Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Tuesday, August 30, 2016

Thiên Lương và sự may mắn




Ngôi sao may mắn trong lá số tử vi



Trong cuộc sống thường nhật là sự tác động của tính cách và hành động biểu hiện ra của xã hội. "Giang sơn dễ đổi bản tính khó dời" là câu tục ngữ chính xác về tính cách và sự liên quan đến vận mệnh của con người. Xét ở quy mô nhỏ và xã hội theo đúng thời điểm thuật xem Tử Vi bắt đầu xuất
hiện luận khả năng dúng sẽ rất cao. Nhưng thời đại thay đổi, ngay cái xã hội phong kiến tưởng chứng như vững chắc không còn tiến hoá xã hội khác cũng thay đổi. Đa phần Tử Vi xuất hiện khi con người vẫn lấy Nhân Trí Tín Lễ Nghĩa và Văn Tình Nghĩa Lý để xây dựng nên các triều đai vững vàng với quan niệm Tôi Trung Vua Hiền. Kẻ đứng đầu và nắm tất cả là vua. Và bề tôi phò tá là trung thần là kẻ thay vua cái trị đất nước, đây là Quyền. Và cái phương pháp giáo dục ở thời đại ấy và bằng cấp học vị chính là Khoa. Còn Lộc chính là tài sản mà con người có được. Xét về Tứ Hoá là gốc rễ của nguyên lí đoán mệnh và là thứ ở sâu trong lòng mỗi xã hội. Không thể vứt bỏ và biến đổi vì như cái cây thì Khoa Quyền Lộc là rễ, là thứ bắt nguồn và là nguyên nhân cho sự vận hành của xã hội. Nhưng Khoa Quyền Lộc lại có to nhỏ, quyền lớn quyền nhỏ, tiền nhiều hay ít. Vì vậy Khoa Quyền Lộc là thứ ban đầu để khẳng định mệnh tốt. Chính tinh là các vị trí của chúng ta trong xã hội và bàng tinh kết luận tính chất của vị trí ấy. Không có ngôi sao vua, chỉ có ngôi sao được bàng tinh trợ giúp hợp cách trở thành vua, và làm vua liên quan đến thời gian làm vua. Chính là hạn. Trong các chính tinh, nếu không có bàng tinh bổ sung ý nghĩa thì bản thân Tử Vi, Phá Quân, Cự Môn đều có khuynh hướng đứng đầu. Có thể quy như chính tinh là một tổ hợp các bàng tinh và sự thực cũng như vậy. Cái chính là tập hợp những cái phụ, phải suy nghĩ như vậy để không bị ảnh hưởng bởi các câu phú thái quá về việc phân chia các cách cục thế đứng của chính tinh khi luận đoán. Vì định nghĩa chính tinh là tổ hợp các bàng tinh nên không quá quan trọng miếu hãm có thể tốt hoặc xấu không phụ thuộc nhiều vào chính tinh.



 Như đã viết ở trên bộ Khoa Quyền Lộc là gốc của chính tinh, Là kết quả của chính tinh tức là sự tổ hợp các bàng tinh ( Chính Tinh) sinh ra kết quả là Khoa Quyền Lộc. Mệnh và Thân là cặp không thể thiếu của Tử Vi. Phải an cung Mệnh và cung an Thân mới an đến những vòng sao khác. Và Mệnh là tính cách, chính là số mệnh, là bản năng, bản tính. Cung an Thân chính là sự nghịch của Mệnh khi khởi cung an Mệnh. Vậy tầm quan trọng của cung an Thân có giá trị ngang ngửa với cung Mệnh. Trong Tử Vi các cặp sao đối đều mang ý nghĩa tương đương nhau về các mặt. Như việc vòng Tử Vi và Thiên Phủ đối xứng nhau qua trục Dần Thân. Các bàng tinh thành cặp đa số lấy đối xứng nhau qua một quy tắc. Ngay cả Lục Sát Kình Đà Hoả Linh Không Kiếp tương tự. Mệnh là tối quan trọng, là ý chí, là bản tính trái với cách xem cung Tật Ách là bản tính hoàn toàn sai lầm. Vì Mệnh và Thân là cặp đại diện cho mỗi con người nên với mệnh là Bản Tính, Tính Cách phân biệt thì cung an Thân là Thân Thể, Thân Phận của mỗi người để phản biệt lẫn nhau. Như vậy cặp Mệnh Thân trở nên miêu tả hoàn chỉnh về chính cái Bản Ngã của mỗi con người khác nhau. Chỉ sự đơn giản như vậy cổ nhân đã nêu rõ một cách rất dễ hiểu qua việc An xong cung Mệnh đến cung An Thân. Hậu thế chỉ vì việc nhỏ này mà tạo ra vô số man thư sai lệch tính chất cung An Thân. Xác và Hồn là thứ đơn giản để phân biệt mỗi người nên coi trọng Mệnh và cung an Thân. Phân biệt rõ sự kết hợp giữa bàng tinh và chính tinh gây nên tổ hợp tên gọi là Cao Quý. Với Mệnh và Thân ta có hai cách sau  ý chí cao quý và một Thân thể cao quý là khác nhau. Vì vậy Thân tốt hơn Mệnh tức thực tế hơn. Nhiều khi chúng ta thất vọng đến mức tâm hồn đã chết nhưng thân xác vẫn sống. Cung an Thân tác động lại chi phối ngược lại Mệnh. Thân thể được phủ lên bởi vàng bạc đá quý, thân thể kín ở trong ô tô,....Qua kinh nghiệm bộ Song Lộc gia cát ở cung an Thân có uy lực về tiền bạc lớn hơn cung Mệnh. Vì vậy, Thân tốt hơn Mệnh tốt. Tử Vi hay môn Tử Bình được thịnh hành đều lấy từ đời thực mà tạo nên các cách, vì vậy đoán số mênh phải gắn với cuộc sống thường nhật, nếu không luận tổng thể sao có thể đúng.




Trong Tử Vi có chính tinh mang lại sự may mắn là sao Thiên Lương. Thiên Lương không Hoá Kỵ, chỉ hoá Khoa Quyền Lộc nên bản chất ngôi sao này là sự Lương Thiện, không có tính Ám và Nghi Kỵ của sao Hoá Kỵ nên mang tính may mắn. Thiên Lương có một dặc tính là Ấm, chủ che chở khiến sao này có sự May mắn cũng phần lớn do tính chất này. Thiên Lương là ngôi sao may mắn nhất của Tử Vi, khi hợp cách thuộc trường hợp không bị tai ương họa hại khiến mạng vong mà thuộc cách Bất Phạ Tai Ương. Thiên Lương hợp cách chính là Lương Tâm, Lương Thiện của con người. Vì là sao may mắn, che chở nên đóng ở Mệnh và cung an Thân đều có tác đụng lớn, hỉ gặp tổ  hợp trọng điểm tặng sự quan trọng cho toàn cách cục. Sao Thiên Lương thủ mệnh khác với thủ cung an Thân và thủ Hạn. Thiên Lương ở tam hợp cũng luận khác. Thiên Lương hỉ được gặp Hoá biến đổi sự may mắn thành công ở mức độ nào đó, Thiên Lương tối kị gặp Không Kiếp đảo ngược tính chất tốt dẹp của sao ban đầu. Thiên Lương ngộ Hoả Linh cũng không mấy hay về nhà cửa, tính cách chủ ảnh hưởng lớn   Tuỳ thêm bàng tinh trợ giúp hoặc các cách hợp Hoả Linh. Cung an Thân có Thiên Lương là sự may mắn đến từ thân thể của chính bản thân. Có nhiều sự may mắn dẫn đến sung sướng tấm thân như ở trên đã  đề cập. May mắn là Thiên Lương và không may kho bị phá cách cũng chính là sao này.

Sunday, August 28, 2016

Vũ Phủ Tý Ngọ thủ mệnh






Luận về bộ sao Vũ Khúc Thiên Phủ đồng độ tại Tý Ngọ cung


Vũ Khúc và Thiên Phủ là hai chính tinh thuộc nhóm sao Tử Vũ Liêm và Phủ Tướng, do có sự giao hội hình thành bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm hoàn chỉnh với Thất Sát ở đối cung. Đây là cách cục Sát xung nên không hay bằng cách Tử Vi cư Tý Ngọ có Tham Lang xung. Vũ Phủ đồng độ thuộc Tinh hệ Tử Vi cư Thìn Tuất, tại vị trí Vũ Phủ là tốt đẹp hơn của cách này. Vũ Khúc là ngôi sao chủ tiền bạc, là tài tinh đi với Thiên Phủ là tài cư kho, trường hợp Lộc Tồn ngộ Thiên Phủ cũng luận vậy. Vũ Phủ Tý Ngọ có Liêm đắc cách, đắc lợi ở vị trí Dần Thân là nơi tốt đẹp của Liêm Trinh. Vũ Khúc là ngôi sao chủ tài năng, Thiên Phủ là ngôi sao cẩn thận, bảo mật nhất trong các chính tinh, vì vậy đây là cách nhân tài có tính cẩn thận nên hợp cả đường công danh và tài lộc. Đặc tính đặc biệt của Vũ Khúc có hai kết cấu quan trọng là khả năng biến đổi sự việc theo hướng có lợi, ở trường hợp đồng độ với Thiên Phủ khả năng phân tích tránh họa rất mạnh, cũng chủ biết lợi dụng vào điểm sơ hở của luật pháp để làm giàu, bộ sao này gặp Hình không đáng ngại, gặp Kỵ Hình thì Tử Vi bị ảnh hưởng vì Tử Vi là hành động, là ngôi sao quan trọng nhất trong tử vi, ngộ Kỵ Hình thành cách vi phạm.
" Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ thỏa chí bình sinh.".
Vì vậy nên luận trường hợp mệnh Vũ Phủ ngộ Kỵ Hình dễ sử dụng sơ hở pháp luật để thực hiện hành vi vi phạm không bị định tội. Vũ Khúc có tính kích động, lôi kéo. Vì vậy nên cách Vũ Tham Tứ Mộ luận là hay khi Tham Lang vì ham muốn kết hợp với Vũ Khúc kích động, ở Thìn Tuất Vũ Khúc kích động Tham Lang bên ngoài ý nghĩa khác ở Sửu Mùi chính bộ Vũ Tham đồng cung tính thống nhất cao. Chính vì tính chất kích động bộ Tử Vũ Liêm có Vũ Khúc và Liêm Trinh nên hợp với quân sự, chính trị vì Liêm Trinh và Vũ Khúc tạo thành bộ lý tưởng, lập trường kích động kẻ khác noi theo. Cũng do tính chất này xuất hiện câu phú:
" Linh Xương Đà Vũ hạn chí đầu hà". Dịch là hạn gặp Linh Xương Đà Vũ dễ tự tử ở dưới sông. Phân tích câu phú thấy rõ ràng Văn Xương, Đà La, đều là các sao chủ nghe theo, Vũ Khúc chủ kích động và cách Vũ Linh là xấu vì Vũ Khúc sợ Hỏa Linh hình thành cách kẻ có tài gặp nạn do nghe lời xui giúc mà kết quả thất bại đến mức tự sát. Phú Tử Vi chia ra rất rõ các cách cục và việc tìm hiểu mổ xẻ từng bàng tinh ra cho thấy rõ tính chất từng sao. Như một bộ sao tiếp theo là " Tướng Binh Tử Tuyệt" cho thấy sự quan trọng của vòng Trường Sinh, muốn tách bạch ta xem câu phú " Thiên Lương ngộ Trường Sinh ư Phúc địa, thân thượng hữu kỳ tài". Hoặc " Mã ngộ Trường Sinh thanh vân đắc lộ", " Tử Phủ Dần Thân ngộ Trường Sinh quảng đại chi nhân", " Tham Lang gia cát tọa Trường Sinh thọ khảo như Bành Tổ". Hoặc các câu phú về Phúc Đức trong cuốn Tử Vi Đẩu Số Phú Giải. Mệnh lập Dần Thân Tị Hợi hỉ gặp Trường Sinh và kỵ gặp Tuyệt. Trường Sinh là vòng sao chỉ sự Sinh Vượng Suy của Cục. Cục có hai tính quan trọng là cho biết Đại Hạn và vòng Trường Sinh, ở vòng Trường Sinh là sự phát triển của dòng khí, chính là vòng đời của con người, đắc khí thì vượng, là sự Thiên Lệch về mạnh yếu của các cung trong lá số, các sao ở vị trí Trường Sinh biểu hiện rõ nét tính mạnh của sao. Ở vòng Trường Sinh của Thiên Can, Lộc Tồn ở vị trí Lâm Quan, là nơi đắc khí sắp đến Vượng lúc đó sự phát triển xu hướng đi xuống, vì vậy Lộc Tồn có tính tích lũy. Vũ Phủ cư Tý Ngọ là cách giáp Nhật Nguyệt, đây là lý do lớn khiến Mệnh tại đây trở nên đẹp đẽ. Cách giâp cả hai sao Nhật Nguyệt là cách hay chỉ một số thế đứng của chính tinh mới có cách này. Chủ được trợ giúp lớn từ cung giáp. Trường hợp này là hay nhất vì vừa giáp vừa nhị hợp nên tính trợ giúp càng lớn hơn rất nhiều.

Khi xuất hiện Vũ Khúc và Thiên Phủ ở tam hợp hoặc đồng cung tức đủ bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm cần Hoá để đánh gia sự nỗ lực của chính tinh, nói cách khác bộ sao này nếu có thêm Hoá là rất tốt vì khó gặp khi Phủ Tướng không hoá, trường hợp này Thất Sát xung không hoá nên việc đầy đủ tam hoá là rát khó, vì vậy cung độ Vũ Phủ thích hợp theo hướng tài hơn quan. Trưởng hợp chính tinh hoá khí tại cung mệnh là đẹp nhất, vì thủ mệnh khác tam hợp mệnh vì Khoa Quyền chính hơn chiếu. Tuổi Kỷ có Tứ Hoá an theo Vũ Tham Lương Khúc ở vị trí Tý Ngọ hình thành đủ bộ Song Lộc tài vận rất lớn. Cách cục này không ngại Địa Kiếp đơn thủ vì Song Lộc là cách cục đa năng, đi với Vũ Khúc rất tốt. Tuy nhiên lưu ý các trường hợp Không Kiếp như ở các vị trí hãm gặp thêm sát tinh và bàng tinh
không hợp cách gây nên tình trạng khó khăn do Địa Kiếp gây kiếp nạn lớn về tiền bạc. Từ xưa tới nay nhiều kẻ nghe theo tiếng gọi của đồng tiền mà phải bán mạng cho tiền là chuyện thường gặp.  Vũ   Khúc hỉ gặp Xương Khúc hoặc chỉ Khúc hình thành cách Lưỡng Khúc tướng tướng chi tài cách . khi Hoá Khoa tăng tính định hướng và tính hoạch định cho bộ sao này. Cách cục Vũ Hoá Khoa cũng có ở tuổi Giáp với tứ hoá Liêm Phá Vũ Dương có Vũ Khúc Hoá Khoa và Liêm Hoá Lộc. Nếu ở vị trí Ngọ hình thành bộ Lưỡng Lộc có Khoa. Mệnh an tại Tý cũng rất tốt kho Thiên Phủ gặp Thanh Long hình thành bộ Phủ Thanh tính động của Thiên Phủ tăng, bộ Vũ Thanh và Binh Liêm chủ vũ lực. Trường hợp gặp Hoá Kỵ tức tuổi Ất khi hình thành cách Quyền Kỵ có tính uy quyền lớn của cách Vũ Kỵ.


Bộ Vũ Phủ hợp cả bộ Đào  Hồng và bộ Khôi Việt thì bộ Khôi Việt mạnh hơn. Khỏi Việt chủ tính bộc phát và tính quý nhân của hai sao này là lớn. Với Tả Hữu rất cần thiết để đánh giá thành công khi tam hoá khó xuất hiện. Nếu có Kinh tốt hơn Đà, có Linh không kỵ với Vũ Khúc bằng Hoả . Tối kỵ có Thiên Không xâm phạm và hội họp.

Friday, August 26, 2016

Luận về Lộc Tồn






Luận về đặc tính sao Lộc Tồn




Khi tìm hiểu đặc tính của một sao trong tử vi, tên riêng là thứ để phân biệt các chính tinh với nhau và bàng tinh với nhau, tên của các ngôi sao được khái quát tính chất quan trọng nhất của sao. Tên riêng được biểu thị qua âm Hán Việt nên khá bất cập cho thế hệ sau khi từ thuần việt được sáng tạo ra nhiều hơn. Trong trường hợp này chúng ta bàn đến Lộc Tồn. Tính chất của ngôi sao này được phân biệt bởi tính Lộc và tính Tồn. Cổ nhân đặt là Lộc Tồn vì sao này an theo Thiên Can, liên quan đến vị trí Sinh Vượng Mộ của Thiên Can lên các cung địa chi, tức 12 cung trên lá số. Xét về tam hợp Mệnh Tài Quan, Phúc Phối Di,... chính là tam hợp của cung an mệnh như Dần Ngọ Tuất, Hợi Mão Mùi,.... vì vậy kẻ hậu sinh nghiên cứu nghiệm lý ra các đặc tính mới và khái quát thành một cách luận có thể đúng hoàn toàn, không nên vội kết luận đúng sai, nhưng đa phần mỗi người xem tử vi truyền cho đời sau một luận lý áp dụng nhiều lý thuyết dẫn đến tình trạng " lắm thầy thì thối ma", rơi vào hàng tá lý thuyết khômg biết đúng sai, xem vận hạn xấu thấy cách tốt xấu lẫn lộn không định lượng được cát hay hung. Vì vậy nên đi từ đơn giản, rồi bắt đầu từ cái đúng khái quát nghiệm lí các lý thuyết sẽ không bị sai lầm vào rừng thuyết tử vi. Trước  hết đi từ cách an sao Lộc Tồn theo Thiên Can và Địa Chi để hiểu tại sao cổ nhán gọi một vị trí đắc vị này là Lộc Tồn. Ta có Lộc Tồn không an tại Thìn Tuât Sửu Mùi tức là Mộ Khố. 
Xét về cặp Giáp- Ất, Lộc Tồn cư Dần- Mão.  
Cặp Bính- Đinh, Lộc Tồn tại Tỵ- Ngọ. 
Cặp Canh- Tân, Lộc Tồn tại Thân- Dậu.
Cặp Nhâm- Quý, Lộc Tồn tại Hợi- Tý.
Cặp Mậu- Kỷ, Lộc Tồn tại Tỵ- Ngọ.

Như vậy các cặp Kim Thủy Mộc Hỏa trong ngũ hành, trừ hành Thổ luôn có cả bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi làm nơi vượng khí, các hành khác đương vượng ở hai địa chi. Sao Lộc Tồn chẳng qua diễn giải đơn giản chính là nơi vượng của Địa Chi. Như việc địa chi 12 tháng. Tất cả các sách ngũ hành qua niên hạn năm đều đề cập đến tiết khí từng tháng. Tháng 1 mùa Xuân, tức tháng Dần thì Giáp dương cương nắm lệnh. Tháng 2 mùa Xuân, tức tháng Mão thì Ất âm nhu nắm lệnh. Ta thấy Giáp ứng với Dần, Ất ứng với Mão. Vì vậy, Lộc Tồn chính là nơi vượng của can theo ngũ hành, cũng là thuận lý hòa hợp sức vượng của Thiên Can và Địa Chi phối hợp. Tuổi Mậu- Kỷ, Lộc Tồn an theo Bính- Đinh ở vị trí Tỵ- Ngọ. Thổ là nơi chứa đựng của ngũ hành, các địa chi Thìn Tuất Sửu Mùi là tạp khí, chứa mộ khí và dư khí không được khí chuyên một phương nên lấy Hỏa bổ túc sinh Thổ. Một số lý thuyết có phân biệt sự khác nhau giữa Lộc Tồn của tuổi Mậu- Kỷ với các tuổi khác.  Lại bàn đến Phi Liêm, khi Lộc Tồn là nơi vượng của khí Thiên Can đặt tại địa chi trên lá số Tử Vi thì Phi Liêm chính là nơi Tuyệt của Thiên Can. Như việc Giáp Dương có Lộc Tồn ở Dần thi tuyệt ở nơi Canh Dương vượng tức nơi Thân. Vì vậy có cặp Tồn-Phi đối xung với nhau rất quan trọng vì biểu diễn mặt mạnh yếu của Thiên Can của năm tới Địa Chi. Vậy vòng Lộc Tồn là vòng quan trọng của tử vi về mặt Thiên Can. Qua đây, bộ Tứ Hóa là sự tác động của từng Thiên Can tới Vòng Chính Tinh cũng rất quan trọng. Lộc Tồn là nơi chuyên vượng của ngũ hành dễ luận ra đặc tính là Vượng, Trường Tồn, Tồn Tại trái với Phi Liêm là Suy, Tan Rã, là sự biến hóa cùng cực khi Thiên Can bị khắc, cũng chủ thành tựu nếu biến. Sự luận đoán của Tử Vi dựa trên lý Âm Dương Ngũ Hành và Tinh Đẩu, tính chính xác không thể xem thường. Nhưng nếu luận sâu thì chủ không khác môn Tứ Trụ, cái lý ngũ hành Lục Thập Hoa Giáp với 12 Thiên Can và 10 Địa Chi đã ngầm có sự tác động của Tinh Đẩu tới sự hình thành Sinh Vượng Mộ của ngũ hành.

Lộc Tồn chính là sự tồn tại, có Quốc Ấn và Bệnh Phù tam hợp. Hai sao này đi cùng Lộc Tồn thành bộ sao Tồn Bệnh Ấn. Đoạn trên giải thích vì sao Mệnh đóng ở vị trí Lộc Tồn khác vị trí Quốc Ấn và Bệnh Phù, tuy xét đều cùng tam hợp hóa về một trong ngũ hành nhưng Lộc Tồn đóng thủ tại cung khác việc nhìn thấy từ cung Tam Hợp. Bộ Tồn Bệnh Ấn - Phi Thanh Phục do an theo Can Chi trên cung số mệnh đóng ở đâu luận tính chất sao ấy, liên quan đến sự Sinh Vượng của từng cung trên Thiên Can. Tuy nhiên khi giao hội với các sao khác thì luận theo bộ sao vì tác động lên tam hợp, Như việc Lộc Mã giao trì ở Mệnh Tài Quan luận là mệnh có. Xét riêng cách thủ mệnh có tam hợp ảnh hưởng và chung cả Mệnh Tài Quan đều cho ra kết quả đúng nhưng mỗi cách cho ra hướng luận khác nhau. Cách Lộc Tồn thủ mệnh hoặc tam hợp kỵ nhất là gặp Không Kiếp hình thành cách tai họa, kiếp nạn không ngờ, cũng chủ không tồn tại, tồn tại chung với nạn. Đây là cách cục không mấy hay, tuy vậy không phải là phải chết yểu hay không thành công. Lộc Tồn gặp Không Kiếp tùy từng vị trí, tùy bàng tinh và chính tinh đưa ra các luận đoán. Trường hợp Lộc Tồn ngộ Không Kiếp tốt là tiền vào như nước, ra cũng như nước do đầu tư hoặc cứ có là sinh ra việc phải dùng đến tiền. Chỉ Lộc Tồn gặp bộ Không Kiếp không mấy xấu, nên có thêm các sao hợp với Không Kiếp để có thể phát phú hoặc quý trong nghịch cảnh, thuộc cách bạo phát. Lưu ý tối kỵ gia thêm bộ Đào Hồng hình thành cách tự gây họa lớn. Trong trường hợp này cần gặp Hóa Lộc hình thành cách Song Lộc và có mệnh Sát, Phá, Tướng và tránh gặp cung trọng điểm tức hội họp các sao tăng tính nghiêm trọng ở vị trí Không Kiếp. Lộc Tồn có Kình Đà ở trước sau kỵ gặp Hóa Kỵ ngay tại chính cung hình thành cách Lộc Tồn hiệp Kỵ. Một Lộc Tồn được xem là tốt phải tránh các sao như Triệt, Kỵ ở bản cung và Không, Kiếp, Phá, Cự, hội họp. Trong đó cách Lộc ngộ Triệt là đỡ xấu nhất, chỉ kỵ các chính tinh kỵ Triệt. Một Lộc Tồn gặp tài tinh Vũ Lương Tham Phủ hoặc Thiên Mã, Hóa Lộc tránh được các cách trên là kẻ giàu có.

Sunday, August 21, 2016

Tham Lang Dần Thân thủ mệnh






Tham Lang độc tọa vị trí Dần Thân



Một số bài viết người viết thường kết hợp các kiến thức chung với dung lượng lớn tích hợp vào cách cục khi có sự liên quan nên đưa bài viết này vào mục Kiến Thức Chung. Tham Lang ở vị trí Dần Thân chia hai trường hợp riêng ở Dần và Thân, các cung trong tử vi từ Tý đến Hợi đều mang những đặc điểm riêng mà các chính tinh tọa thủ ở mỗi nơi đều biến đổi tính chất ở các vị trí, tuy nhiên không phải ở các vị trí này mà phân ra miếu, vượng, đắc, hãm mặc dù đúng nhưng dẫn đến việc luận đoán khó khăn, các vị trí đắc hãm quan trọng là do thế đứng đắc lợi của 14 chính tinh, qua kinh nghiệm trừ các vị trí hãm và miếu là có sự phân biệt khá rõ nét về tính đắc lợi hoặc không của chính tinh, còn lại các vị trí khác luận như cách bình thường khi giao hội với bàng tinh. Các chính tinh ở vị trí miếu được cổ nhân đặt vì hàng loạt các thuộc tính từ sự sắp xếp chính tinh đến sự tốt xấu của cung hạn, sự phát sinh khi các sao lưu động vào nên việc lấy cung miếu hãm dễ dẫn đến sai lầm khi gặp cách cục xấu luận theo chính tinh miếu và gia giảm họa hại khiến việc luận đoán phức tạp do phải cân định cát hung khó khăn. Tham Lang là ngôi sao chủ ham muốn, tham vọng, là ngôi sao vĩnh viễn nhị hợp với Thiên Đồng nên tính chất bộ Đồng Tham cũng quan trọng như ở tại tam hợp Sát Phá Tham. Tham Lang Dần Thân tổ hợp Sát Phá Tham mạnh khi Thất Sát cư Ngọ là nơi đoạt được từ đối cung Vũ Phủ, nhưng ở tại chính cung mệnh có Tham Lang tọa thủ không mấy tốt đẹp khi có Liêm xung, bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm cũng đầy đủ khá mạnh. Tham Lang thủ mệnh nên phải lấy Tham Lang làm nòng cốt đoán vận hạn và cát hung khi giao hội các sao, tam hợp là thứ quan trọng làm nên tính cách như tiền bạc và công việc, nhưng lấy bàng tinh ở tam hợp làm trọng để luận tính cách sau khi phối hợp với các cách ở mệnh.


Tham Lang ở vị trí Dần Thân thuộc tứ sinh, tốt đẹp hơn vị trí Tị Hợi Tý Ngọ nhưng không đắc dụng  bằng ở vị trí Sửu Mùi Thìn Tuất Mão Dậu, đây là xét về tính cát lợi khi đóng ở các vị trí trong 12 cung, đi sâu hơn vào cách cục là các hạn trải qua và cấu trúc phân bố của chính tinh. Tham Lang là ngôi sao đặt tham vọng cho nhóm Sát Phá Tham nên đây là ngôi sao quan trọng nhất, hơn cả Sát Phá vì đây là nguyên nhân để Sát Phá tiến hành đến kết quả là đáp số của toàn bộ cách cục.
"Tứ Mộ Tham Hỏa bạo phát hầu bá chi tư".
"Tham Lang gia cát tọa Trường Sinh thọ khảo vĩnh như Bành Tổ".
Qua nghiệm đoán mệnh hạn có Tham Hỏa đồng cung đóng tại bất kỳ vị trí trên các cung đều có tính tham làm giàu rất mạnh, nếu ở hạn xem bản cung mệnh thuộc cách nào biểu lộ để đoán chính xác về lý do ham muốn tiền bạc của Tham Lang, ngoài ra cung Thiên Đồng cũng là động lực của Tham Lang. Các cách có Tham gia Hỏa tam hợp tính chất không rõ ràng như trường hợp đồng độ, cần thêm các sao tăng tính quan trọng để thành tổ hợp trọng điểm mới phát sinh mạnh để dễ nhận biết. Tham Lang là ngôi sao Tham Vọng, Tham Muốn các sách đều viết rõ, ngộ Trường Sinh thuộc cách bản thân có ý chí tham sống rất lớn, vì vậy nên khó gặp tai ương vì không có tính liều lĩnh gây nguy hiểm tính mạng, được phê là sống rất thọ. Tham Lang có hai đặc tính biến hóa rất rõ ràng là: Ham muốn Vật Chất và Ham muốn Tinh Thần. Đây là hai tính chất lớn của sự ham muốn dẫn đến cách Tử Tham có trường hợp thích hợp Tăng Đạo. Xưa nay một số sách man thư viết về các cách thích hợp làm tăng nhân, đạo sĩ là cách Chính Tinh hãm gia Sát Bại tinh thuộc loại võ đoán, không luận hết các cách biến hóa của tổ hợp. Trước hết trong xã hội xuất hiện các cách sai biệt dẫn đến tử vi sai biệt là việc Tham Vọng lớn nhỏ từng người khác hoàn toàn nhau, quan niệm đầy đủ về vật chất, mối tương quan giữa hạnh phúc và vật chất. Nói đến đây dễ hiểu khi cùng lá số mà mệnh giàu nghèo khác nhau khi cùng so sánh ở các nơi địa lý khác nhau. Cách hưởng phúc và hưởng may mắn dễ gia nhập vào chùa, hoặc học theo Đạo sĩ. Nhìn nhận từ chính bản thân người theo học thứ ấy mới biết mặt tinh thần hoặc vật chất. Cũng là ăn một bát cơm gà nhưng kẻ ở miền núi ăn cảm giác khác kẻ miền xuôi, tinh thần cũng vậy. Kẻ thích thiền, yoga, dưỡng sinh có rất nhiều loại từ nổi tiếng, có tiền, có địa vị,... và cái dẫn đến những kết quả như vậy là do tính cách ưa Thụ Hưởng Tinh Thần. Nếu bây giờ đặt chúng ta vào hoàn cảnh của họ thì không thể sống nổi, như việc làm lính vào quân đội suốt ngày quanh bốn bức tường thì ham muốn của họ đơn giản là được ra ngoài, được nói chuyện. Việc lấy lính nghĩa vụ có đợt kẻ giàu, kẻ nổi tiếng cũng phải vào. Vì vậy, Tham Lang là Tham Vọng, cũng là ngôi sao đắc lợi chỉ cần một Hỏa Linh cũng đủ bằng bao nhiêu cách cục hay khác. Phú tử vi thường lấy các địa vị như  Công Khanh, Tam Thai, Hầu Bá,.... và các cách Đại Phú,... thực ra cũng là do phần lớn tính cách mỗi người mà ra, mỗi người cũng phân biệt với nhau bằng tính cách. Trừ các trường hợp sung sướng địa vị từ phụ mẫu truyền lại tử vi cũng lưu rõ ở cung an Thân, ngay tại mệnh cũng mang các dấu tích ấy.


Tham Lang Dần Thân trong đa số không ưa gặp Thái Tuế chủ bày tỏ lập trường thái độ như hầu hết chính tinh khác, vì đơn giản tôi bày tỏ lòng ham muốn vật chất, ham muốn tinh thần thì thường không mấy hay, như tham tiền, tham sắc,... bày tỏ ra làm xấu bộ Tuế Hổ Phù, tuy nhiên tốt hay xấu là kết quả của bàng tinh, nếu có bộ Tuế Phượng có Tam Hóa luận rất hay, một số cách bày tỏ ham muốn hay như tham muốn lớn cho toàn nhân loại hòa bình, tham muốn tìm ra thuốc chữa Hiv, ung thư,.... Một số tham muốn lớn gây họa cho cả thế giới hoặc cho dân tộc như tham vọng của Hitle, tham vọng của Pháp ở Việt Nam. Tham Lang gia Khoa Quyền được phê học nghiệp tinh thông vì ham muốn bằng cấp, ham muốn khám phá khoa học của Sát Phá. Tam Hóa đi với bất kỳ chính tinh nào cũng tốt, trừ khi bị Không Kiếp khiến Khoa thành họa to, Quyền thành kẻ bị mất quyền, họa vì quyền,... các sát tinh khác Khoa Quyền Lộc bất kỵ mà trong nhiều trường hợp còn có khả năng chuyển hóa thành tốt đẹp. Tham Lang không kỵ Tam Không chủ cách "Vong" tức mất như đa số các chính tinh khác vì Tam Không là nhân tổ để khiến Tham Lang biến hóa thành tổ hợp Ham muốn tinh thần.

Saturday, August 20, 2016

Tử vi và Vấn đề chính trong giải đoán P1






Phần 1: Man Thư và Chính Thư trong các lý thuyết trong Tử Vi.




Man thư là những tài liệu của Tử Vi không chính gốc, đa phần là do không muốn việc phổ biến cách luận đoán tử vi để giữ vị thế của bản thân trong chính thời đó, thường gặp là an sai các vị trí sao, phân tích sai tính chất, thêm các cành lá không cần thiết gây rối ren, lưu truyền bộ chính thư có sửa đổi để luận đoán không chính xác. Một loại man thư nữa là sử dụng kiến giải và kinh nghiệm của chính bản thân người nghiên cứu tử vi để sử dụng trong cách luận đoán, sau đó lưu truyền lại cho hậu nhân dần dần mất đi nguyên bản. Trong tử vi hiện tại có rất nhiều trường phái với cách luận đoán phong phú, tuy nhiên không phải là các cách luận đoán ấy là sai, vì tử vi thường được nghiên cứu bởi các nhà nho học thời trước am hiểu triết dịch lý rất sâu sắc, ngũ hành âm dương nên có những cách phát kiến khác nhau, không thể đánh đồng với hạng muốn che giấu giữ làm lợi cho mình mà sửa đổi cách luận đoán. Như việc Khôi Việt đang được sử dụng nếu biết bộ Âm Dương quý nhân hoàn toàn có thể an ra bộ sao này, vậy mà rất nhiều man thư nhầm lẫn tranh cãi vị trí các sao, ngay ở các sách lưu truyền khá nổi tiếng cũng an nhầm vị trí Việt Khôi với tuổi Đinh và Canh.


Muốn tìm lại cách an đúng thì phải kết hợp giữa nghiệm lí và các kiến thức căn bản đúng của tử vi. Thường thì man thư không chỉnh tất cả từ phép lấy cung mệnh đến an các chòm sao dai vì rất lộ liễu, luận đoán sẽ sai ngay từ bước đầu. Việc sai sót thường ở bàng tinh và Tứ Hóa để tạo ra vừa đủ thông tin sai lệch không quá lớn. Vậy khi áp dụng chính xác tính chất của từng sao Thiên Khôi và Thiên Việt vào các trường hợp chắc chắn đúng sẽ cho ra kết quả chính xác khi nghiệm lí. Ngày nay, một số kẻ xét về tử vi nghiên cứu chưa đến 3 năm, trí tuệ căn cơ cũng chưa chắc đã lớn lấy man thư ra hành nghề xem tử vi lấy tiền nhằm trục lợi. Muốn xem tử vi trước hết phải có gốc, phải có thời gian thu thập lại toàn bộ thông tin để kiểm nghiệm tính chính xác thì mới nên xem cho người khác, bằng không cứ đè theo sách gặp câu phú thấy giống tổ hợp sao của người ta là không cần phán trường hợp, không cần biết sao có đúng hay không, tính chất có chính xác, phán các câu xanh rờn như đại họa sát thân, hoặc là hạn may mắn đánh số đề,... thì đấy là kẻ phá hoại tử vi.


Kẻ biết xem tử vi thì phải biết địa lý là số một, vị trí tình hình quốc gia là quan trọng nhất. Thời phong kiến mệnh phụ nữ cần cường cung Phúc Phối Di tốt hơn mệnh, nếu bây giờ luận vậy phải tùy trường hợp. Hay mệnh vua thời xưa có quyền sinh sát, tài sản tính mạng cả đất nước là của vua, bây giờ tổng bí thư tuy lớn nhất nhưng Quốc Hội tức cả một hội đồng còn lớn hơn, vì mọi quyết định đều do Quốc Hội tức rất nhiều con người thông qua. Hay việc tình hình đất nước các năm 45,46 khó khăn khiến dân số chết do đói rất nhiều, ngày nay cũng sẽ có cách cục tử vi rất nhiều như xưa nhưng khó có người đói ăn ở đồng bằng, chưa nói đến việc chết đói. Những thứ mới sinh ra cái chết mới như tai nạn máy bay, do điện giật, do ăn phải thực phẩm độc hại,.... Như việc Nhật thả 2 quả bom nguyên tử chết lập tức cả trăm nghìn người khồn phải đều có số chết do tai họa trên trời rơi xuống, lắm kẻ còn đang trong hạn tốt đẹp về tiền bạc, địa vị,... Đến đây nhớ lần trước ngưòi viết có dịp quen một cụ ông sống sót và thương nặng dau hai vụ nổ bom hạt nhân, ông ta sinh sống ở Fukushima và sau vụ nổ hạt nhân ở nơi ông ta đnag làm việc, ông ta về quê nhà ở một bệnh viện Nagashaki và hứng chịu vụ nổ thứ hai. Và cách giqir thích là ông ta may mắn, vậy cách sống sót ở đây chính là mệnh và hạn may mắn, tức có sao Thiên Lương tốt đẹp để luận như câu phú " Phúc Ấm thủ mệnh bất phạ tai ương".


Vì vậy, cổ nhân đã nêu rõ "Vận con thua vận cha, vận cha thua vận làng, vận làng thua vận nước, vận nước thua vận thiên hạ". Rất đơn giản với một lá số giống nhau mà cha mẹ giàu nghèo khác nhau cho ra kết quả cuộc đời khác nhau, nhìn qua cung đệ tam nhân là Phụ mẫu đơn giản cho ta biết về tình cảm ta với phụ mẫu mà một số nét, giàu nghèo cha mẹ phải xem ở số cha mẹ. Và một bí mật nữa của tử vi là chúng ta hoàn toàn thay đổi được tính cách để cuộc sống tốt lên, giảm vớt tai ương họa hại như một người đang chấp hành an tù chung thân thì vận phát tài và vận họa ra đường với anh ta là không có ý nghĩa gì nữa, một nhà sư xuất gia thì cung Phối tốt đẹp vợ giàu sang phú quý đến đâu cũng bất luận cung này, rất đơn giản và không cần dùng những từ khó hiểu như các sách muốn viết theo lối mô phạm. Vì vậy nếu có một kẻ nói xem chính xác 100% thì kẻ đó là kẻ nói láo, tuy nhiên vô hình chung các tính cách của con người khó sửa nên chúng ta dường như đang đi đúng quỹ đạo của vận số. Chính tinh chính là tính cách nổi bật mỗi người mang phải, tại sao gọi là nổi bật?. Vì tất các tính cách đều có trong một con người, một kẻ sát nhân ắt cũng có tính nhân hậu, nhưng đó là tính cách chìm không nổi lên, mà hắn bị tính cách phản nghịch tác động mạnh nên gọi là Chính Tinh, kẻ ác có thể cắn rứt lương tâm vào hạn các sao hiền lương, khi hạn đến tính cách chìm nổi lên, vì vậy sinh ra cát hung. Vì vậy, với đa phần các chính tinh khó thoát nạn khi gặp Không Kiếp, nhưng Sát Phá qua có thể còn đoạt được thành công chính vì tính cách nổi khi mệnh có Sát Phá là cướp đoạt phá, hung tính lớn hạn Không Kiếp ta là kẻ cướp đoạt phá vỡ tai kiếp không ngờ. Luận tử vi phải nghiệm lí từ việc luận tính cách vì đương số dễ cho ta biết thông tin và kiểm nghiệm chính xác tính cách của mình.

Bộ sao Khôi Việt




Tính chất bộ sao Khôi Việt




Bộ Khôi Việt là hai sao Thiên Khôi và Thiên Việt, đây là hai trong lục cát tinh của tử vi là Khôi Việt Xương Khúc Tả Hữu. Gọi là lục cát chưa hẳn đã là cát, như việc người quan trọng chức vị càng to thì hạn xấu đến họa càng lớn. Lục cát tinh suy rộng ra cũng chỉ là các bàng tinh, nhưng tính chất của các sao này giải các cách xấu do Lục Sát tốt hơn các bàng tinh khác, như việc cũng sát tinh nhưng Không Kiếp gây hại cho hầu hết các cách cục, trong khi Kình Đà hung tính yếu hơn rất nhiều nếu bố cục chỉ có các sao này, còn việc gia tăng thêm các cách khác thì chưa thể xác định và mỗi bộ đều có các cách kỵ gặp hơn nữa. Thiên Khôi và Thiên Việt được gọi là Khôi Việt Quý Nhân, không an tại hai cung Thìn Tuất. Khôi 2 xét chung có hai tính chất quan trọng nhất là cứu giải chính tinh hãm trở nên đắc ý và làm tăng giá trị cho toàn bộ cách cục, ngoài ra Khôi Việt còn chính là văn tinh.
" Khôi tinh lâm mệnh vị liệt tam thai."
" Nhật Nguyệt phản bối tối hỉ ngoại triều Khôi Việt".

Thiên Khôi chủ to lớn, Thiên Việt chủ phát sinh. Cách Việt Linh Hình chủ phát sinh tai họa giáng xuống, cách Khôi Hỏa chủ lửa cháy lớn, cách Khôi Hình chủ tội lớn. Vì vậy Khôi có giá trị hơn Việt về độ quan trọng, và Việt có giá trị hơn Khôi về sự phát sinh. Các sự phát sinh hợp lí như phát sinh tiền của, may mắn, phát phúc. Thiên Khôi và Thiên Việt làm tăng giá trị của Khoa Quyền Lộc lên nhiều, vì chủ quý hiếm nên gọi là quý nhân, khi có Tam hóa thì bản thân là quý nhân cho người khác, tức bản thân có địa vị cao đến rất cao.
" Khoa Quyền ngộ Khôi Việt dị thành công".

Bộ sao này chính là Dương quý nhân và Âm quý nhân trong Dịch Lý, vì vậy có cách an giống hai sao này nên tránh cung Thìn Tuất La Võng, tính chất cũng tương tự. Khôi Việt trong tử vi chính là chữ Quý. Bộ Khôi Việt rất kỵ Thiên Hình hình thành cách Khôi Hình và Việt Hình đã phát sinh tai họa, trong lục cát thì Tả Hữu và Xương Khúc đều hóa, Khôi Việt không hóa vì bộ sao này sinh ra từ Thiên Can tức là năm tính bao trùm lớn, hai sao Tả Hữu và Xương Khúc là do Tháng Sinh sinh ra. Khôi Việt gặp Hỏa Linh hình thành cách Khôi Hỏa và Việt Hỏa khômg hay, hai sao này gặp Không Kiếp bất kỵ bằng Hỏa Linh Kỵ Hình.
" Việt Linh Hình ngộ Cơ Lương, hoặc là Nhật Nguyệt ắt chờ lôi kinh".
Nếu gặp Thiên Hình phải có các sao hợp cách với Hình như Khoa, Binh Tướng Ấn tránh vào các bộ Kỵ Hình, Kình Hình, Linh Hình,....

Bộ Khôi Việt an như bộ Âm Dương . Trong Thông Thư có viết : Quách Cảnh Thuần lấy mười Can thì Quý Nhân là đứng đầu cát thần, hết sức tĩnh mà có thể chế ngự mọi chỗ động, chí tôn mà có thể trấn được phi phù; cho đến là Khôn, hoàng trung cũng thông lý. Chính là cái đức của Quý Nhân. Ấy là Dương Quý Nhân xuất ra ở Khôn Tiên Thiên mà đi thuận, Âm Quý Nhân xuất ra ở Khôn Hậu Thiên mà đi nghịch Đức của Thiên Can, Mùi đủ là Quý, mà hợp khí của Can đức chính là Quý vậy. Khảo Nguyên nói rằng: "Họ Tào với Thông Thư hai thuyết đều có nghĩa. Nhưng họ Tào thời lấy Dương là Âm, lấy Âm là Dương. Thế nên Dương thuận Âm nghịch, Dương trước Âm sau, đó là lý tự nhiên vậy nên lấy khởi từ Mùi mà đi thuận là Dương; khởi từ Sửu mà đi nghịch là Âm, mới nói là an Quý Nhân. Can Đức là hợp Phương với Thân, tại sao không dùng Can Đức mà còn dùng Can nào cho hợp? Đức là Thể, hợp thời dùng nó, hợp Can của Đức, chỗ đó dùng tất đại cát. Vì thế lấy tên là Quý Nhân. Bộ Quý Nhân là nơi hữu tình của ngũ hành, Bộ Khôi Việt trung bình dễ gặp, tỉ lệ 12 cung thì là 1/4 số người có ở tam hợp mệnh, chưa tính đến tam hợp của cung an Thân có bộ này cũng luận tốt. Nhưng việc để Khôi Việt đắc cách khó gặp hơn, và tùy các mức độ. Cũng Khôi Việt nhưng hình cách các cách Khôi Việt củng chiếu, tọa quý hướng quý, Khôi Việt tam hợp chiếu, chỉ có Khôi Hoặc Việt đều luận chia ra các trường hợp khác nhau về tính chất.


Cũng có Khôi nhưng Khôi Khoa khác Khôi Kỵ. Và quan trọng hơn là các sao tăng tính quan trọng như Tuế Ấn Khôi Đại Tuần Khoa Hồng, mệnh xét trước tiên không luận mệnh mà phải xem thế đứng của các sao chủ tầm quan trọng, nếu một tổ hợp chứa 4 sao trở lên luận là tổ hợp trọng điểm, hung cát tinh lưu vào kết quả hiển hiện, rõ ràng trước mắt vì các sao chủ tầm quan trọng khiến phúc họa bộc phát rất lớn, có thể ảnh hưởng đến tính mạng. Mệnh tầm thường thì thường khó có sự hội tụ tổ hợp trọng điểm trong 12 cung, tuy vậy còn tốt hơn là có rồi phát tai họa lớn. Sau đó xét thế đứng của 14 Chính Tinh ở 12 cung rồi mới xét đến Mệnh Tài Quan. Mênh tốt là khi các cung sao trọng điểm phân bố ở Mệnh Tài Quan có bàng tinh hợp cách, tìm các sao Khoa Quyền Lộc Kỵ để đánh giá thêm về công năng của chính tinh khi chuyển hóa. Nếu một lá số có tổ hợp trọng điểm ở nơi khác hợp cách luận là tốt, vì tiểu hạn và đại hạn đại hạn tối đa 46 tuổi sẽ đi qua các cung ấy. Khôi Việt là bộ sao tăng tính quan trọng hoặc nghiêm trọng của sự việc khá lớn, bộ sao này thích hợp với tất cả các chính tinh, gặp Thiên Lương là cách may mắn phát sinh, gặp tài tinh Vũ Khúc Lộc Tồn dễ phát tài, gặp Thiên Đồng phát phúc và gặp Sát Phá Tham nâng cao vị thế cho nhóm này. Bộ Khôi Việt có các cách giáp cũng đẹp, chủ luận người thân là quý nhân của mệnh, và hạn đi qua dễ có học thức vì Khôi Việt là văn tinh.

Bộ sao Thai Tọa





Luận về bộ sao Tam Thai Bát Tọa




Thai Tọa có tên riêng là Tam Thai và Bát Tọa, được an theo bộ Tả Hữu, đây cũng là lý do mà một số vị trí của Tả Hữu được luận là đẹp, sinh ngày lẻ thì cùng Âm Dương với Tả Hữu và ngày chẵn thì nghịch Âm Dương với Tả Hữu. Tam Thai và Bát Tọa là hai sao chủ địa vị, thích hợp ở cả Thân Mệnh thường giảm tính động của chính tinh. Thai Tọa các sách thường nhận định là tiểu tinh, theo nghiệm lí thì tất cả các sao đều cần thiết, chỉ là quan trọng hơn kém, bộ Thai Tọa cần thiết để gia tăng độ số cho một lá số tử vi tốt. Tam Thai tượng là trán, Bát Tọa là cằm, trong quá trình kiểm nghiệm hình tướng qua sao, mệnh nếu có bộ Thai Tọa thì thường trán và cằm nổi bật, gặp Kình Dương thì nhô ra, đồng cung với Đào Hoa hoặc Phượng Các thì đường nét trên trán và cằm đẹp. Cằm biểu tượng cho sự sang trọng, trán biểu tượng của trí lực.
" Bát Tọa hướng Thái Dương thị tụng ư cung cấm"
Thai Tọa được xếp vào dạng đài cát tinh,
" Mã ngộ Tam Thai anh hùng vô đối".
" Mộ trung Thai Tọa văn kiêm võ lược".
Thai Tọa đồng cung tại Sửu Mùi tính hiển hiện rất lớn, mệnh thân an tại đây thường chủ có phong thái an nhàn, không vội vã, thích hợp việc binh cần sự lãnh đạm suy xét giỏi. Bộ Thai Tọa đi cùng Thiên Mã khí độ lớn như cách Kình tứ mộ Mã triều lai vì Thiên Mã thuộc bộ Tang Hư Khách.

Bộ sao Thai Tọa cư Quan Lộc sớm có danh chức vì Tam Thai và Bát Tọa chủ địa vị, việc làm cũng an nhàn. Thai Tọa còn chủ thừa hưởng địa vị từ tiên tổ. Thai Tọa là cát tinh như bộ Long Phượng, gặp sát tinh không trợ hung, Thai Tọa Quang Quý là 4 sao duy nhất an theo ngày, trong đó Quang Quý an theo Xương Khúc và Thai Tọa an theo Tả Hữu. 4 sao ngày này khó bị phá cách, bổ trợ cho cát tinh tăng thêm độ cát hóa. Tam Thai chính là số 3 và Bát Tọa là số 8. Cách giáp Thai Tọa cũng hay, kề cận cha mẹ và anh em nên được an nhàn, tức cũng gặp hạn kế sau cung mệnh là tuổi thanh niên được cha mẹ anh em giúp đỡ. Thái Dương hỉ gặp Bát Tọa hình thành cách ngẩng mặt nhìn đời, cũng chủ cao quý.

Monday, August 15, 2016

Thiên Đồng cư Thìn Tuất thủ mệnh





Thiên Đồng ở vị trí cung Thìn Tuất



Thiên Đồng thuộc Nam Đẩu Tinh, triết tự chữ Hán tên riêng là Phúc, chủ về phúc đức họa hại của con người. Chữ Phúc có mặt hầu hết tất cả mọi nơi. Tại lễ cưới hỏi mọi người chúc Phúc cho cô dâu chú rể. Một người vừa trải qua tai nạn mà không mảy may bị thương được ngợi khen là Phúc lớn, Mệnh lớn và từ Phúc còn sử dụng được trong quy mô Địa Vị và Tiền Bạc. Và các câu nói về Phúc rất nhiều trong cuộc sống thường nhật của chúng ta.
" Phúc như Đông Hải, thọ tỉ Nam Sơn".
" Phúc bất trùng lai họa vô đơn chí".
Và từ Phúc còn được sử dụng trong từ ngữ hằng ngày như Hạnh Phúc, Phúc Thọ, Phúc Hậu, Phúc Đức, Hưởng Phúc,... Vì vậy, Thiên Đồng là một sao quan trọng chủ Phúc trong tử vi, nhập mệnh hợp cách chủ bản thân có Phúc để dành khi họa mang ra dùng hoặc phúc hưởng thụ ngay từ lúc sinh ra.
" Thiên Đồng nhập mệnh bình sinh phúc hậu"
" Thiên Đồng nhập mệnh hoán cải vô thường".
Thiên Đồng tượng cơ thể là cái bụng, trong nhân tướng học bộ phận này cũng có tên là Phúc. Thiên Đồng và Thiên Lương là hai sao may mắn nhất của tử vi.
" Ấm Phúc tọa mệnh thân bất phạ tai ương". Thiên Đồng chủ Phúc còn Thiên Lương chủ thọ, Thiên Đồng là đứa trẻ còn Thiên Lương là cụ già cao tuổi. Trẻ nhỏ mang nhiều niềm vui đến hơn cụ già, một đám trẻ con quây tụ thì có phúc khí, và cái bụng phệ no đủ thời phong kiến cũng tượng trưng cho Phúc. Xét về phúc thì Thiên Đồng là kẻ hơn Thiên Lương vì kẻ may mắn không tốt bằng kẻ phúc dày. Phúc và may mắn phải phát sinh, từ các sự việc vì bản thân may mắn và phúc không có tính thường trực, vì vậy cần có Thiên Việt để kích hoạt việc tạo phúc và hưởng phúc.
" Phúc phùng Việt diệu đinh thị hải hà dục tú".
Cách Đồng Việt là cách phát phúc, cũng là cách làm việc thiện. Mệnh Thiên Đồng tính cách ưa làm việc xã hội, vì Thiên Đồng cũng có nghĩa là tập thể, cộng đồng. Đi sâu vào luận đoán thì cách Thiên Đồng ở Thìn Tuất có đủ bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương không thừa không thiếu. Với Thiên Đồng cư Thìn thì bộ Cơ Âm sáng và Thiên Đồng cư Tuất là khi Cơ Âm lạc hãm.


Cách sách đều mô tả Thiên Đồng thìn tuất lạc hãm, đây là vị trí không mấy đắc ý của Thiên Đồng khi mà tuy đủ cách Cơ Nguyệt Đồng Lương nhưng lại bị Cự Môn xung. Trái với " Lương xung tọa thủ kiêm thọ ấm", Cự Môn là thị phi tinh kỵ xung chiếu với Thiên Đồng, ở đây vị trí La Võng dễ bị vu oan, nên luận là không mấy hay, đương nhiên còn nhiều yếu tố khác liên quan đến bố cục hạn di chuyển, cung nhị hợp. Như cách Cự Cơ Đồng ở Mão Dậu và cách Cự Đồng Sửu mùi thì mệnh đóng ở Thiên Đồng không mấy tốt. Cách Thiên Đồng Thìn Tuất tối kỵ gặp Không Kiếp vì hình thành cách cùng chung tai họa khó thoát do trời đất, dù Không Kiếp đắc địa, cần gặp bộ Khôi Việt để tăng tầm quan trọng của Chính Tinh khi lâm hãm địa, ở đây không thể có bộ Khôi Việt ở Thìn Tuất, cách giáp Khôi Việt của tuổi Bính Đinh trong trường hợp này không tốt bằng việc có ở tam hợp. Mệnh Thiẻn Đồng cư Thìn Tuất hợp với tuổi Đinh. Ở vị trí cung Thìn được cách Long Hà Kỵ và Tam Hóa rất tốt. Ở Tuất được giáp Khôi Việt gia Tứ Hóa Khoa Quyền Lộc Kỵ có bộ Tồn Ấn Bệnh thành cách Song Lộc, xa lánh được Không Kiếp luận là thượng cách hình thành vô số cách cục tốt đẹp. Thiên Đồng Thìn Tuất không nên gặp thêm Hóa Kỵ, nếu không có cách sao giải chủ mệnh lo lắng tào lao, lại gia sát hình là hạ cách.


Các sao ở vị trí đắc ý nếu gặp bàng tinh hợp cách trở nên rất tốt đẹp, hơn việc ở bố cục hãm địa mà được cát hóa trở thành tốt, vì hãm hay đắc liên quan đến vị trí sắp xếp phối hợp của 14 chính tinh trên lá số tử vi, và tiền nhân xét ở đó không phải chỉ riêng mệnh tài quan mà tất cả mãn cuộc cho ra đáp án như vậy. Như việc mệnh ở Thiên Đồng Thìn Tuất thì tất cả các cung khác đều thay đổi tên, hạn xuất phát thay đổi, vị trí lục hợp, xung chiếu, nhị hợp thay đổi. Vì vậy tuy tam hợp với mệnh quan hệ chặt chẽ nhiều lúc coi như một, nhưng mệnh Thiên Đồng Thìn Tuất khác Cơ Âm Dần Thân, bản cung mệnh hoàn toàn khác nhau, khi đoán hạn cũng phân biệt rõ bản cung và cung tam hợp.

Sunday, August 14, 2016

Thất Sát Tí Ngọ thủ mệnh




Thất Sát ở vị trí Tí Ngọ thủ mệnh




Thất Sát cư Tí Ngọ thủ mệnh thuộc cách " Thất Sát Ngưỡng Đẩu" và " Thất Sát Triều Đẩu" được phân làm hai cách đều hay, đi sâu vào xem xét thì Thất Sát cư Ngọ có Tham Lang cư Dần chủ đặt tham vọng, tham mưu không được tốt lắm, lại được bù lại bởi với bộ Âm Dương đồng cung Sửu hợp với nam nhân. Với cách Thất Sát ở Tí có bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm liên kết với nhau không mấy chặt chẽ vì Tử Tướng lâm Địa Võng nên Thất Sát có cơ hội cướp đoạt ở đối cung tức Vũ Phủ cư Ngọ dễ dàng hơn.Vì vậy luận Thất Sát ở vị trí Tí Ngọ không phân biệt vì cả hai đều mang khuyết điểm gần như nhau. Cách cục Thất Sát Tí Ngọ là cách cục chủ liên quan đến tiền bạc. Vũ Phủ là sao tài sản Vũ Khúc đi với cái kho Thiên Phủ, xung chiếu ở bên ngoài tức ta Thất Sát hay gặp chuyện liên quan đến tiền bạc, khác với Thất Sát Dần Thân gặp Tử Phủ tức liên quan đến địa vị bên ngoài, cái Thất Sát thấy ở đối cung chính là cái giành được nếu Thất Sát tốt. Mệnh Thất Sát chính là đoạt và mất, là quan sát và mất quan sát, cái Thất Sát đoạt là ở đối cung.


Sát Phá Tham chỉ ba sao sánh ngang ngửa với cách Tử Phủ Vũ Tướng Liêm. Sát Phá Tham bản thân mang hung tính của Sát Phá nên cách sách đều liệt vào hạng hung tinh, điều này còn tùy thuộc vào bàng tinh đi chung. Mệnh Thất Sát tối kỵ cung Thân Mệnh đồng cung, tức sinh giờ Tí Ngọ gặp cách yểu tử nhất là khi có chiến tranh, tai họa xảy ra. Cổ nhân có viết :
" Thất Sát lâm thân chung thị yểu".
Thất Sát là sao chủ đoạt hoặc mất, khi đoạt khi mất nên rất kỵ ở cung an Thân vì Thân Thể không thể bị mất hoặc thêm vào, dễ thêm đao kiếm thương tích vào người và mất các bộ phận như chân tay đến đỉnh cao là mất mạng. Hạn gặp lưu Bạch Hổ hay Lưu Hình Kỵ vào cung an thân dễ gặp hung hiểm. Thất sát ở vị trí Tí Ngọ Dần Thân là các vị trí đắc ý của chính tinh này.
" Thất Sát Tí Ngọ Dần Thân tước lộc vinh xương."
Trong khi bộ Không Kiếp là tối hung thần thường có mặt tại hạn chết thì với mệnh Sát Phá tốt cần đến hạn Không Kiếp hình thành cách thành công nhờ Không Kiếp, tạo ra những thành tích không ngờ và phá vỡ mọi kiếp nạn. Cần phân biệt Sát Phá thủ mệnh có Không Kiếp và Sát Phá thủ mệnh hạn gặp Không Kiếp, cách thứ hai mới là cách đúng của Sát Phá Tham ngộ Không Kiếp bạo phát. Mệnh Thất Sát Tí Ngọ không mấy kỵ Không Kiếp đơn thủ không gia thêm các cách xấu. Thất Sát tối kỵ cách Kỵ Hình hình thành cách. " Kỵ Hình Thất Sát tương phùng, thiếu niên yểu chiết như dòng Nhan Uyên". Cách Sát ngộ Kỵ Hình chủ bị giết, có rất nhiều mệnh thuộc cách này, hạn có Lưu Kỵ Hình nhập mệnh hoặc hạn tối kỵ. Vì vậy kỵ nhất với Thất Sát chính là bộ Kỵ Hình, thứ hai là Bạch Hổ.


Một số tài liệu viết Sát Phá Tham không nên ngộ Xương Khúc vì hình thành cách " Tham Xương phấn cốt toái thi" tức tan xương nát thịt là hoàn toàn võ đoán. Thất Sát hỉ gặp Xương Khúc tránh được bộ Không Kiếp ở cường cung, tức bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm và Sát Phá Tham đều an toàn, trừ đóng Thân ở vị trí Thất Sát là xấu, vị trí Vũ Phủ không mấy tốt, các vị trí khác đều khá đẹp. Khi đó, Sát Phá Tham gặp Không Kiếp tại hạn rất tốt, lưu ý là Không Kiếp tuyệt đối không gia thêm các cách xấu khác như Kình Đà Hỏa Linh Hình Việt. Thất Sát cư Tí Ngọ khó gặp bộ tam hóa, vì vậy nên cần gặp Khôi Việt chủ tăng tầm quan trọng, gặp Thái Tuế hình thành cách Sát Tuế dễ có bộ Tứ Linh Cái Hổ Phượng Long. Kỵ gặp Đào Hồng đi với Sát Phá Tham không hay, cần Tuần Triệt ở tam hợp để phòng trừ tốt. Sát Phá Tham tự lực rất lớn bất kiến sát diệu luận là cát. Nếu có Hỏa Linh hình thành cách Tham Hỏa giàu có nhanh chóng, Tham Linh tham quyền. Chỉ mỗi cách Tham Hỏa đã được hình thành tên riêng Hỏa Tham Tương Phùng.
" Tham Linh tịnh thủ tướng chi danh".
" Hỏa Tham là bạo phát cách".
Qua nghiệm lí hạn đến Hỏa Tham tính tham vọng về tiền bạc rất mạnh mẽ, nếu có Triệt luận là lòng tham đã bị trừ bỏ, Tham Lang không nên đáo đầu Triệt, nếu Tuần tại bản cung tốt đẹp hơn, hưởng cách Lòng tham đúng chỗ, tham vọng lớn. Vì vậy Sát Phá Tham không cần Tam Hóa, chỉ cần đắc ý và được cát tinh vây chiếu giảm vất vả lao đao để giành thành tựu. Thất Sát Tý Ngọ kỵ gặp Lộc Tồn đồng cung hình thành cách Tồn Phá và Tồn Sát không mấy hay. Hỉ được Phá Quân Hóa Lộc thuộc cách khám phá mà ra tiền của, cách này nếu có thêm Tham Hỏa luận đại phú. Thất Sát Tí Ngọ kỵ bộ Phi Phục Thanh, Sát Phá là hai sao duy nhất trong các chính tinh kỵ Thanh Long vì hình thành cách chiến tranh. Qua nghiệm lí một Thất Sát tốt tại Tí Ngọ qua hạn Đồng Cự Cơ hoặc Âm Dương Lương có Không Kiếp, nhất khi Không Kiếp đồng tọa Tị Hợi phát rất nhanh như phú viết "phát dã như lôi". Một Thất Sát xấu hạn Không Kiếp là phơi xác ngoài chiến trường, bị giết, giết người, bị áp bức, bóc lột.



Đồng Lương Dần Thân hội





Đồng Lương ở vị trí Dần Thân



Tổ hợp Đồng Lương ở vị trí Dần Thân là nơi đắc cách nhất của bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương do một Phúc tinh và một Thọ Ấm tinh thủ mệnh. Cung Mệnh khác với cung tam hợp vì nơi cung mệnh là nơi tính cách, bản thân khác với tam hợp là nơi của Tiền Bạc và Địa Vị tuy quan hệ mật thiết nhưng chủ luận theo bộ nên với Đồng Lương tam hợp không tốt đẹp bằng nhập mệnh. Như việc Thiên Đồng ở Tị Hợi không mấy đắc ý nhưng cung Quan Lộc có bộ Cự Cơ rất tốt. Tuy vậy Mệnh Tài Quan là ba thứ tất yếu làm nên tính cách con người và bổ sung cho nhau, và khi luận đoán thì lấy tam hợp như bản cung, trừ các sao theo bộ với bố cục xung chiếu riêng và có ý nghĩa riêng như trục Tồn Phi, nếu nằm vị trí Bệnh Phù ở Mệnh đoán khác, vị trí Tồn Bác đoán khác, nhưng nếu mệnh ở Bệnh Phù thì vẫn áp dụng các câu phú có Lộc Tồn như thường, vì Lộc Tồn không ở Mệnh thì ở Tài Quan đều quan trọng giá trị như mệnh, vì các chính tinh ở tam hợp tác động qua lại với nhau chặt chẽ. Nên việc luận toàn tổ hợp phải dùng đến cả tam hợp để ra các luận đoán riêng tổng thể. Ví dụ như Đồng Lương Dần Thân có Bệnh Phù thủ mệnh dễ làm lương y vì có cách Lương Bệnh, nhưng luận Đồng Lương Dần Thân ngộ Lộc Tồn tam hợp thuộc cách may mắn về tiền bạc cũng chính xác, như vậy  đơn giản để phân biệt khi luận bản cung và luận cả tổ hợp. Bộ Đồng Lương Dần Thân có ưu điểm và khuyết điểm riêng như tất cả cách cục khác, với Tử Vi thì đây thuộc hạng Thượng Cách.

" Dần Thân tối hỉ Đồng Lương hội".

Bộ sao Đồng Lương ưa gặp và cần thiết nhất là Khôi Việt hình thành cách Lương Việt, Đồng Việt là cách phát phúc và phát may ( tuy nhiên do có Cơ Lương tối kỵ thêm Linh Hình thành cách Việt Linh Hình tối kỵ Cơ Lương ) gia thêm Lộc Tồn hình thành cách Phúc Thọ trường tồn, có thể dung nạp Hỏa Linh nếu có thêm Quyền. " Đồng Lương viên ngộ Khôi Quyền, tăng phùng Linh Kỵ giao lai Song Lộc hoạch dị phú cường, hình thành cách Linh Kỵ Quyền ngộ Song Lộc rất hay, hóa giải khuyết điểm của cách cục Đồng Lương do có Khôi tức người đứng đầu và cách Linh Kỵ Quyền mang lại quyền uy cho nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương. Thực chất nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương yếu nhất về khả năng lãnh đạo trong các cách cục lớn như Cự Nhật có Cự Môn lãnh đạo, Sát Phá Tham có Phá Quân, Tử Phủ Vũ Tướng Liêm có Tử Vi nên nhóm sao này cần bàng tinh chủ đứng đầu như Khôi, Kình thủ hoặc tam hợp mệnh, nếu không phải có một vài hóa hoặc Thái Tuế, Phượng Các để thành công và nổi danh. Tính chung thì mệnh Đồng Lương Dần Thân khá hiếm gặp.

" Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân".

Đồng Lương Dần Thân hợp với tuổi Đinh, vì được Tam Hóa theo thứ tự Nguyệt Đồng Cơ đủ bộ Khoa Quyền Lộc chủ mệnh đại phú đại quý, nếu ở Dần thêm cả Lộc Tồn thành bộ Song Lộc tránh Không Kiếp thủ chiếu dù gia sát tinh hạng nặng cũng không bị phá cách, tuy nhiên cung an Thân và hạn không được quá xấu nếu không dễ biến chuyển thành cách không may, hoặc còn may mắn sống sót với bao đau thương. Đồng Lương Dần Thân tuổi Đinh không có Khôi Việt và Thái Tuế nhưng bù lại dễ gặp bộ Tam Minh Đào Hồng Hỉ. Trong các cặp sát tinh thì Không Kiếp đứng đầu.
" Không Kiếp là tối hung thần, đóng đâu ở đó mười phần hiểm nguy".
Đồng Lương cũng không ngoại lệ, gặp Thiên không ( là Địa Không ) vô hình chung hình thành cách Lương Không và Đồng Không chủ vô phúc, bất hạnh. Thêm Địa Kiếp chủ hình thành cách Đồng Kiếp cùng chung tai họa và Âm Kiếp dễ là tiếng nổ. Nếu gặp Không Kiếp thì tối kỵ có thêm Lộc Tồn, cần gia Khôi Việt để hình thành cách cát hung tương bán, dễ khi phát họa lại gặp phát phúc. Trong lục sát thì duy Kình Đà là bộ sao mà Đồng Lương không kị gặp. Dù mệnh Tử Vi cư Ngọ là cách đẹp nhất mà gặp Triệt án ngữ hoặc Nhị Không ở mệnh cũng phá cách, tức là bàng tinh mới là kẻ quyết định chính tinh. Nếu không thì chỉ cần một Thiên Hư là Tử Vi trở thành hư vọng, địa vị không có thật. Nếu không hợp chỉ cần một sao có thể thay đổi hoàn toàn cách cục từ tốt về xấu.


Cách Đồng Lương Dần Thân đắc cách tức bàng tinh phối hợp nhịp nhàng thì đại hạn xấu qua một cách dễ dàng mà không phải lao đao như các cách khác, tất nhiên là với điều kiện chỉ xấu, nếu quá xấu thì khó cứu vì hạn là cái ta đang đối mặt ngay tại thời điểm này, ví dụ như việc nổ bom nguyên tử ở Nhật Bản chính là hạn xấu, thời điểm hiện tại. Nếu hạn xấu tức ta ở đó dễ chết dù mệnh rất tốt đẹp, như ta mang trong người nhiều kiến thức, nhiều tài hoa nhưng gặp bom nguyên tử thì ta vẫn chết. Nếu mệnh xấu hạn tốt thì như việc ta mang thương tật trong người nhưng ở Việt Nam nên không bị dính họa khó chết.

Saturday, August 13, 2016

Dương Lương Mão Dậu cách





Dương Lương đồng cư Mão Dậu




Cách cục Dương Lương ở vị trí Mão có tên riêng là Nhật Xuất Lôi Môn hay Nhật Xuất Phù Tang cách là vị trí đắc lợi nhất của Thái Dương ở 12 cung, Thái Âm nhập miếu tượng cách là Nguyệt Lãng Thiên Môn cách. Bàn về cách cục Dương Lương ở Mão, bộ Âm Dương Lương và bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm đều hoàn chỉnh và ở vị trí tốt nhất với cách Đế Tọa Ly Cung của Tử Vi cư Ngọ. Mệnh cư Dương Lương Mão là đẹp, nhưng tốt và quyết định thuộc Phụ Tinh. Ví như cách Dương Lương cư Mão gặp Không Kiếp lại luận khác, thêm Tuần luận khác, thêm Kỵ ta luận là đại hung. Bộ Dương Lương cư Mão thủ mệnh chủ người đàn ông may mắn, có Thiên Lương chủ may mắn lớn vì Âm Lương đẹp, do Thái Âm nhập miếu ở Hợi địa ở vị trí cung Tài Bạch hợp lý, cung Quan Lộc được cách Nhật Nguyệt chiếu bích, nếu mệnh ở đây tức cung Mùi chủ phò tá cho người có địa vị cao nhất, không phải bản thân là người đứng đầu đến đây thì tác dụng của bàng tinh mới rõ, nếu thấy Khôi thì bản thân là người cao nhất. Thiên Khôi chủ đứng đầu, nếu không tuy phò tá nhưnh mệnh nắm thực quyền, kẻ kia chỉ là hư quyền, như việc thứ đoạt trưởng trong gia đình, tất nhiên là phải xem Khôi có hợp với tất cả bàng tinh phối hợp  để luận đoán chính xác. Trong cách tinh hệ thì Tử Vi cư Ngọ tốt nhất, mệnh đóng tất cả vị trí đều luận không phải mệnh tầm thường, ví như việc kẻ nghèo trong một quốc gia rất giàu có vẫn được hưởng cuộc sống sung sướng vậy. Cách Dương Lương cư Mão cũng mang ý nghĩa là thọ do có "Thiên Lương thủ mệnh thân bình sinh phúc thọ". Thiên Lương là Ấm Tinh tự thân độc tọa mang nhiều khuyết điểm, kết hợp đồng độ với các chính tinh trong bộ đều mang hàm ý tốt như cách Cơ Lương, Đồng Lương, Dương Lương. Cách Dương Lương là ở Mão là thượng cách của tử vi, bất gia sát luận phú quý, lại gia cát tinh nắm đại quyền.


Dương Lương cư Mão tối hỉ Xương Khúc vì nếu cod Không Kiếp ở cường cung tức sinh tháng chẵn dễ gặp cách " Quế sứ hoa thương tối hiềm giao hội, mạc phùng Sát diệu đa khổ tai ương". Khi đó gặp có lưỡng nan toàn, không thể tốt đẹp toàn vẹn được, tức nếu cường cung bất kiến Tứ Sát Kỵ Hình thì hạn Sát Phá Tham có thể dẫn đến mạng vong. Mỗi mệnh đều mang một lá số và các tính cách riêng, nhưng không phải lá số giống nhau là có cuộc sống giống nhau, và nếu kẻ nào tự nhận xem tử vi có thể luận chính xác cuộc đời của một người thì hoàn toàn sai, tử vi chỉ có thể xem về cát, hung của con người, quá trình lên xuống, nhịp điệu của đời người, đi sâu vào các cung đệ tam nhân đã sai chưa nói đến luận mãn số. Một kẻ giàu nhất ở vùng miền núi đông dân xuống đồng bằng chỉ bằng kẻ khá giả, giống như chuyện hổ trên núi cao đứng đầu khu rừng xuống đồng bằng. Hay như việc mệnh người có khuynh hướng xuất ngoại hay gọi là việt kiều vào các năm trước được trọng vọng về địa vị và tiền bạc. Xét tỉ lệ khu vực và yếu tố phụ mẫu, dòng tộc giúp lá số tử vi có thể luận chi tiết hơn. Chỉ là chi tiết hơn thôi vì cùng lá số giống nhau, hạn kề cận quý nhân như cách " Quý Ân Khôi Việt Cái Hồng" mỗi người mội nghề nghiệp kề cận quý nhân khác nhau, và xét trên tổng thể toàn quốc thì quý nhân này địa vị khác quý nhân kia. Hay việc Tử Vi xem xét về việc làm quan trong triều, kề cận vua chúa, bệnh tật liên quan đến mổ xẻ mà ngay ở thời đại trước chỉ có đường chết. Vì vậy, mệnh xấu hay tốt đều có thể cải biến vì rất đơn giản ví như lá số tôi từng xem mệnh rất tốt hạn Thất Sát gia Phi Việt Linh Hình Quyền và Quế Sứ Hoa Thương, nếu trong chiến tranh khói lửa chắc chắn chết, vì khi đó Thiên Không của toàn thể quốc gia đều xấu, trên trời bom rơi liên tục khiến nhiều mệnh phải chết oan khi số chưa tới, nhưng trong thời bình thì hạn ấy có thể liên quan về cách cướp đoạt hay mất mát về tài sản, địa vị không đến nỗi mệnh vong. Cũng như hạn đói năm 45 khiến người chết đói đầy đường, nhưng bây giờ tìm một kẻ thiếu đói cũng khó khăn, chỉ ở trên miền núi là nhiều chưa nói đến chết đói. Vì vậy chỉ luận thuận lợi hoặc bất lợi về các mặt tổng thể cho một lá số tử vi  nếu chỉ biết số mà không biết thêm chi tiết.


Cách Dương Lương cư Mão hợp cách là người đàn ông may mắn, dễ được tương trợ khi gặp khó khăn hung hiểm, xét về mặt bằng chung thì có cùng gặp kiếp nạn sát thân thì kẻ thoát là ta hoặc ta là kẻ được may mắn hơn như chết thanh thản hơn kẻ khác, tính may mắn là tính chất chung của mệnh này, vì vậy khi luận đoán tùy hạn tốt xấu mà luận may mắn hay không may. Vì vậy Thiên Lương tốt mệnh danh chủ Thọ do mình sống lâu hơn kẻ khác do may mắn không chết bởi tai ương họa hại, như việc đánh bom liều chết mình ở khu vực ấy, hạn tốt thì dễ tránh khỏi hoặc thương tích nhẹ, nhưng trái ngược khi xấu ta nhận định là không may thì ta lại là một trong nhưng kẻ thiệt mạng, không chỉ việc tai ương họa hại, việc liên quan đến địa vị tiền tài cũng luận như vậy. Cách cục Dương Lương cư Dậu không may mắn bằng, công danh đến muộn do Âm Dương hãm, cũng không may mắn bằng cách kia nếu giống nhau về bàng tinh, tuy nhiên xấu tốt quan trọng là bàng tinh gia hội cho ra kết quả.




Sunday, August 7, 2016

Luận về Cự Cơ Mão Dậu cách





Cự Môn Thiên Cơ đồng tọa tại Mão Dậu





Cự Môn và Thiên Cơ đồng cư tại Mão Dậu, tam hợp có Thiên Đồng ở cung Tài Bạch và Quan Lộc, Thiên Di cung Vô Chính Diệu. Đây là cách cục chỉ có 3 chính tinh tại tam hợp Mệnh Tài Quan nên việc luận đoán về mệnh không phức tạp khi luận đoán, so với các cách cục khác. Thực chất là bộ sao Đồng Cự Cơ là sự giao hội của hai bộ lớn là Cự Nhật và Cơ Nguyệt Đồng Lương. Ở vị trí mệnh có Cự Cơ đồng cung hình thành cách cục kinh thương. Cự Môn có tính khởi tạo, cũng chủ lớn. Cự Nhật là cách người đàn ông xây dựng sự nghiệp, hoàn chỉnh bộ Cự Nhật. Trong các bộ sao lớn riêng bộ Cự Nhật chỉ có hai sao đã đầy đủ một cách cục, trong đó quan trọng là Cự Môn.

" Cự Nhật đồng cung trì danh thực lộc".

 Cự Môn là khởi tạo, cũng là cái miệng, là lời nói đi với Thiên Cơ tính toán đầu óc khôn khéo phù hợp giao tiếp bên ngoài gia lục cát hợp con đường quan lộc địa vị vì cung Quan Lộc Vô Chính Diệu có bộ Âm Dương chiếu. Mệnh có Cự Cơ trong đa số trường hợp khả năng tính toán phân tích rất chính xác, đa mưu lắm kế, thường nhạy bén trong việc nắm bắt suy nghĩ của người khác, thay đổi kịp thời khi có cơ hội vì Cự Cơ chính là Cơ Hội Lớn. Cần thêm Song Hao để thay đổi phù hợp. Trong cuộc sống tầm quan trọng của tiếng nói trong mọi mặt, một lời nói có thể khiến đang bạn bè sống chết với nhau trở mặt ngay tức khắc, cũng khiến con người ta tin theo mà giúp đỡ nhau đến khi địa vị cao không thấy rồi phản bội nhau, lời nói gắn với cả danh dự quan trọng hơn cả mạng sống con người trong một số trường hợp. Vì vậy cổ nhân xếp riêng chỉ hai sao Cự Nhật thành nhóm lớn, và một Cự Môn tốt đẹp cũng dễ làm vua như Tử Vi. Và việc gì cũng có hai mặt, khi Cự Môn bị phá cách là vì một câu nói mà bị đâm chết, mất mạng, vì một câu nói mà gia đình ly tán, tình cảm rạn nứt, uy tín tiền bạc địa vị mất. Vì vậy Cự Môn, Tử Vi là hai sao vua luôn lục hội với nhau, nhưng hoạt động khác nhau khi Tử Vi dùng hành động, khả năng lãnh đạo gánh vác thì Cự Môn dùng lời nói để thuyết phục lòng người. Trong cuộc sống lời nói uy quyền đúng đắn có giá trị như hành động chỉ đạo, vì vậy khi ngộ Thiên Cơ suy tính tốt thì thành lời nói khuôn vàng thước ngọc, hợp với lòng người.

" Cự Cơ đồng cung công khanh chi vị".
" Cự Cơ chính hướng hạnh ngộ Song Hao uy quyền quán thế".

Mệnh có sao Cự Môn cầm đầu bộ Cự Nhật có sự biến hóa cực đoan khi ngộ sát tinh, Cự Cơ Mão Dậu tối kỵ gặp Hỏa Linh, Không Kiếp, Tang Môn đồng cung, Hóa Kỵ , hỉ gặp Kình Đà được bộ Hao Kình hoặc Hao Đà. Khi có trục Sát Phá Tham và Tử Phủ Vũ Tướng Liêm được bộ Tồn Ấn Bệnh và Phi Phục Thanh, do Phá Quân ở vị trí Tuất nên không đồng cung với Tồn Phi, nếu không gặp bàng tinh bất hợp cách vận hạn đến cung độ khá tốt vì Sát Phá Tham và Tử Phủ Vũ Tướng Liêm đều ở vị trí hợp lý, không bị giao hội với nhau gây những cách xấu, gọi là đắc địa. Cự Cơ ở vị trí này gặp Hóa Kỵ khuyết điểm bộc lộ lớn, thường lo nghĩ nhiều, đa nghi mà dẫn đến sai lầm, cần có Hóa Khoa hoặc Thanh Long cứu giải hoặc các sao hợp với Kỵ, các sao làm vững bản mệnh như Thái Tọa, Tả Hữu khiến bản thân an nhàn giảm khuyết  điểm của cách Cự Kỵ. Nếu gặp thêm Hỏa Linh càng biến chuyển theo chiều hướng cực đoan. Tuổi Đinh có Cự Môn Hóa Kỵ nhưng Thiên Cơ Hóa Khoa thành cách Khoa Kỵ thành cách tốt, được thêm Khôi hoặc Việt và Song Hao hợp cách. Tuổi Mậu do Thiên Cơ Hóa Kỵ không có Hóa Khoa, lại gặp phải Lộc Tồn nếu ở Dậu, ở Mão tốt hơn vì gặp bộ Phi Phục Thanh.


" Cự phùng Dương miếu tốt thay, thăng quan tiến chức vận này mừng vui".


Saturday, August 6, 2016

Luận về Thiên Lương Tỵ Hợi




Thiên Lương cư Tỵ Hợi cách



Thiên Lương có tên gọi là Ấm Tinh, tất cả các sách đều viết là sao chủ tuổi Thọ, tượng là người già, trong cơ thể là đỉnh đầu, Thiên Lương có đặc tính là cao để dùng trong các trường hợp luận đoán, một số thứ liên quan đến cao như ở cung chung cư tầng cao, các cụ cao tuổi sống lâu,...Thiên Lương luôn có Thái Âm tam hợp hình thành bộ Âm Lương nên trong luận đoán phải luận cả bộ sao này. Thiên Lương chỉ Hóa Khoa Quyền Lộc mà không Hóa Kỵ, Thiên Lương dịch là Lương Tâm trong sáng của con người, vì vậy Thiên Lương không Hóa Kỵ. Nhưng cũng chính vì lý do đó mà Thiên Lương tối kỵ gặp Không Kiếp vì bản thân ở vị trí bị động, Không Kiếp phát họa, trái với bộ Sát Phá không tự nhiên mà cổ nhân gọi là hung sát tinh có thể hóa Không Kiếp thành dạng theo ác.


 Do đặc tính chỉ hóa Khoa Quyền Lộc nên hỉ cư ở Mệnh Thân gặp tiểu hạn không bị Lưu Kỵ tại mệnh và cũng chính bởi may mắn của sao này. Có nhiều cái may mắn mà tất cả mọi người đều gặp trong cuộc sống hằng ngày. Không chỉ được giúp đỡ hay hanh thông về tiền bạc địa vị trong cuộc sống mới là may mắn, mỗi giây chúng ta đang còn thở được và sống cuộc sống bình thường không lo âu cũng là may mắn. Tính che chở của bộ Âm Lương rất lớn, vì vậy ở trong lá số ở mọi vị trí không nên có Thiên Lương bị phá cách, và khi bị phá cách thì đảo ngược luận đoán một cách đơn giản, và may mắn khi nó không nằm ở tam hợp mệnh tức người khác không may, chỉ đại hạn đến đó mới không hay.

" Lương xung tọa thủ kiêm thọ ấm".
" Lương Xương miếu vượng vị chí đài cương"

Ngay như bản thân người viết có qua đại hạn Sát Phá Tham ngộ Lộc Tồn Tam Không, gốc đại hạn khá xấu khi qua các tiểu hạn trước rất vất vả nhưng tiểu hạn đến Âm Dương Lương gia Khôi Tuần Đại Tuế Xương Khúc Phượng Tấu rất hanh thông, đến mức người khác cũng thấy lạ mà bản thân cũng thấy bất ngờ khi gặt hái được nhiều thành tựu lớn trong tình trạng gốc Đại hạn xấu. Thiên Lương cư Tỵ Hơi cần thiết gặp bộ Khôi Việt khiến Âm Dương Sửu Mùi sáng, cũng là cách kích hoạt may mắn lớn ( Lương Việt ), cần thiết có Khoa Quyền Lộc để tập trung cái may vào công danh sự nghiệp, có Lộc Tồn hưởng thụ toàn bộ Tồn Bệnh Ấn khi Thiên Lương ngộ Lộc Tồn may về tiền bạc hưởng thụ, hóa giải được sao Bệnh Phù. Thiên Lương ngộ Xương Khúc hình thành cách " Dương Lương Xương Khúc" chủ người đàn ông nay mắn có học thức, may mắn trong con đường học vấn, thêm Lộc ( có thể Hóa Lộc hoặc Lộc Tồn ) thành cách Dương Lương Xương Lộc hội nổi tiếng. Tuy vị trí Thiên Lương cư Tỵ Hợi không mấy tốt nhưng chỉ cần bàng tinh thích hợp thì đẹp hơn cách cục lớn  nhưng không có bàng tinh hỗ trợ hoặc gia sát tinh. Bàng tinh có ý nghĩa rất lớn ngang ngửa chính tinh. Bộ Không Kiếp có thể phá hủy hầu hết các cách cục đẹp, và Khôi Việt hoặc Tuế Phượng khiến bản thân có giá trị hơn rất nhiều.


Thiên Lương kỵ gặp Hỏa Linh vì Thiên Lương chủ cao gặp Linh Tinh rơi rụng " Cơ Lương Tang Điếu", gặp Hỏa Tinh chủ lửa, bốc hỏa, còn chủ xấu về mặt tình cảm . Gặp Kình Đà bất lợi cho bộ Âm Dương. Tuy nhiên chỉ là một mặt của các cách xấu khi Thiên Lương ngộ Hỏa Linh, và còn tùy trường hợp gia thêm cát tinh hay sát tinh mới có thể đưa ra kết luận đúng. Như việc nếu gặp Linh lại có Kỵ Quyền đưa ra đáp số khác. Mặc dù "Đồng Lương tối kỵ Hỏa Linh xâm phá" và Hóa Kỵ là xấu trong hầu trường hợp, nhưng." Đồng Lương viên phùng Khôi Quyền tăng phùng Linh Kỵ giao lai Song Lộc dị đạo phú cường". Tức kinh doanh theo lối dị thường mà thành công lớn.

Luận về Thiên Đồng Tỵ Hợi



Thiên Đồng cư Tỵ Hợi luận giải

Thiên Đồng cư ở Tỵ Hợi có Cự Cơ ở Dậu Mão cung tài hợp chiếu thành bộ Cự Cơ Đồng, bên ngoài có Thiên Lương xung vô hình chung thành cách "Lương xung tọa thủ kiêm thọ ấm". Thiên Đồng hóa khí là "Phúc", chủ phúc của con người, Thiên Đồng nên gia hội thêm Thái Âm thành bộ Đồng Âm chủ Âm Phúc. Gia cát tinh và vận hạn không quá xấu thì cuộc đời thường an nhàn hưởng phúc không phải lo nghĩ, tai họa đến nhưng phúc lớn thì tất vượt qua, cuộc đời thường gặp may mắn nếu có sao Thiên Lương hợp chiếu. " Phúc Ấm thủ mệnh bất phạ tai ương". Thiên Đồng chủ cái bụng, cũng chủ suy nghĩ thâm sâu trái với Thiên Lương, Thiên Đồng cũng chủ đồng lòng. Cái bụng được gọi là Phúc, cũng thiên về việc hưởng thụ. Sao Thiên Đồng có tính phúc thiện lớn, thường mệnh gia cát tinh hay làm các công tác xã hội, có tính từ bi trong lòng. Xét về Thiên Đồng cư Tỵ Hợi,  trong trường hợp này không có sao Thái Âm ở tam hợp không hay bằng cách có Thái Âm. Trái với Thiên Lương là người cao tuổi, trong cơ thể là đỉnh đầu nơi cao nhất thì Thiên Đồng là đứa trẻ, là cái bụng, lòng dạ. Thiên Lương hợp bộ Tuế Hổ Phù và Thái Dương vì thuộc nhóm bày tỏ, ngược lại Thiên Đồng thì hợp với Thái Âm cùng thuộc nhóm âm thầm.
"Thiên Đồng hội cát thọ nguyên thời"
Có sao Thiên Đồng hợp cách tại mệnh dù bất kì vị trí nào cũng thuộc dạng hưởng phúc, nhưng nhắc lại rằng gặp tai ương hoạn nạn không nguy trong điều kiện hạn không quá xấu, nếu Sát Tinh Phá Cách tập trung trùng phùng vào đại tiểu hạn thì dù bộ Đồng Lương Dân Thân gia cát thủ mệnh cũng phải chịu quy luật Tử của sinh vật. Hạn chính là chiều hướng của cả Mệnh và Thân. Gieo tính cách gặt số phân, cái tính cách 10 năm đầu tức ở mệnh là bản năng do sự tác động của các sao lên, nhưng các đại vận khác khi ta lớn lên gây biến đổi một số tính cách, nhưng vẫn phải dựa trên tính cách ban đầu là mệnh.


Thiên Đồng ở vị trí Tỵ Hợi phúc không có nhiều vì ngôi sao may mắn Thiên Lương ở đối cung khác với tam hợp. Vì vậy các sách thường cho ở vị trí hãm địa. Thiên Đồng ở Tỵ Hợi nếu gia bàng tinh hoặc tam hóa luận không phân biệt với vị trí khác gia cát. Như việc " Thiên Đồng Tuất cung phản bối, Đinh nhân hóa cát vi đại quý" tức tuổi Đinh tứ hóa Nguyệt Đồng Cơ Cự có Thiên Đồng tọa đất La Võng không hợp với đặc tính được bộ Tứ Hóa gia thêm Đào Hoa và Tồn Tướng Ấn, lại có bộ Khôi Việt giáp nên luận là đại phú đại quý. Mệnh cách rất đẹp hình thành vô số cách cục hay, việc quan trọng hơn là đại hạn tốt hay xấu. Như đã bàn ở trên, có nhiều lá số mệnh tốt người viết đã nghiệm lí hạn chết trẻ do không đương cự nổi khi đại hạn tập trung quá nhiều phá cách. Chuyện đó cũng thường ngày thấy trên báo đài về việc đang tuổi trẻ thành công bỗng nhiên chết lãng xẹt vì bệnh tật, tai họa.


 Vì vậy một lá số đẹp ít nhất phải có các hạn trung bình hoặc xấu nhưng không được tuyệt mạng. Cũng như vậy lắm kẻ đang đầu đường xó chợ mấy hôm sau thấy lên đời danh chức mặc dù bằng cấp không có, rồi buôn lậu trót lọt, làm chuyện trái pháp luật mà một phi vụ bằng cả đời người làm. Vì vậy xem tử vi tuyệt đối không nên phạm sai lầm xem chỉ  mệnh thân tốt còn hạn không quan tâm là hoàn toàn sai tôn chỉ của tiền nhân. Thiên Đồng tức bộ Đồng Cơ Cự trong trường hợp này có bộ Cự Cơ khá tốt nên cái được nhất chính là phàn nhà đất khá rộng rãi, cần gặp Khôi Việt để hình thành cách phát phúc và làm phúc, chắc chắn khi lưu Khôi Việt đến Thiên Đồng người mệnh Thiên Đồng không phá cách nặng nề sẽ sinh ra việc làm phúc lợi , qua kinh nghiệm là vậy. Người viết đã trải qua quá trình xem xét luận giải nhiều lá số và thấy đúng từ cơ sở của tiền nhân mới dám khái quát các cách giao hội ở các bài viết học thuật tử vi, tuyệt nhiên không phải lấy trong sách bàn mà không kiểm nghiệm trước sau. Mệnh Thiên Đồng rất cần Khôi Việt và Tam Hóa, có thể gặp Linh Tinh với điều kiện gia cát tinh và không có Thiên Hình để phúc phận tăng thêm linh ứng. Người may mắn không bằng người phúc dày.

" Thiên Đồng tối kỵ Hỏa Linh xâm phá"


Thiên Đồng tối kỵ bộ Không Kiếp vì hình thành cách không ngờ gặp phải tai họa, kiếp nạn lớn. Không Kiếp chính là họa đối nghịch với Thiên Đồng là phúc, tuy vậy chỉ gặp Không Kiếp thì không quá đáng ngại nhất là khi Không Kiếp ở vị trí đắc địa, nên gia thêm Khôi Việt hình thành cách cát họa liên tục thay thế nhau.

Friday, August 5, 2016

Tử Vi ở vị trí Tý Ngọ




Tử Vi cư Tý Ngọ cách



       Tử Vị cự Ngọ là bố cục của bộ Tử Vũ Liêm và Phủ Tướng giao hội hoàn chỉnh, ở cung xung chiếu biến Tham Lang thành quyền, nếu xấu tức ngược lại thì Sát Phá Tham đoạt được địa vị từ bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, nhưng không quan trọng như bị Thất Sát hoặc Phá Quân xung, ở đây chỉ là Tham Lang xung. Sao Tử Vi Cư Ngọ tốt hơn cư ở Tý vì khi đó bộ Âm dương đều sáng, tất cả các sao đều ở vị trí rất tốt, ngay cả bộ Sát Phá Tham ở nơi hãm tức ý nghĩa bên ngoài, họ hàng, thê thiếp đều địa vị dưới chính cung. Vì vậy nên được đặt riêng tên gọi "Đế tọa Ly cung". 


Là thượng cách của lá số Tử Vi, khi mà cách chính tinh đều được sắp đặt tại đúng vị trí. Nhưng đắc vị không bằng CÁCH CỤC hợp lí. Tử Vi cư Ngọ rất dễ bị Tuần, Triệt đáo đầu, hoặc gặp Không Kiếp, Thiên Hư đồng cung, hoặc gặp Kỵ Hình, Phi Liêm + Kiếp sát. Gặp tuần đỡ xấu hơn triệt, gặp Triệt là từ bỏ địa vị, từ bỏ nhiệm vụ. Gặp Thiên Hư là địa vị phù phiếm, không có thật, Gặp Kỵ Hình là vi phạm pháp luật, luật cấm bằng hành vi. Gặp Phi Liêm chủ bất chính, tan rã nhưng được bộ Lưỡng Liêm lơi binh nghiệp hóa giải rất nhiều cách cục trên, ngoài ra còn cách Phủ Thanh chủ phủ dụ luận là khá tốt. Mệnh Tử Vi Cư Ngọ dù gặp phá cách vẫn có phẩm chất hơn người, ưa lãnh đạo, gánh vác trách nhiệm và cũng được mọi người tin tưởng. 



Ví dụ như một mệnh Tử Vi cư Ngọ đã nghiêm lý có Tang Phượng Triệt án ngữ tại cung mệnh, tam phương có  Vũ Thanh+ Thiên Không ngộ Mã Khốc Khách Quyền Hình khả năng lãnh đạo rất tốt, thời đi học ngồi cùng lớp luôn được tôn làm anh cả mặc dù không có Khôi Việt, uy tín rất lớn nhưng hợp với kinh doanh hơn con đường địa vị. Mệnh cung có Tử Vi cư Ngọ sinh ra đã ở địa vị lãnh đạo, khí độ quân tử, tự biết xét lỗi lầm của mình không trái đạo lý, dù gặp sát bại tinh. Đây là cách cục quý trong tử vi. Tử Vi cư Tý Ngọ đều kỵ gặp Thất Sát thủ Thân hình thành cách cục " Thất Sát lâm thân chung thị yểu". 



Phân định cách cục cao thấp dựa vào thứ tự bàng tinh Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt, biến Hỏa Linh thành quyền. Phụ Bật là trung tinh thích hợp phò tá cho Tử Vi, tượng là tay chân đắc lực trợ giúp thực hiện công việc. Thực tế ngoài cuộc sống đời thực, kẻ lãnh đạo thường có thuộc hạ thân tín trợ giúp để củng cố địa vị. Tử Vi ở Ngọ cung có Nhật Nguyệt tai mắt soi sáng khắp nơi, vận hành đi đa số đều bước qua cung đẹp, gặp Sát Phá Tham hành động quyết đoán. Mệnh có Liêm Phủ chủ quan lộc chủ trường tồn, Vũ Tướng thủ Tài Bạch thuộc cách " Tài cư tài vị". Tật ách có bộ Cự Đồng tức ách nạn lớn nhất gặp phải là chữ "Phản" càng minh chứng sự hợp lí của cách cục.



" Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ thỏa chí bình sinh". Gặp Lộc Tồn hình thành vô số cách cục hay. Cách Liêm Tồn chủ địa vị trường tồn, Lưỡng Tướng, quan trọng là gặp Quốc Ấn mang biểu tượng quốc gia. Tuổi Đinh Kỷ có cách này gia thêm Đào Hồng. Tuổi Giáp được thêm bộ Khoa Lộc. Chưa cần gia Lục Cát tinh đã luận rất tốt. Trường hợp cư Tý gia thêm cát tinh luận là thứ cách, cũng là cách cục đẹp chỉ sau Tử Vi cư Ngọ.

Tứ hóa và tầm ảnh hưởng tới lá số Tử Vi







Tứ hóa và tầm ảnh hưởng tới lá số Tử Vi



      Tứ hóa trong Tử Vi là Lộc, Quyền, Khoa, Kỵ viết đầy đủ là Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Khoa, Hóa Kỵ. Gọi là hóa tức là hóa khí của 14 chính tinh và 4 phụ tá tinh "Tả/ Hữu/ Xương/ Khúc". Tứ Hóa có tầm quan trọng rất lớn trong một lá số, qua thực nghiệm và các câu phú tiền nhân để lại thì Tứ hóa quyết định gần như hoàn toàn về một mặt cụ thể khi cách cục được gọi là hợp cách và trong đa số các trường hợp. Vì Tứ Hóa là đại biểu của các chính tinh, là kết quả thông báo khi chính tính là từ nghiệp trong nghề nghiệp mà con người phải mang vào. 


Một Cự Môn Hóa Quyền khi hợp cách thì sử dụng cái miệng mà tạo ra uy quyền, và một Cự Môn Hóa Kị là hợp cách (Theo cách xấu) thì bao nhiêu tai họa do miệng lưỡi mang lại đây chỉ là môn phương diện rất nhỏ của Cự Môn là lời ăn tiếng nói. một chính tinh bao hầm rất nhiều ý nghĩa mà chúng ta có thể nghiên cứu. Với Tứ Hóa tuy quyết định phần lớn nhưng không phải là tất cả, gọi quyết định là hợp lý hay bất hợp lý của một cách cục. Một Đế Tinh Tử Vi Cư Ngọ được cả Tam Hóa (Khoa/Quyền/Lộc) và Tả Hữu nhưng gặp Hư Triệt đáo đầu thì bao nhiêu cách hay bị phá hoại thành xấu. Và ngược lại một Vũ Khúc có Lưỡng Khúc tức được thêm sao Văn Khúc gặp Kỵ Hình (Đa số trường hợp là xấu, chủ vi phạm) thành tay cự thương giỏi luồn lách, buôn gian bán lận nhưng vẫn an toàn sau nhưng phi vụ bất chính

   

  Bảng Tứ Hóa : Lộc Quyền Khoa Kỵ

Giáp /Liêm Phá Vũ Dương
Ất      /Cơ Lương Vi Nguyệt
Bính /Đồng Cơ Xương Liêm
Đinh /Nguyệt Đồng Cơ Cự
Mậu  /Tham Nguyệt Bật Cơ
Kỷ      /Vũ Tham Lương Khúc
Canh /Nhật Vũ Âm Đồng
Tân    /Cự Nhật Khúc Xương
Nhâm /Lương Vi Phụ Vũ
Quý    /Phá Cự Âm Tham


Các sao Vũ Khúc, Thái Âm, Thiên Cơ có thể hóa khí ra cả tứ hóa Lộc Quyền Khoa Kỵ là chính tinh biến đổi phức tạp và khó luận nhất của Tử Vi. Mệnh tạo đều mang tài năng khá đặc biệt khi vận hạn giao hội thay đổi biên độ lớn và chịu tác động mạnh của tiểu hạn với lưu tứ hóa. Bộ ba sao này có đặc điểm là dụng được Kỵ Hình. Ngoài ra Tử Vi còn có sao Thiên Lương chỉ hóa thành Khoa Quyền Lộc không có đặc tính Kỵ nên mệnh danh là Ấm Tinh chủ che chở và may mắn. Một số chính tinh không hóa khí cũng mang tính chất đặc biệt riêng. Một số câu phú nổi tiếng về tứ hóa như :
" Khoa Lộc Quyền vọng danh dự chiêu dương".
" Khoa Quyền đối củng trạc tâm ư vũ môn".

Hầu hết các câu phú đều mệnh danh Khoa Quyền Lộc là thước đo của sự thành công nhưng thực ra mỗi hóa khí trên đều có những phá cách nghiêm trọng của chúng ngay cả khi gặp những bàng tinh được gọi là cát tinh nhưng không phù hợp.