết thiếu bởi bố cục này không gặp trợ cách tổ hợp cung trọng điểm cát hóa mà chỉ gặp Lưỡng Lộc có Đào nhập cách. Do đó mệnh tạo cần dụng Thất Sát ở thể tính hành động và Tử Vi ở đường lối. Định hướng bản thân tới tham vọng lớn, và thực hiện tham vọng kế hoạch bởi Thất Sát là ứng cách. 



Qua vận Tử Sát tức hơn nửa cuộc đời. Ngũ thập tri thiên mệnh, kẻ tới tuổi ấy thì tự biết được số mệnh của bản thân do thiên định. Từ đó thì các bố cục đã được dụng tất cả, chế hóa ứng hợp theo mức độ khác nhau mà do bản thân lựa chọn với hoàn cảnh về sau. Do đó tử vi đông a luận cách cục không xác định chế hóa Sát với vận sau. 

Monday, May 14, 2018

Luận đại vận cách nữ mệnh Cự Môn độc tọa



Đại vận đầu tiên nhập cung Mệnh, cũng là vận hình thành tính cách từ nguyên cục. Do đó có tác động rất lớn tới các cung vận sau này. Là chỗ xuất tiến của khí nên luận là Mệnh. Bản cung mang Chính Tinh tọa mệnh tức cuộc đời sẽ xoay quanh hoàn toàn tính chất của Chính Tinh này, kết hợp với cung an Thân và biến hóa tính chất dựa vào các vận. Bẩm sinh người đều tồn tại tất cả Chính Tinh mang ý nghĩa đặc trưng khác nhau. Tuy nhiên Chính Tinh nhập bản mệnh là sự trọng tâm của cái thấy, gọi là tâm mệnh. Ở đây bố cục Mệnh và Thân đồng độ, tức chuyên chính luận Mệnh Thân ứng hợp. Cự Môn nhập Mệnh Thân, đây là một trong các sao đứng đầu, thuộc nhóm Cự Nhật. Hình thành bố cục Cự Nhật khi hoàn chỉnh, khi giao hội các nhóm sao thì sinh ra cách cục Cự Cơ Đồng. Ở đây Thái Dương cư Tí nhập hãm. Bố cục Cự Nhật đã luận ở phần Tổng Quan Mệnh, phầm luận đại vận xét cách cục liên quan tới khí hình gốc để dẫn tới tính chất biến hóa các vận sau. Cự Môn nhập vận đầu tiên chủ nữ mệnh có tính cương cường, có Quyền Tướng Khúc giao hội Tồn Ấn nhập vòng Trường Sinh. Tuy nhiên Cự nhập La Võng lại ở vị trí Mộ tính chất bất cát, chủ có khuyết điểm. Sát cách không gặp nên có phần ổn định hơn. Tuy nhiên Cự Nhật ngộ Tồn Tướng Ấn thì phân thành hai khuynh hướng. Với Khúc Tướng Cự nếu có khuynh hướng tình cảm thì Cự không chế hóa được Sát, do bố cục này không gặp Lục Sát Kỵ Hình nên Cự Quyền khá tốt, chủ có uy tín, lấy khả năng chuyên môn thành uy tín. Tuy nhiên vận này không có Sát cách để bộc phát, cũng không có trợ tinh mạnh hình thành cung trọng điểm cát hóa. Do đó không có nét nổi bật, khí hình gốc khá thấp. Đặc biệt với nữ mệnh cách dụng Cự Nhật không đắc dụng như nam giới. 




Thái Dương nhập cung Tí có Tồn Vượng Triệt tạm ổn, chủ khi dương lên, phát triển, phấn đầu có khó khăn nhưng không lâm bế tắc, ngược lại là cách cục tích lũy được kinh nghiệm qua khó khăn. Với Cự có Tồn Ấn thì nội tâm luôn hàm chứa sự bất mãn, Văn cách đắc Quyền Khúc hoàn toàn có thể thành tựu sự nghiệp. Đại vận đầu tiên sức cát hóa không lớn, chủ không có khuynh hướng tham vọng theo đuổi mạnh, với cố gắng với tham muốn. Khí hình gốc thấp, không gặp may mắn đột biến thành tựu, cần xét các khuynh hướng cương quyết của nữ mệnh. Bố cục khuyết sự quyết tâm, khả năng ứng biến linh hoạt do không gặp Tang Hư Mã và Phượng Khốc rất cần cho Cự Môn. Do đó cần dụng Văn cách ứng hợp Cự Tồn thời điểm vận thích hợp kích phát, rất lưu ý quan trọng là chuyên nhất với một mục tiêu, lấy tâm chủ nghiên cứu làm gốc, tức dụng được Khốc Hình thì Cự mới có thể hoạch phát. Trợ cách này như việc cố gắng quyết tâm với một mục tiêu, lấy nghiên cứu chuyên sâu hơn làm niềm vui, thì sau thời gian dài, bố cục Tồn Vượng là cách cục tích lũy, khi bộc phát do nhập vận tương ứng với quyết tâm của mệnh tạo. Đây là điểm dị biệt của vòng Trường Sinh giao hội với vòng Lộc Tồn là hai vòng sao mạnh quan trọng của Tử Vi, vòng sao thứ ba là vòng Thái Tuế. Mệnh Thân an tại vị trí Mộ không hay khi có vòng Trường Sinh, ở hai vị trí Sinh Vượng thực cát hóa lớn, may Thái Dương nhập Vượng toàn tổ hợp Cự Nhật cát hóa. Đại vận thứ nhất Cự Môn hình thành, Cự Môn theo khuynh hướng Cự Tồn Quyền Khúc, có chỗ khó khăn, không phải là vận cát, Cự Môn cũng không gặp Kỵ Khốc nên thực chưa phát huy tính chất quan trọng của Cự để thành tựu. 



Đó là tính chất tìm hướng đi khác biệt của Cự, hướng đi khác biệt với bố cục này tăng tính đứng đầu, khả năng lãnh đạo của Cự Môn. Cự Nhật cách vận đầu gặp cách Tồn Ấn càng tăng tính quan trọng. Vì bố cục Tồn Ấn là dấu ấn, kinh nghiệm, mang tính quá trình để tăng cường khí hình. Trong vận này tham muốn càng lớn, thành tựu sau này càng lớn. Nếu với Cự có khuynh hướng tình cảm trong vận này cũng để lại dấu ấn lớn trong nội tâm. Do đó nếu nữ mệnh có khuynh hướng mạnh về Tài Quan do Cự hóa Quyền trong đại vận đầu tiên thì khí hình gốc luận vượng, nếu khuynh hướng tham muốn định hướng không lớn thì luận bình hòa. Khả năng chế hóa Sát của Cự cũng vậy, do Cự Nhật ngộ Tồn Ấn, trong vận này với mức độ khó khăn vượt qua sẽ làm nhân để thành tựu hóa Sát thành Quyền cách ở các vận sau. Đặc biệt khi Mệnh Thân đồng độ cát hung đồng bởi bố cục Cự Nhật. Tức với suy nghĩ trong bản tính và ý thức khi gặp tai họa sẽ gặp tai họa. Cung Mệnh là suy nghĩ ban đầu phản ứng với hoàn cảnh, không có sự tác động của suy nghĩ ý thức. Khi trưởng thành thì suy nghĩ ý thức bắt đầu mạnh, tác động lẫn với bản tính là phối hợp Mệnh Thân. Ở đây Mệnh và Thân đồng độ mang ý nghĩa này. Trong đại vận thứ nhất là xét về khí hình gốc của Cự Môn. Bản thân mệnh tạo tùy khuynh hướng ban đầu xác định ở trên để định cách. Với cách cục biến hóa thành bị cô lập trong vận này thì ứng hợp cách cục không mấy hay, do đó định hướng về tham vọng lớn lưu sâu sắc trong tâm sẽ không xuất hiện do đã ứng hợp với bố cục khác biệt bởi sự cô lập. Cự Môn khi đó tác họa, Sát cách bất chế hóa do tính bất mãn và khởi phát dương lên quan điểm của Cự Nhật cách. Cự Môn có tính ám, trong bố cục này lại không gặp Khoa nên tính cách có phần bất ổn, trong nội tâm thường phản ứng, lo âu suy nghĩ nhiều với những sự việc. Khi có Quyền hóa thành cảnh giác, suy nghĩ sâu hơn nên rõ hơn về sự việc. Tuy nhiên cần định tâm, tức rèn luyện sự lãnh đạm, bình tĩnh ổn trọng của Cự Môn để tích lũy và chế hóa được Sát cách do đại vận đầu tiên bố cục Cự Tồn không được chế hóa hoàn toàn, tác họa khá lớn. Cự khi tốt thành tựu sự nghiệp với bố cục này cốt nằm ở chữ đa nghi, thâm trầm với nam mệnh, với nữ mệnh dụng Tài Danh chủ sâu sắc, đoán tâm ý của người khác tốt. Do bố cục Cự Nhật với nữ mệnh thực luôn có khuyết điểm, dụng theo Văn cách thì trung hòa. Với bố cục Sát khi gặp có điểm đặc biệt khi càng loạn, mất thế chủ động thì tai họa, tai kiếp sẽ đến. Ở đây chính là đại vận Liêm Sát từ 35 người viết sẽ luận sau. 



Sau đại vận thứ nhất với cách cục Cự Nhật hoàn chỉnh giao hội Tồn Tướng Ấn. Nhập đại vận thứ hai từ 15 tới 24 nhập cách cục Thiên Tướng độc tọa cư Tị hình thành bố cục Phủ Tướng đơn thủ. Với mệnh cách Cự Môn nhập đại vận Phủ Tướng không mấy hay về vấn đề tình cảm. Ở đây cách cục Phủ Tướng ngộ Kình Phượng Khốc, bản cung là cách cục Tướng Hổ. Bố cục này mang ý nghĩa khá tốt cho tài danh, cũng chủ sự tương trợ, được đánh giá cao về sự thay đổi. Nữ mệnh Cự Môn nhập đại vận có Kình Tuế Phượng ưa bày tỏ các quan điểm của bản thân ra bên ngoài. Cách cục này mang ý nghĩa thay đổi do bất mãn của bản thân với hoàn cảnh tức bố cục Phủ Tướng. Thiên Tướng trong cách cục này khá tốt về mặt sự nghiệp, chủ tạo ra hướng đi thay đổi, xây dựng đường lối của Cự Môn. Sang đại vận thứ ba từ 15 tới 24 nhập cung độ Thiên Lương độc tọa cư Ngọ. Bản cung Thiên Lương ngộ Tả Hồng Đào Thai Phi giao hội Đồng Linh Xương cư Tuất và Cơ Âm Thanh Khoa hình thành cách cục Cơ Nguyệt Đồng Lương hoàn chỉnh. Cách cục này mang ý nghĩa những ngày vui vẻ, tự bản thân quyết định về phúc may. Thiên Lương đầy đủ Cơ Nguyệt Đồng Lương thì được sự an ổn, ổn định về các mặt. Tuy nhiên ở đây hình thành cách Đồng Linh Xương có tính nghe theo tập thể, tuy Cự Môn trong cách Cự Nhật có tính phản kháng, tuy nhiên nhập vận này dễ tin theo một số ý định, lời khuyên của người khác. Trong trường hợp này bản thân Cự Môn luôn có tính quan sát định hướng tốt nhất cho bản thân, do đó tự bản thân ra quyết định thì dễ đạt được thành tựu hơn việc nghe theo người khác. Ở đây Thiên Lương trong bố cục Đào Hồng hàm chứa may mắn, do đó nếu mạnh dạn làm các công việc thì dễ thành công hơn. Trong vận này nếu muốn xuất ngoại thì năm Tí tức năm 2020 sẽ có khả năng di chuyển cao, cũng là cách cục mang ý nghĩa rời xa tổ quốc nếu hướng ý định sang nước ngoài. Năm Mậu Tuất tức năm nay nhập đại tiểu vận về cung độ Thiên Lương với cách Lương Đào Hồng tại bản cung, với lưu Quyền Kỵ về tổ hợp đại tiểu vận. Trong năm nay sẽ có phát sinh về tình cảm, cũng có phát may. Nữ mệnh tùy lựa chọn của bản thân định cách hướng đi theo tình duyên cách hay tài quan cách. Nhìn chung năm nay là năm khá tốt đẹp và bình ổn. Năm Tân Sửu tức năm 2021 nhập tiểu vận Tử Tham ngộ Tam Ám Hỏa Hư Không Kiếp Hình Mã là tiểu vận xấu, mang ý nghĩa khó khăn bế tắc rất lớn, gây biến động mạnh cho bố cục ổn định của Cơ Nguyệt Đồng Lương. Trong năm này đặc biệt dụng trợ cách hóa Sát, tránh dụng tình duyên cách, hướng Văn cách không hướng tình cảm, cả tình cảm gia đình, nghiên cứu chủ động hay về những bí mật thì chỉ tác họa một phần. Nhìn chung đại vận này tiểu vận xấu thứ hai tại năm 2021. Tuy nhiên đây cũng hàm chứa tính phát phú, hoạch phát tài cách do hữu Tham Hỏa Kỵ Tang là cách cục tài cực vượng, nắm bắt được thì rất tốt, trong năm này sẽ hình thành nên tham vọng về vật chất, do chứa Sát tính rất mạnh nên cẩn trọng, có thể họa tới thân, nếu tuyệt khí có thể sát thân, tuy nhiên mệnh thân khí vẫn vững, dụng trợ cách thì có thể được thành tựu, họa thuộc về bế tắc lớn,  nếu vượt qua thì hoạch phát. Trong đại vận này cũng qua tiểu vận cung Hợi tức năm 2025 nhập cách cục Vũ Phá Không Kiếp Tuần Hình Tang Mã tại bản cung giao hội đủ Tam Ám đây là bố cục bất ổn không mấy hay, thuộc tiểu vận xấu nhất trong đại vận này. Khi tiểu hạn dời tới năm này nên cẩn trọng đề phòng trước, cũng đề phòng về sức khỏe của bản thân hay gia đình. 


Nhập đại vận thứ ba từ 35 tới 44. Bản cung cách Liêm Sát cư Mùi giao hội Hỏa Kỵ Diêu Đà Tang Không Kiếp Tuần. Đại vận này mang ý nghĩa không mấy hay, xác định là đại vận xấu, khó khăn trong cuộc đời. Bố cục Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham tạo nên xung đột, mâu thuẫn khó khăn bế tắc trong cuộc sống. Ở đây lại là cách giao hội với Hỏa Tang Hư Mã ngộ Diêu Đà Kỵ Không Kiếp có Tuần trúng họa. Thất Sát nhập vận ngộ Hình Kỵ đã là cách cục xấu, ở đây lại kiến bố cục Sát tính rất nặng không có chế hóa. Đại vận này cần rất cẩn trọng nếu không phải lộ đồ khảm kha. Ở đây chỉ có một điểm may mắn bởi bản cung Liêm Sát cư Mùi không gặp Sát Kỵ tại bản cung, Hỏa Kỵ hợp với Tham Lang và Không Kiếp đồng độ với Phá Quân có thể chế hóa một phần. Nếu đại vận này không hướng tâm toàn bộ theo Văn Cách thì họa thực không nhỏ, có thể tuyệt khí hay tuyệt mạng do bố cục Sát tác họa lớn. Đây là đại vận cũng nhiều thăng trầm, chữ mất nhiều hơn chữ được, biến động thất thường. Khôi nhập tại cung Mão với Hỏa Kỵ mang ý nghĩa bộc phát thêm họa. Đại vận này là đại vận xấu của cuộc đời, dụng trợ cách Văn Cách có thể tạo bất ngờ về thành tựu về nghiên cứu học thuật, tuy nhiên về bản mệnh suy, mang ý nghĩa không mấy hay, cần cẩn trọng đề phòng tuy nhiên không lo sợ dẫn tới Sát cách bị động không thể hóa cục tác họa bất ngờ càng lớn. Các mối quan hệ hay tạo tác bên ngoài của vận này nên giảm thiểu, do Cự Môn có thể chế hóa được một phần Không Kiếp tuy nhiên tối kỵ với Tam Ám và vận Thất Sát tới Kỵ Hình Tang Kiếp là tai kiếp lớn. Trong đại vận này nếu tiểu vận nhập năm Tị Dậu Sửu đều là các năm đáng lo ngại nên đề phòng. Sát cách không phân bố đều để ứng hợp chế hóa từng đại vận mà tập trung thành tổ hợp cung trọng điểm lại có Tuần Khôi tăng tính chất của tổ hợp nên xấu. Người viết luận đại tiểu vận trùng phùng cách Thất Sát Kỵ Hình Không Kiếp Tam Ám có Tuần Khôi trong thời loạn thì đa phần vong mạng, với mệnh cách Cơ Nguyệt Đồng Lương hay Thái Dương, Vũ Phủ thường là vận cuối. Tuy nhiên ở thời bình bố cục này tuy có mệnh tuyệt khí tại vận này, đa phần do Sát cách cực vượng khó dụng, kẻ theo đường võ nghiệp hay xã hội, phi pháp nhập vận này cũng gặp tai kiếp. Người thường cũng gặp họa lớn với tổ hợp cung trọng điểm này. Với bố cục Sát tinh nếu nhập bản cung vận mang ý nghĩa xấu hơn. Với trường hợp Cự Môn dụng Văn cách, nên hướng tới tư tưởng khác biệt, hóa được Kỵ toàn cục giảm tác họa, cũng cần xem trọng ở vấn đề bệnh tật. Bản cung không có Sát là may mắn của nữ mệnh, tuy nhiên cần rất cẩn trọng do tổ hợp này tác họa lớn. Nghiệm lý qua nhiều lá số tử vi đông a với bố cục bởi thời bình với cách cục này dễ gặp bệnh nan y cũng có thể xảy ra do khí Sát vượng thì bản mệnh không vững, ứng hợp với bệnh tật ở đa phần trường hợp Cự Môn và Thiên Phủ. Ở đây nữ Mệnh Thân nhập vòng Trường Sinh nhưng vị trí Mộ nên cát hóa không mạnh. Một số ít mệnh tạo khí hình vượng hoạch phát qua vận Sát rất lớn, tuy nhiên thăng trầm hoạch phát hoạch phá bất ổn tai kiếp bởi cách cục này không nhỏ. 


Qua vận cung Điền Trạch. Từ 45 tới 54 nhập đại vận VCD có nội Cự Nhật, ngoại cách là Cơ Âm Khoa Thanh. Đại vận này nhập cung độ Trường Sinh, bản cung có Bật Ấn giao hội Quyền Khúc. Đây là bố cục khá tốt đẹp, vững bản mệnh khi qua đại vận trước. Bố cục này mang ý nghĩa khá bình ổn, là vận tốt đẹp của nữ mệnh. Tuy đại vận có phần xung đột và bất mãn phản đối của Cự Môn nhưng không gặp bố cục Sát. Trong bố cục ngoại Cơ Âm khá tốt đẹp bên ngoài thì tiếp xúc bên ngoài mang ý nghĩa hay. Cự Nhật nội cách là khởi tạo, mang dương tính lớn, với cách Cự Tồn thường bất cẩn ngôn trong đại vận này nên cân nhắc khi sử dụng ngôn ngữ phản kháng hay bày tỏ quan điểm. Nhìn chung mệnh Cự Môn tới vận này có nhiều bất mãn trong nội tâm nhưng không tác họa lớn. Cũng cần lưu ý thêm với bệnh tật hay sự đánh giá của người khác không mấy hay về bản thân dẫn tới phản kháng và họa tới do bất cẩn ngôn. Qua vận Cự Nhật tức về tổ hợp tam hợp của bản Mệnh Tài Quan nhập tới cung độ Tật Ách hay Nô Bộc là chịu tác động mạnh hơn của tật bệnh lão, và chịu tác động của bên ngoài hoàn cảnh tới bản thân. 

Wednesday, May 9, 2018

Phân định Sát cách với lòng nhân


Người viết gặp vấn đề về sức khỏe nên thời gian vừa qua chưa phản hồi được tới người đọc. Cảm ơn những lời hỏi thăm của những người bạn. Sức kiên cố với một mục tiêu là tính chất hoạch phát của tử vi. Một tham vọng không ngừng lớn mạnh, không dừng sự phát triển là yếu tố dẫn hóa toàn cục. Mang ý nghĩa định hướng tính chất của tổ hợp.  Tử vi đông a luận các lá số, phần người viết hay gặp nhất là các câu hỏi về mệnh cách có Xương Khúc Khôi Việt Khoa Quyền Lộc Tả Hữu bất kiến Sát Kỵ tại sao không thể thành công lớn mạnh, lại được tổ hợp chính tinh Dương Lương, Cơ Lương, Tử Phủ, Đồng Âm, Cự Nhật,... sách luận thượng cách nhưng thực tế bên ngoài là mệnh thường,  không thể đạt tới thành tựu, tuy nhiên cũng không phải mệnh yểu tử. Trước đây với thời Nho Giáo và do lưu truyền tử vi không chính thống ra bên ngoài đã luận tính chất Sát Tinh gồm Kình Đà Không Kiếp Hỏa Linh Kỵ Hình Tang Khốc không mấy tốt đẹp, lại thường dùng từ quân tử xem trọng với cát tinh, đề cao sự ổn định của những bàng tinh là cát tinh dẫn tới định kiến sai khó có thể thay đổi khi luận mệnh. Lại luận bản cung mệnh như một cuộc đời, mệnh tốt là tính cách tốt. Lưu ý tính cách của mỗi người biến đổi liên tục qua ứng hợp với hoàn cảnh bên ngoài và các vận. Một kẻ mệnh cách Kiếp Kỵ không có nghĩa là mệnh cách tàn độc, vị kỷ. Bố cục Sát mạnh ứng hợp vạn cách mà sinh ra vô số biến hóa không cùng tận. Một Kiếp Kỵ khi mang ý nghĩa tự dằn vặt về việc sai trái của bản thân, một Kiếp Kỵ trong thời phút nguy cấp đưa ra quyết định xả thân để cứu nhiều mạng người, một Kiếp Kỵ cũng có thể ra tay làm việc ác tùy vạn vật mà khác nhau. Những việc người khác không dám làm cũng là bố cục Sát. Vua dầu mỏ của nước Mỹ trước nổi tiếng với tham vọng và cạnh tranh không từ bất kỳ thủ đoạn nào để giành được lợi với hình tượng độc đoán, thủ đoạn lại luôn dành một phần số tiền làm từ thiện và 40 năm cuối đời dành hầu hết gia sản để từ thiện. 



Sát cách bất dụng lại cũng chính là háo Sát, ưa làm hại, ra tay. Kẻ thủ ác, ưa sát nhân cũng là bố cục trên là sự thực. Chính vì ý nghĩa hai mặt khiến Sát cách thường luận đoán sai bởi tư tưởng phong kiến trước ưa khuyến giáo chữ Nhân, lấy thiên mệnh, số mệnh làm trọng mà lưu truyền cát tinh bình ổn, văn cách làm cát, sát tinh võ cách, hiếu sát làm hung.  Chữ dám của Sát cách cổ nhân luận Sát cách hợp hóa hữu tình thì thành Quý, khi vô tình xung khắc thì tác Họa. Khi nhận định về một người. Bản thân quần chúng đánh giá thường có ý kiến trái chiều, cái này ta thấy tốt người thấy xấu. Ngay cả hành động của bản thân ta cũng suy xét từng thời điểm khác nhau, đó là sự biến hóa không ngừng nghỉ của các bố cục qua tính cách, bản tính của mỗi người nhìn sự việc, dẫn tới thành công khác nhau khi thực hiện công việc. Sự khó khăn hay thử thách cũng tạo ra bởi bố cục Sát cách. Khi phá được nhận định sai về các bố cục giao hội Sát tinh thì luận tử vi mở được một phần tri kiến, điều này chỉ cần nghiệm lý nhiều lá số đều có thể rõ về từng tính chất của Lục Sát khi thành tựu và khi tác họa. Cần rõ trong bố cục tử vi cũng luôn có hữu tình và vô tình. Như mệnh cách nếu có Cơ Hỏa Kỵ Kình Hình Linh Việt là cách cục vô tình. Vì Cơ ở đây chính là lợi ích. Mệnh cách Thiên Cơ sách thường luận lễ phép, thuộc thiện tinh nhưng thực chất nghiệm lý khi Thiên Cơ phá cách có khả năng tạo sát rất lớn. Với sao Cự Môn đồng độ với Thiên Cơ càng mang ý nghĩa vô tình trong bố cục này. Người viết có gặp mệnh Thiên Cơ sát nhân. Cự Môn khi xấu là phản phúc, vô ơn, tạo phản cách. 



Nếu nhầm lẫn giữa bố cục Sát và tính cách của người cũng như ta nhìn người chỉ bởi cái nhìn bên ngoài. Astor IV là một trong những người giàu nhất thế giới trong năm 1900, chỉ 41 tuổi. Không xuống tàu, quyết định nhường chỗ cho phụ nữ và trẻ em, đội cứu hộ tìm thấy thi thể ông trong tình trạng đầu bị chấn thương nghiêm trọng do đập vào ống khói. Ben Guggenheim là người rất giàu có nổi tiếng về ngân hàng và công nghiệp. Khi con tàu chìm dần, Guggenheim và người bồi phòng của mình, Victor Giglio, ngay lập tức tìm cách đưa phụ nữ và trẻ em lên các xuồng cứu hộ nhiều nhất có thể. Tuy vậy, sau khoảng một giờ, thủy thủ đoàn không thấy bóng dáng họ đâu nữa. Vài phút sau, Benjamin và Giglio xuất hiện trên boong tàu mà không mặc áo phao. Thay vào đó, họ mặc bộ lễ phục đẹp nhất của mình. Vợ của người giàu thứ 2 thế giới là ông Sitelaosi, nhà sáng lập công ty bách hóa Macy nổi tiếng của Mỹ. Mặc cho ông khuyên như thế nào đi nữa, vợ của ông vẫn cự tuyệt bước lên chiếc thuyền cứu sinh số 8. Trước đó có J. P. Morgan và Ton Hershey cũng dự định đi trên con tàu này nhưng hùy lịch. Sau lần chết hụt trên, ông Morgan nói: “Trong cuộc sống, thất thoát tiền bạc không phải là điều đáng kể. Cái chết mới là điều đáng sợ nhất”. Trường hợp chìm tàu với rất nhiều mệnh cách thành tựu có giá trị lớn khi nghiệm lý bản tính với toán mệnh. Với bố cục Sát vượng, mệnh tạo đắc cách cùng vong mạng với con tàu, đa phần đều là những người đứng đầu trong xã hội, ở chính trị và tài phiệt. Trong số đó không phải tất cả đều nhập Sát cách khí tuyệt, có người đang ở vận tốt đẹp thành tựu. Ở đây là vận làng, hoặc thậm chí là âm mưu. 



Trong số đó sẽ có người may mắn thoát được vận khí này. Xét về Sát cách, các lá số thành tựu lớn do chế hóa Sát là những người thành công đứng đầu, đa phần đưa ra quyết định khó khăn ở lại trên tàu bởi những người này, những người giàu nhất và quyền lực nhất ở nước tư bản, nhường mạng sống cho phụ nữ và trẻ em không tranh giành chen lấn. Đây là một điểm chế hóa thứ nhất của Sát cách. Sự cống hiến xã hội. Cũng trong bối cảnh liên quan tới cái chết sẽ rõ tính cách bộc lộ ra bên ngoài. Tử vi đông a luận cách cục rõ bởi nghiệm lý, thực bố cục Sát cách đắc cách giá trị hơn rất nhiều bố cục cát tinh văn tinh thành tựu ở điểm vậy. Khi bản thân nghèo khó so với khi thành tựu tất nhiên việc xả thân trở nên rất khó khăn. Rất nhiều kẻ thành tựu lựa chọn lúc đó. Việc đánh giá con người qua cách nhìn của bản thân thường mang lại sai lầm. Do đó một phần thế hệ luận tử vi do ảnh hưởng của Nho Giáo và lễ nghĩa trí tín luận mệnh quý có đức nhân nghĩa thành tựu tuy hợp với lòng người nhưng thực thiếu tính chính xác và nghiệm lý cũng sai sót. Nhìn bố cục Sát với ý nghĩa bình hòa xét cách cục sẽ rõ hơn. Luôn lưu ý rằng một kẻ chế hóa Sát theo khuynh hướng ác, hung hiểm với tính Sát càng nặng thì bố cục sẽ phản hóa càng lớn, nếu kẻ đó dụng được Sát cách với mức độ càng vượng thì thành tựu càng lớn, nếu gặp tác động không đủ lực chế hóa thì họa cũng lớn như vậy. Đây là điểm quan trọng khi luận tử vi, cũng thường gặp ngoài thực tế bởi chữ ác giả ác báo. Những kẻ làm được việc ác do trong ý thức có chữ cống hiến, trách nhiệm nhưng đường lối sai. Như trường hợp một kẻ ăn cắp của người giàu chia cho người nghèo, tiêu diệt những kẻ cặn bã của xã hội, hoặc lý tưởng của Pôn Pốt là rõ nhất. Sức cát hóa này liên quan tới sự nhiếp phục của tham muốn, tham vọng. Nếu tập trung toàn tâm ý chí lớn chính là cách cục hóa Sát vi Quyền. 






Suy nghĩ việc những người hoạt động nhân đạo cứu trợ tình nguyện và nhà báo bị hành quyết bởi tổ chức hồi giáo IS. Những việc bất công của xã hội, bất bình đẳng bởi sự nghèo đói đến khốn cùng, bệnh tật, của trẻ em Châu Phi, cũng ở nước ta chiến tranh chỉ qua vài chục năm, trẻ em bị ảnh hưởng chất độc hóa học cũng như vậy. Đó là điểm bất công luôn tồn tại ứng với thế đứng của 14 chính tinh. Vạn vật đều hóa Sát khi xuất hiện chữ bất công bằng. Vậy sinh ra đạo lý gồm chữ lý và chữ tình. Khi xuất phát ở vận nước chiến tranh. Thời xưa các nước chiến tranh tiêu diệt những tù binh, giết hại dân thường, việc lạm sát vô tội do quyền hay bảo vệ lợi ích tầng lớp trên cùng ở xã hội phong kiến cũng xuất hiện nhiều. Người luận tử vi nên nhìn rõ về xã hội, các bố cục cát tinh giao hội lòng nhân lớn dù phẩm chất tốt cũng chưa luận là mệnh thành tựu đại quý. Kẻ mệnh cách Kỵ Kiếp Khốc dù tàn nhẫn nhưng lại nhiều kẻ đứng đầu do Sát cách tồn tại hai mặt dụng hay phá ứng với hoạch phát hay tác họa sát thân. Dụng và bất dụng là vậy. Tử vi trước đó gắn với Nho Giáo trọng đạo đức và xã hội khác luận có sai biệt. Tùy vào khí hình của mỗi mệnh tạo mà phân định. Người viết luận một trường hợp gần đây mệnh Cự Cơ Hình Kỵ Kình Linh Tang Quyền tâm tính rối loạn, trước thường tự xuất hiện ý nghĩ làm hại người. Đương số còn một chữ nhân tại cung an THÂN với cách Lương Khúc ngộ Tuế Phượng. Trưởng thành biết rõ bản tính mà ngăn chặn, trong tính cách như có hai nhân cách. Sau dụng theo Văn Cách mà hóa được Sát cách hoạch phát Phú. Lá số tử vi luôn biến đổi, cuộc đời luôn biến đổi, tính cách, tính thiện ác cũng vậy biến đổi liên tục.