Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Friday, July 23, 2021

Nhóm sao chính an theo Thiên Can

 Tham muốn, nhu cầu thiết yếu chiếm một phần thời gian của bản thân mỗi đương số. Khi xét cách cục của các sao theo tổ hợp, cách cục tạo bởi Hình Diêu Y mang tính chất đặc trưng của hai tính chất nghịch phát, khởi từ một nguyên cục. Thiên Hình là sao an theo tháng, tức nguyệt vận, có tính chất uy áp, có tính chất của khắc phạt, hình khắc. Thiên Hình  nằm trong định cách bố cục Hình Diêu Y. Nếu Mệnh các ngộ Thiên Hình, ắt Quan Lộc gặp Diêu Y. Ngược lại nếu Mệnh cách ngộ Thiên Diêu và Thiên Y ắt Tài Bạch cung gặp Thiên Hình. Nếu không nắm rõ lý tính của sao này, rất dễ luận đoán sai lầm với cách cục tinh đầu khi giao hội với bộ Hình Diêu Y. Nhóm Hình Diêu Y nhập mệnh, đa phần mang lại khó khăn. Trên tinh bàn gồm 4 nhóm sao lớn an theo Thiên Can là Kình Hao, Đà Hao, Lộc Tướng Ấn, Thanh Phi Phục. Trong đó nhóm Lộc Tướng Ấn hợp cách Hình Diêu Y. Hành tướng của Lộc Tướng Ấn chủ vượng, hành tướng của Kình Hao là công phá, của Đà Hao là chờ đợi thời cơ tới. Bốn nhóm sao lớn an theo Thiên Can đại diện cho bốn mẫu người, bốn sự thành cũng bốn sự thất bại nếu hóa hung. Cách cục tử vi thực chất khi định cách chung mô tả những tính chất riêng hướng tới khi gặp tình cảnh bất chợt, là suy tưởng ban đầu giải quyết những vấn đề gặp phải. Thất Sát ngộ Kình Hao có thể hóa cuồng, cũng có thể hóa tinh tường mà công phá giành được. Thái Âm ngộ Đà Hao có thể hóa nhu nhược, cũng có thể là sự sắc bén khi nhìn nhận vấn đề, không hấp tấp vội vàng. Bốn nhóm sao trên đều có thể đạt tới đỉnh cao của danh vọng và lợi lộc. Tuy nhiên sẽ biến chuyển theo tổ hợp Chính Tinh hợp hóa, cũng biến chuyển theo tinh đẩu còn lại khi hội họp. Kình Dương tượng là giáo mác, chủ công, Đà La là khiên đỡ, chủ phòng thủ. Thực tế mỗi nhân mệnh đều tồn tại tất cả tinh đẩu trong chính nội tâm, chỉ là hóa hiện với cường độ mạnh yếu sai khác. Cũng như nhân mệnh đều tồn tại âm dương ngũ hành trong nội thân. Phụ nữ thể hiện tính Âm, đàn ông thể hiện tính Dương mạnh hơn. Tử vi cũng vậy, xét định mệnh cát hung, còn nằm tại Nhân định, là quá trình học hỏi, tiếp kiến biến đổi một phần về bản tính. Kẻ theo đạo thường giữ được trung dung, không hành xử quá thiên kiến, biết tiến thoái kịp thời. Do vậy thực tế giáo dục rất quan trọng khi xét định một nhân mệnh. Tuy nhiên cá tính, bản tính của nhân mệnh lâu không tu dưỡng sẽ dễ thoái lui những phẩm chất rèn luyện được. 




Như việc người nhập mệnh Tang Môn có thêm Diêu Y Hỏa Linh, hội Kình Hao nếu nhập cách chủ theo nghiệp quân binh, ắt rèn tính nghiêm chỉnh, tuy nhiên bản tính nhân mệnh cũng sẽ luôn tồn tại tính chất xuề xòa, do cách cục chủ mệnh kiến là cá tính tồn tại từ khi thai sinh. Sự biến chuyển này chịu thêm tác động của hành vận, đại tiểu vận tác hóa, khiến mệnh cách có thời điểm nghiêm chỉnh, nghiêm trang, gọn gàng. Có thời điểm xuề xòa, không chú trọng tiểu tiết. Điểm định cách của bố cục và xét sự biến chuyển của nội tâm khi suy xét sẽ chịu tác động của biến cố hoàn cảnh hay hành vận cơ hữu có tính biến đổi hoàn toàn cuộc sống nhân mệnh về sau. Có kẻ sinh khởi tính hiền lương, có người sinh khởi từ thiếu niên ưa sát phạt, giết mổ. Đây là điểm cốt yếu thực khởi của bản tính. Có kẻ ưa đọc sách tri kiến, đọc sách thánh hiền, có người ưa làm những việc khác. Điểm cốt yếu của cách cục nằm tại tính khởi phát của nguyên cục tức Mệnh tạo có trợ hay phá, hình thành tính cách, thói quen hành vi có lợi hay bất lợi. Kẻ ưa đọc sách thánh hiền ắt tâm sở tương ứng, người ưa giết mổ, thu nhặt lợi ích ắt ưa thực tiễn. Bốn nhóm sao an theo Thiên Can tác động mạnh tới tính cách của mỗi mệnh tạo, từ đó dự đoán tới cuộc đời của nhân mệnh. Người có trí ắt ít gặp họa, kẻ thiếu tri kiến dễ gặp tai họa. Cũng như phát sinh ra điện, nhiều trường hợp do thiếu tri kiến, tức ý định chủ quan dẫn tới tai họa tới bản thân. Người hiểu biết ưa tìm tòi, học hỏi ắt có lợi biết điều nguy hiểm, an toàn. Cũng vậy, tính cách cũng sẽ hội chiêu cảm những họa phúc, chỉ trừ trường hợp họa tới do đồng vận, như phát sinh đường xá, tai họa có thể tới tập thể như gặp nạn trên xe khách. Ảnh hưởng tương kiến của họa phúc cũng nằm tại chiêu cảm. Nếu vật ở vị trí cao, hay đặc tính có chứa kim loại dễ hút sét. Tai họa cũng vậy, nếu trong nội tâm hay nội thân chiêu cảm họa dễ gặp tai ương. Như chiêu cảm may mắn bởi cách Đồng Lương hội họp hội trợ tinh tương ngộ, hành vận tốt đẹp dễ tránh được các tai họa dù lớn. Như việc ra đường linh cảm tránh được các hiểm nguy, hay do một lý do tránh được chuyến đi tai nạn. Điều này thường xuất hiện thực trong đời sống thường ngày. Cũng như vậy, cổ nhân phân định có số mệnh, cũng luận rõ " Nhân định thắng thiên, đức năng thắng số". 




Hiện tương dịch bệnh có quốc gia tức vận nước gặp nguy cấp lớn, có quốc gia tránh được phần tai họa. Trong thời điểm một địa phương, một làng hay một xã có bệnh dịch, nếu nhân mệnh có cách cục ưa do chuyển, lại hội Sát Kỵ trùng phùng khi sinh sống tại đây dễ gặp bệnh dịch tới thân. Những khuyến cáo, thông tin được những người ưa tìm hiểu, đọc sách báo sẽ nhìn nhận được mức độ nguy hiểm và sự lây lan dễ dàng của dịch bệnh. Cũng có thể nhờ tri kiến, hiểu biết do nghiên cứu, nắm bắt sớm thông tin có thể tránh được tai họa ngay trước mắt. Như việc dịch bệnh bùng phát âm thầm chưa kiếm tra, nhân mệnh tự bảo vệ bản thân, tránh tiếp xúc, gặp gỡ người xung quanh sẽ tránh được tai họa gây ra. Tuy nhiên thực tế do tính cách hay bản tính mỗi nhân mệnh sẽ phát sinh những trường hợp khác nhau. Cũng như mỗi nhân mệnh đều rõ về pháp luật, hình sự tuy nhiên mỗi thời điểm, mỗi ngày đểu có người vi phạm pháp luật. Người nghiên cứu tử vi, cái cần rõ không chỉ là xét đoán, dự đoán những biến động vận hành cát hung, mệnh cách giàu sang phú quý hay bần hàn bệnh tật. Thứ cốt yếu của người nghiên cứu tử vi toán mệnh là rõ ưu khuyết, những tai họa do bản tính tạo nên. Nhân mệnh có Sát Kình Hình Kỵ Kiếp Hổ dễ gặp tai họa hình tù do vi phạm pháp luật. Cũng vậy các cách cục luận không sai khác. Chỉ luận dễ gặp tai họa, thực tế trong các thời điểm khác nhau sẽ có các yếu tố tác động sai biệt tạo nên kết quả. Thứ nắm được cốt tủy không ngoài xu cát tị hung, cũng là sửa nhân. " Buông đao xuống đất, chắp tay thành Phật " tức về thiện tính của con người nằm ngoài khống chế của số mệnh, tuy rất khó có thể thay đổi bản tính, như việc người nghiện rượu lâu năm rất khó bỏ, do vậy sinh ra dự đoán. Tuy nhiên kẻ nghiện rượu có được trí thấu rõ và quyết bỏ rượu cũng sẽ thành. Phàm nhân mệnh đa phần ắt phải có tham muốn vật dục, ưa lợi ích nhỏ trước mắt khó thấy lợi ích rộng mở về sau, Hóa Kỵ có thể chuyển hóa rất nhiều bố cục, cũng khiến rất nhiều cách cục phản tác vi hung do vậy. Với Không Kiếp càng có tính kích phát mạnh. Thí như người vay nợ rất nhiều sẽ chịu áp lực rất lớn tới tư tưởng, khó có thể ổn định tư tưởng nhìn ra những cơ hội để khai thông thế bế tắc, tạo nên hoạch phát. Không Kiếp cũng như khoản nợ lớn của nhân mệnh, tăng liên tục khiến mọi thứ làm ra không thể bù đắp được khoản lãi, chịu tác động rất lớn của cặp sao này khi nhập Mệnh, khiến mệnh tạo khó có thể chuyên nhất, tạo đột phá. Tuy nhiên một số nhân mệnh sẽ do áp lực của nợ lớn khiến tư tưởng luôn tìm thời cơ và quyết tâm tạo đột phá dẫn tới thành tựu đột biến. 




Ý nghĩa của Không Kiếp có tính Sát rất lớn, tượng cách như trên nên dẫn tới thường nhân mệnh gặp bố cục này tại Mệnh hay Hạn đều khó có thể chế hóa được toàn cục. Thường khi xét luận của lá số tử vi cũng vậy, người nghiên cứu định cách cục nắm được cốt tủy của tính chất tinh đầu khi riêng rẽ và khi giao hội là điều thứ nhất để xét định lá số tử vi. Thường cần xét tượng nghĩa cho từng tinh đầu để nắm khí hóa khi giao hội là điểm quan trọng cần lưu tâm. Có người khi có khoản nợ lớn, sinh tâm chán nản, có thể dẫn tới hành động tuyệt mệnh. Có người sinh ra tâm loạn, sẽ đi cướp, ăn trộm, phạm pháp để có tài sản trừ nợ. Có người có trí lợi dụng lách luật, tránh luật pháp để tạo ra tài sản. Có người dụng trí tạo dựng nắm thời cơ để phá thế bế tắc. Có kẻ buông bỏ, trốn chạy khỏi nhân thế. Những hướng định trên đểu có các cách cục tổ hợp tinh đẩu mang ý nghĩa biểu hiện tới cách cục này. Cũng như vậy, Không Kiếp nắm vai trò chính yếu định đoạt toàn bộ cách cục xoay quanh, do vậy cũng có sách luận sức tác hóa của Không Kiếp mạnh như chính tinh. Từ những cách giải quyết khác nhau khi lâm tình trạng nợ không thể trả lãi, chính là phản ứng của bản tính trước cách cục. Xét định lá số tử vi là tri kiến huyền học toán mệnh đã truyền từ thời cổ, có thể nghìn năm về tri kiến âm dương ngũ hành, dịch lý của tiền nhân, trải qua rất nhiều thế hệ tới hiện nay, là những thứ thực tiễn, không chủ phát huyền diệu, hư ảo, là nghiên cứu về bản tính, tri ngộ về thiên tính của nhân mệnh, xã hội, những tính cách dự đoán rõ ràng. Có thể tiền nhân kiến giải theo lập định sai biệt, tuy nhiên về dịch lý dụng Âm Dương Ngũ Hành của triết học phương Đông không thay đổi, chỉ kiến giải sai biệt dẫn tới hiểu theo ý nghĩa mù mờ sai biệt. Cũng như kinh điển của Không Tử, hậu thế có thể không bắt kịp. Thời kỳ của khoa học tây phương nắm ưu thế vẫn có giá trị rất lớn của tri kiến tiền nhân, đặc biệt trong những kinh điển về Âm Dương Ngũ Hành hay Phật giáo có thể đương đầu với khoa học hiện đại. Khởi nguyên của bản thân nhân mệnh thực tế không làm chủ hoàn toàn bản thân, không cảm nhận được ngũ tạng hoạt động, không biết rõ những sinh vật như giun sán trong cơ thể, thậm chí nếu không được học tập, dạy về hình tướng của ngũ tạng bên trong cơ thể cũng khó có thể biết hình dạng và chức năng của nội tạng. Cái bản thể của nhân mệnh khi xét định trong tử vi khởi phát dự đoán tính cách khi lập số từ thời điểm thai sinh có hoàn toàn do thân xác sinh khởi hay có tồn tại hồn phách hay không, việc trường thành, phát triển giữa thnâ xác và hồn tác động lẫn nhau tức dẫn hóa của tư tưởng, phần hồn khiến thể xác, hình tướng biến đổi theo và ngược lại có là điểm nghiệm lý hay không người viết không xét tới, chỉ xét khi nghiên cứu tử vi, phần Mệnh và Thân tác động tương tác của thế âm dương, điều nghiên cứu tập trung là định cách cục của tinh đẩu, các tổ hợp và hành vận phối hợp để xét cách cục cát hung, ý nghĩa toàn cục trên lá số tử vi. 


Tuesday, July 20, 2021

Không Kiếp định lá số nhân mệnh quý hiển


 Trong tử vi thường bàn tới vấn đề luận về tổ hợp của hung sát tinh có thực đắc dụng. Không Kiếp hội cùng cách cục hợp cách thì phát, bất hợp họa tới miên trường. Trong thời kỳ chiến loạn, tất cả đều không thể vô căn, bắt nguồn từng xung đột mâu thuẫn, xung đột lợi ích là thứ sống còn khi thể hiện ý chí của một dân tộc phản ứng trước một quốc gia khác xâm phạm. Hai lần chiến tranh thế giới trong thế kỷ 20. Lần thứ nhất khoảng 5 năm với tổng hơn 30 triệu người chết, thương tật. Lần thứ hai với khoảng hơn 70 triệu người gặp nạn. Dân số thế giới thời điểm đó khoảng hơn 2 tỉ người. So với dịch bệnh, chiến tranh còn chưa có sức tác hóa lớn như vậy. Một trận dịch hạch khiến khoảng 1/4 dân số thế giới tử nạn, khoảng 1/3 tới 2/3 dân số Châu Âu biến mất. Thời kỳ dịch bệnh là thời kỳ đen tối của lịch sử, đặc biệt khi chiến tranh hiện đại không còn chỉ thuốc độc hay thuốc súng, còn vũ khí sinh học. Nhân mạng thực nhỏ, khoảng gần trăm nghìn người thiệt mạng ngay lập tức sau khi hai quả bom nguyên tử phát nổ và san thành phố của Nhật Bản thành bình địa. Điều quan trọng của một nhân mệnh là vị trí đứng, có quyền định đoạt từ nhỏ tới lớn, bằng không luôn bị hoàn cảnh dẫn đi. Thực tế, khi lòng tham luôn tồn tại thì luôn có sở hữu, kẻ có được sở hữu lớn càng mong tích lũy để yên tâm, cũng sợ bị kẻ khác dòm ngó tới. Suy là thời điểm tất yếu của vòng tròn phát triển vạn vật. Một nhân mệnh rất nhỏ, tuy nhiên trong trí não đã chứa đựng năng lực khổng lồ để suy tính, cơ hội không chỉ dành cho kẻ có được vị thế từ gia đình, dòng tộc. Cơ hội sống còn có mặt tại tất cả nhân mệnh đang sống cuộc sống bình thường, cũng là lẽ công bằng của tự nhiên. Xét chung đa phần người đều có những nền tảng chung để phát triển, tuy nhiên sau này lại phân định sai khác, giàu nghèo, quyền lực. Cái nhìn chiều sâu là quan trọng, từ Việt tới Khôi, từ Khôi tới Việt, nhỏ tới lớn và ngược lại. Cái nhận định sâu sắc của chính bản thân về xã hội, vận thế sẽ giúp những hành động ngày mai được chính xác, tránh được nhiều rủi ro trong hoàn cảnh thời cuộc. Cái nhìn nhỏ cũng có thể xét ra toàn cục. Nếu loay hoay trong biện lý của chính mình, sẽ không thể thoát ra. Một vòng xoáy khi vẽ trên tờ giấy là hình tròn xoáy điểm trong cùng không thể thoát, cũng có thể chính là một mũi khoan, tiến lực cực vượng. Thứ sai khác đa phần không nằm tại trí tuệ của mỗi người khác nhau, mà do hai chữ loay hoay, loay hoay giải quyết một số vấn đề, đánh mất đi những cơ hội tồn tại xung quanh khiến nhân mệnh bỏ lỡ những điều có thể thay đổi cuộc đời. 




Cơ hội xung quanh mỗi nhân mệnh là vô cùng không hạn định, thể hiện tính công bằng thứ hai của vạn vật. Một cuộc đời có thể xóa làm lại nhiều lần, mỗi một lần thất bại, điều còn lại là tư duy, năng lực phát triển của trí óc vẫn hoạt động và chứa tiềm năng vô cùng. Chỉ khi bản thân không còn sinh mạng mới có thể chấm dứt sự đột biến. Giới hạn là số mệnh, cũng chính do bản thân tự đặt ra. Khi nghiên cứu toán mệnh, rất nhiều đương số hỏi việc số mệnh có hay không ?. Số mệnh đa phần là điều bản thân giới hạn ngày mai của chính đương số. Đông A định cách xét sức hóa định của Sát tinh rất mạnh, khi phát tới dường như khiến kẻ khác không thể tin xảy ra. Năng lượng của thiên địa đa phần là năng lượng tối. Nếu chữ "giới hạn", thêm một chữ Không của Không Vong, chính đại sát tinh của Tử Vi đứng trước là vô giới hạn.  Chữ "giới hạn" thêm một chữ Kiếp, nghịch truyền thống, phá bỏ khuôn khổ đặt ra, kẻ thành tựu thường lẽ vậy. Lý tính của Không Kiếp có phải luôn thay đổi theo chiều hướng hung họa hay hoạch phát không bền hay không ?. Người vô duyên trước mặt là vàng cũng không thấy. Giới hạn bởi nỗi sợ, sợ đánh mất thứ đang có, sợ mối quan hệ xung quanh khi bản thân thất bại, chính là thứ cương tỏa bản thân. Thế giới thay đổi, xã hội thay đổi theo từng ngày tháng. Bản thân nằm trong vòng tròn an toàn chính là lúc nguy hiểm cho chính công danh, loay hoay tìm hướng đi không bằng lấy mũi tên quyết định một con đường dù chông gai. Các cách cục nhân mệnh định bố cục cao viễn, thượng cách, ý nghĩa toàn cục không nằm ngoài tính chất này phát sinh thành thế vượng xuyên suốt. Kình Dương thường thắng Đà La. Kẻ có Đà La mạnh khi thấy Kình Dương bên ngoài xung chiếu. Thứ quan trọng nhất là năng lực nội hàm của mệnh tạo. Tướng số của xét định mệnh quý hiển tại điểm này. Sự suy tàn khi ở trong một ngôi nhà lớn do rất nhiều cấu kiện bên trong hợp thành, nếu một cấu kiện tan rã, ngôi nhà sẽ dễ tan rã, nếu Địa Kiếp không nghịch truyền thống, giản định tới mức tinh gọn, cắt bỏ những khối u, những đường chỉ thừa, thì ắt sẽ như đàn mối mọt ăn mòn từ vị trí của ngôi nhà, hay một sợi chỉ thừa kéo rách cả một tấm vải, tới khi sửa chữa khó có thể trở nên hoàn chỉnh. Thế của Không cách rất cường vượng, không có điểm thoái lui, không thể không hướng về phía trước thì đắc dụng, thời loạn được thành tựu như vốn tính của Không Kiếp nhập miếu đồng độ. Một giây một phút thời điểm rất quý, vì là thời bĩ, thời của thay đổi táo bạo. Nhân sinh định cách Không Kiếp là đại sát tinh không sai, mất mạng, tuyệt mạng ứng với một số không nhắm mắt xuôi tay là Không Kiếp. 




Thực tế, khi xét định cách cục Kỵ Hình tại Mệnh cách, dù toàn cục rất mạnh cũng sẽ lên cao tới vướng vào lao lý. Cũng vậy, phàm vấn đề đều có hai mặt. Kẻ trước được ngưỡng mộ, sau ở dưới bùn đen. Tâm sở kiến tạo những thành tựu phi thường. "Vạn pháp do tâm sinh". Khi luận định tử vi, người nghiên cứu xét định yếu tố cơ bản về tính chất sao, thứ tới ghép từng ý nghĩa của tinh đẩu để xét định cách cục. Tuy nhiên khi xét toàn cục như trên. Như nhân mệnh tính khí hỏa vượng, nóng nảy ắt sẽ thiên tính phù hợp với những mối quan hệ giao tế tương hợp. Với Không Kiếp định cách khuynh hướng rõ nét khi giao hội từng Chính Tinh, tính chất sai biệt tùy theo từng Chính Tinh. Vì vậy thường phân định tinh đẩu có thể chế dụng Không Kiếp, tinh đẩu gặp họa khi hội Không Kiếp. Quá trình định cách này thiếu chữ Nhân trong Thiên Địa Nhân. Tức tư chất của những thai tạo sinh cùng thời điểm khác nhau do khí hình gốc tạo bởi tất cả yếu tố hoàn cảnh tác động khác nhau. Dự đoán về tính chất của tổ hợp sao trên tử vi xác đáng khá cao bởi tính cách của mệnh tạo và tương tác với xã hội và quan hệ xung quanh. Tuy nhiên xét về thời vận sẽ có sự sai biệt khá lớn do nhân cung phản ánh sai biệt về Phụ Mẫu, Phúc Đức, Phối Ngẫu của mệnh tạo. Đặc biệt tại Phụ Mẫu và Phúc Đức là sự nối tiếp tương tục nhiều đời về công danh hay tài sản tích lũy. Thứ xét định được là dự đoán tính cách, bản tính và năng lực gốc hay khí hình gốc của mệnh tạo có cường vượng. Nếu cường vượng sớm muộn mệnh tạo sẽ đứng đầu xã hội. Thứ xét đoán của toán mệnh là tố chất, tư chất của mệnh cách. Cũng như khi học tập thời kỳ nhi đồng, tư chất phát ra bên ngoài khiến người thầy có thể dự đoán tương đối chính xác về tương lai học vấn của mệnh tạo. Định cách của Không Kiếp cũng vậy, tuy nhiên xét định phức tạp hơn tổ hợp sai khác lớn khi tính chất mâu thuẫn, xung đột nằm ngay trong nội cách cục. Nhiều bố cục khi gặp Thiên Không đơn thủ gặp tai họa nặng nề hơn khi gặp đủ bộ Không Kiếp, do tính chất phản kháng, tự cát hóa hay hung hóa trong nội cách cục gặp hai tinh đẩu này biến hóa phức tạp. Thường phú luận thường thái quá về tính chất tác hóa của cặp sao này. Thiên Không và Địa Kiếp là cặp Thiên Địa, chữ Nhân tại đây sau khi xét định ý nghĩa toàn bộ tổ hợp sẽ xác lập ý nghĩa của toàn cục. 




Có sách luận, Thiên Không và Địa Kiếp dù đắc hay hãm địa đều có tính ích kỷ, thủ đoạn, độc đoán. Đây là điểm quan trọng khi xét định về thành tựu hay bại cục của Không Kiếp thủ chiếu Mệnh. Không Kiếp tồn tại mệnh cách, phàm nhân mệnh sẽ có những lần đổ vỡ, gặp tình thế khó khăn bế tắc khó có thể đương cự, nhiều trường hợp gây dựng lại từ ban đầu tạo nên khủng kiến trong tư tưởng. Cách cục mạnh sẽ phá tán mạnh, tuy nhiên thế cục vực dậy rất nhanh, táo bạo. Đặc biệt bố cục Không Kiếp đồng độ cư Tị Hợi đắc vòng Trường Sinh cách Sát lực tuy lớn, tuy nhiên sức vươn lên từ khó khăn đổ vỡ cũng rất mạnh. Đặc biệt trong trường hợp có Tướng hay Phá ngộ Không Kiếp đắc lệnh. Bố cục Không Kiếp rất kỵ cản trở của Kỵ, do thực Hóa Kỵ hội cách khiến bế tắc trở nên trầm trọng, nhân mệnh dù năng lực khai sáng, sáng tạo rất lớn cũng khó có thể dụng cách toàn vẹn. Mệnh gặp Không Kiếp rất nhiều lá số xuất chúng như tổng tư lệnh của Chi lê, Augusto Pinoche, Hồ Diệu Bang tổng bí thư Trung Quốc, Garfield tổng thống Hoa Kỳ, Sanba Marin thủ tướng Phần Lan hiện tại chỉ 36 tuổi, Jawaharlal Nehru là thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ, Nguyễn Khánh là quốc trưởng VNCH, cố thủ tướng Võ Văn Kiệt,... Trong những người lãnh đạo này có những đột biến rất lớn trong sự nghiệp chính trị hoặc đổ vỡ thăng trầm bất ổn. Thực tế sẽ có một số nghiệm lý ở trên sai biệt về thông tin ngày tháng sinh do vị trí lãnh đạo cần bảo mật, tuy nhiên khi xét đa phần rất nhiều những số mệnh thượng cách, các nhân mệnh sinh khởi tháng 10 gặp Mệnh Không Thân Kiếp đều đa phần định cách cục đắc lệnh hoạch phát mạnh như trường hợp của thủ tướng Phần Lan hiện tại. Mệnh cách Không Kiếp định bố cục, bởi tính bạo phát mạnh và nhanh chóng của tổ hợp này, khiến nhiều lá số vượt trội đứng đầu một tổ chức lớn hay thậm chí một quốc gia. Khi nghiệm lý định cách bố cục này, nhân mệnh nếu nắm được chữ Chính, ắt dễ nắm được đại quyền. Không Kiếp rất kỵ gặp thêm Hóa Kỵ, trừ trường hợp Đồng Lương nhập miếu địa, hay cách Cơ Lương, Thái Âm cư Hợi. Lược sử về quá trình tạo lập công danh của nhiều lá số người viết nghiệm lý với nhiều nhân mệnh thành tựu đột phá với Không Kiếp, đều đa phần do bản thân nắm được thời khắc quan trọng, thời điểm đột phá khiến Thiên Địa Nhân hợp, rất ngắn để bạo phát. Khí hình gốc càng vượng, bạo phát càng lớn. Với mệnh cách Không Kiếp, thường nhiều nhân mệnh phát phú hơn phát quý. Do định cách của Phú cách phù hợp với tính chất khai sáng của nhóm sao này. Quá trình phả Quý cách hay Quan cách cần sự hợp hóa hữu tình của cách cục, sẽ xuất thân hay phát triển trong hoàn cảnh tương đối nghịch truyền thống, dẫn tới tư tưởng táo bạo và khác biệt. 

Monday, July 19, 2021

Tượng của khí hóa

Khi vạn vật hấp thụ sinh khí khởi vòng Trường Sinh, tính chất dịch chuyển của ngữ hành sinh khắc chế hóa tác động tới mệnh lý. Phàm thiên khởi ắt có địa tác. Điều hỗ lý này sinh ra những kết quả sai biệt khi luận đoán về dịch. Tượng của khí hóa đều tính chất riêng rẽ đặc biệt. Tuy nhiên màu đen cũng phát sinh rất nhiều mức độ, nếu trạng thái ứng hợp hoàn toàn chính là đen tuyền. Tứ hóa cũng vậy, khởi biến hóa phức tạp phát sinh nghĩa lý trong các hoàn cảnh tính chất hoàn toàn khác nhau. Các tinh đẩu trong tử vi tính chất cũng vậy, tuy xét về bản thể khí hóa tạo bởi âm dương ngũ hành phân định đều rõ ràng, khi ứng hợp các hoàn cảnh phân định sai khác rõ nét. Cùng một mệnh cách trên Thiên Bàn ứng hiềm bát tự 8 chữ cái giống nhau, ắt khi định số bằng toán mệnh ắt bất sai khác. Lấy khí ứng của chính nhân mệnh sẽ khiến toàn bộ tinh bàn tác động khởi khí hóa phân định khác biệt. Nếu cùng số mệnh, mệnh tạo sinh khởi theo nguồn gốc Phụ Mẫu hoặc giàu có, hoặc có danh vọng, địa vị lớn trong xã hội tính chất khởi phát của khí hình ngay từ giai đoạn gốc tính chất sai khác rất lớn với mệnh cách cùng chung lá số với phụ mẫu sinh khởi trong thời kỳ khó khăn, nhiều tai họa tác động tới phụ mẫu dẫn tới khởi điểm nhân mệnh không được thừa hưởng những điều tốt đẹp khi khởi đầu. Tuy nhiên cách cục trên có tác động lớn với một số bố cục mang tính kế thừa từ mệnh cách như Thiên Phủ, Thiên Lương,... Với những mệnh cách như Vũ Phá, Liêm Tham, Vũ Sát hội Hao Sát Kỵ Hình ắt có khởi phát gốc vững từ phụ mẫu cũng dễ phá tán hết rồi làm lại. Cũng vậy, với cách Vũ Tham, Vũ Phủ, Cự Nhật, Cự Cơ hay Tử Tướng,... là bố cục phần lớn không quan trọng khởi hành của gốc khí hình đắc cách có thể tự sinh thành tựu lớn. Khi luận nhân mệnh, quan trọng khởi đầu khi luận định lá số tốt đẹp dựa vào tổ hợp tinh đẩu thể hiện năng lực nội tại của mệnh tạo. Nếu cách cục hình thành Khoa Quyền Việt Kình hội Tang  Hư Mã là nhân mệnh có thực lực tuy gặp nhiều khó khăn tác động bởi nghịch cảnh. 





Với bố cục có Không Kiếp càng khó để luận đích xác ý nghĩa của tổ hợp. Với cách Không Kiếp Đào Sát thường luận là cách hung họa. Tuy nhiên người viết có giữ hàng chục lá số khi bố cục này xác lập thành cách đều có năng lực và vị trí rất cao trong xã hội. Bố cục này chỉ cần gặp thêm Thiên Hình hoặc Kỵ Hình hay Đà Kỵ ắt là cách bại cục. Cũng có nhiều lá số người viết gặp bố cục này khi luận giải đang trong đại nạn lớn, có người tuyệt mạng. Thí như, nhiều động vật có khả năng kháng chất độc trong tự nhiên, có loài sử dụng độc tố làm vũ khí tự vệ cũng như săn mồi. Sát Tinh như độc tố, kẻ chế ngự được một đời bạo phát, kẻ chịu tác họa của Sát một đời khó tránh yểu vong hay bần khổ. Sát tinh như thế cục của sinh tồn trong tự nhiên, vật chế dụng được thì phát lớn. " Hung tinh đắc địa phát dã như lôi". Nếu vật không chế dụng được, cũng như các loài chịu làm thức ăn cho kẻ khác. Sát tinh tổ hợp trên tinh bàn biểu thị biến hóa rất lớn, có kẻ đan tâm thù niệm với kẻ khác ra tay hình thương sát hại chịu hình pháp của quốc gia. Có kẻ làm việc trái đạo đức vẫn được ung dung ở vị trí cao viễn, do Sát cách chế hóa thành cách.  Tiền nhân phân định Sát tinh mệnh bần yểu là xét về hóa khí âm ám của Sát, phân định Sát tinh thành cách là xét về tú khí sáng vượng của Sát. Như việc loài vật ăn cỏ không gây nguy hại tới loài khác, tuy nhiên  đây là loài dễ bị trở thành thức ăn của loài ăn thịt. Hóa khí của Sát có thể hóa thành Lộc, tức tích lũy, thức ăn, lương tiền, lộc khố. Hóa khí của Sát có thể hóa thành Quyền, tức sự thống trị, cai trị, uy trấn. Hóa khí của Sát có thể hóa thành Khoa tức sự cẩn trọng, tinh anh, nhạy bén, linh hoạt tránh thế hiểm. Hóa khí của Sát thường hóa thành Kỵ, chịu làm kẻ thua thiệt, kẻ bị hại, cản trở, bế tắc, phá bại. Vì vậy, khi một cặp Hỏa Tham tương ngộ đã hình thành nên ý nghĩa phát phú, bản chất ý nghĩa tham muốn về tài sản, tham muốn vật chất. Mạnh hơn Lộc Tồn là tích lũy, tích trữ. Tham Hỏa vừa thể hiện một mặt tích lũy do tham muốn vật chất, vừa thể hiện tính linh hoạt, bộc phát của Hỏa Tinh. 





Hay cách Tử Phủ Kình Dương thành cách cự thương. Do Kình Dương có tính dẫn đầu, đi đầu, cạnh tranh mạnh. Bộ Tử Phủ có tính khai phá, khai tạo, cũng chứa tài sản bên trong do Thiên Phủ có Vũ Khúc tam hợp chiếu. Kình Dương tại đây tác động hỗ trợ mạnh như hóa khí Khoa Quyền. Sát tinh khi nắm chính đạo có tính bạo phát rất lớn. Tuy nhiên điểm cốt tủy của Sát cách nằm tại tính chất áp lực khủng kiến của Sát Kỵ tới tư tưởng nhân mệnh bằng những hoàn cảnh khó khăn, bế tắc trong cuộc sống có thể khiến nhân mệnh nhanh chóng sinh khởi tư tưởng chấp nhận với hiện thực, trượt dài trong thời gian khó khăn dẫn tới đánh mất tuổi trẻ. Trong thế đứng của cát tinh thường được luận tầm thường sự nghiệp. Khi định cách cục, trợ tinh văn tinh hội họp có tính chất tăng sự ổn định và tham muốn ổn định trong nội tâm phân biệt rất rõ về tính chất ổn trọng của từng cách cục tạo ra ý nghĩa. Thí như cùng một việc, một kẻ muốn sự an ổn khi tham muốn sự nghiệp cầu danh lợi, tránh tranh đấu, trong một tổ chức, lại yếm thế về năng lực có khuynh hướng nhường nhịn, dễ sinh bất mãn rất lớn trong nội tâm khi trong nội tâm một mặt lo ngại sự thay đổi dẫn tới mất việc, hoặc khi đụng chạm dẫn tới mệnh tạo gặp nhiều rắc rối. Tính chất ổn trọng tạo bởi trợ tinh gặp phá cách trong trường hợp này. Thí như trường hợp khác khi trợ tinh điều ngự, chế hóa Sát tinh, nhân mệnh ở thế chủ động, lấy công kích, kích động và ổn định được tư tưởng khi ở thế chủ động tranh đấu. Hai trường hợp này, tuy cùng vị thế cách cục và cách ứng hóa của bố cục sai khác, trái ngược hoàn toàn với nhau. Cũng như vậy, thường nghe việc thành tựu của một người ắt gặp một thời điểm khủng kiến về chính tư tưởng, bế tắc tuyệt vọng và lựa chọn đường duy nhất phải vực dậy hoặc mãi chìm xuống dưới đáy. Ngẩng đầu lên ăn xin chính là Kình Dương, ngẩng đầu lên để vực dậy cũng là Kình. Cúi đầu để nhận tội, nhận cảm thông là Đà La, cúi đầu nhìn xuống để phán xét, ra lệnh cũng là Đà La. Thực tế khi luận phần đắc hãm một tinh đẩu tức xét tính hữu dụng và bất dụng. "Kình Dương mắt đen như tà, ắt hẳn Hóa Kỵ trùng là Hình Diêu. Thập phần tính chủ liều, đụng vào không khéo vướng điều oan gia". 





Thường Sát tinh củng chiếu mệnh phát sinh diện tướng bên ngoài ứng hợp. Có tướng diện kẻ hung ác, kẻ thâm trầm, gian trá, kẻ hiền hòa, giỏi lý lẽ, kẻ có tham vọng lớn, kẻ đào hoa,... tướng số phát sinh ra diện tướng bên ngoài nhiều như vậy. Tử vi khi định cách các lá số cũng phân biệt không sai khác. Tuy nhiên thường người nghiên cứu tử vi hiện nay do sự trà trộn của man thư, luận về ứng hợp tính cách trên lá số tử vi của nhân mệnh còn không bằng nhìn trực tiếp tướng diện để xem tướng đoán mệnh. Điều này ám chỉ trong ý nghĩa của tinh đẩu hoặc khi phối hợp thành các tổ hợp, khi kinh thư lưu truyền ra bên ngoài đã tam sao thất bản khi định cách. Toán mệnh cách là bộ môn huyền diệu trong huyền học lý pháp về Nhân trong thiên địa nhân. Thực tính từ nguyên tắc luận định từ dịch lý để xét khởi. Việc xem xét nhân tướng học, xem tướng mạo được xác định là việc cơ bản trong đời sống hàng ngày. Tướng mạo tiền nhân thường luận về ác tướng như mũi diều hâu, mắt tam bạch, tứ bạch đản, yết hầu lộ cao kết hợp da cổ mỏng, hàm dưới dài mặt gãy khúc,... . Hoặc thí như một số tật bệnh tạo ra tai kiếp ngay từ khi mệnh tạo thụ thai như hội chứng của bệnh Down sẽ bất lợi về trí tuệ rất lớn. Về hình tướng cũng sẽ đặc trưng so với những người bình thường. Hiện tại những khám phá y sinh mới hiểu rõ về nguyên do bệnh tật này. Trong thời đại quá khứ, xét biến hiện bởi tướng trạng bên ngoài để luận đoán, dự đoán số mệnh từ kinh nghiệm. Việc đương số sinh khởi tướng mạo ứng hợp với tư tưởng nội tâm hành hóa bởi khí đã khởi phát từ xa xưa, ngay cả khi nhìn các giống loài ăn thịt và ăn cỏ sát tướng và sát khí khởi phát rất sai biệt. Môn bốc phệ, quẻ dịch thời khắc sự kiện phát sinh chiêm bốc dự đoán về việc cát hung phát sinh một điểm quan trọng chính là giờ thai tạo của một nhân mệnh ắt sẽ sinh diễn biến nét chính về dự đoán cuộc đời của mệnh tạo. Tú khí hay tạp khí là điểm tối quan trọng khi luận toán mệnh một lá số. Cũng như diện tướng hiển hiện quý tướng trên khuôn mặt hợp vị, hợp cách tức tú khí phát ra bên ngoài. Định cách lá số tử vi không nằm ngoài lý này. Tổ hợp tinh đẩu thành cách ứng hợp diện tướng có điểm đắc cách. Khởi cách cục, luận mệnh đắc cách, dù Hỏa Linh Không Kiếp hội không đáng ngại, trái lại còn tạo nên hoạch phát lừng lẫy cho mệnh tạo. Khởi cách cục, luận mệnh phá cách, dù Lộc Mã Khôi Việt cũng là mệnh tạo bình thường, chỉ lo lắng cho sự an toàn, yên ổn của bản thân bỏ qua nhiều cơ hội phát triển lớn. 



Tượng nguyên thủy của Hóa Lộc là thái, tượng của Hóa Kỵ là bĩ. Hiềm nỗi vận thái bĩ luân hồi. Nhân mệnh không trải qua khó khăm trắc trở lớn như Kim không được Hỏa luyện ắt không bén. Phàm mệnh cách hình thành thế Xương Khúc Tả Hữu Khôi Việt trùng phùng hội các vòng sao tốt đẹp như Lộc Tướng Ấn, Tuế Phượng, Đào Hồng với các Chính Tinh cát hóa, đa phần khó đắc cách thành tựu lớn hơn hội Sát Kỵ trùng phùng. Do yếu tố căn bản của ổn định phát triển là thiếu đột phá, bứt phá với tham vọng đột phá. Nếu một kẻ khư khư giữ tiền của bản thân trong túi tích cóp nhỏ nhặt có thể trở nên tiểu phú, tuy nhiên sẽ khó có cơ hội trở nên đại phú, phú gia địch quốc. Điểm cốt tủy ở cách cục hay khí hóa hình thành là chữ Tinh. Có thể luận theo ý nghĩa diễn giải là tinh hoa, tinh túy mang tính cô đọng, ngưng tụ của Hóa Kỵ. Sát cách khi chế hóa được cục, nắm được chữ tinh, ắt nắm được Sát cách, luận được tổ hợp Sát, tức định cách được lá số, những điểm cát hóa mạnh hay phản tác hóa vi cát của Sát tinh có sức tác động rất lớn, tăng mức độ của cách cục. Sát cách khi tác họa, nhẹ thì hình thương họa hại, nặng thì khí tuyệt mệnh vong. Sát cách khi  cát hóa, phúc hẳn rất lớn. Thực tế khi định cách cục trong tử vi, hai lá số đồng dạng, sinh đôi trường hợp khác trứng của Đông A phái khảo sát có sự tương hợp rất lớn về tính cách và nghề nghiệp. Tuy nhiên hạn hành hoạch phát hay hung tai mức độ sai khác. Như người viết có xét hai trường hợp của cùng sinh đôi. Cùng giai đoạn Hổ Hình Lộc, mệnh cách theo hai khuynh hướng sai biệt, người anh theo ngành luật sư kế thừa người cha, người em theo ngành thẩm phán tòa án. Hạn năm Kỷ Hợi tức năm 2019, nam mệnh theo ngành thẩm phán gặp thời một bước lên mây, thăng chức liên tiếp trong khoảng thời gian ngắn. Người anh theo ngành luật sư cho doanh nghiệp bên ngoài năm này giải quyết vấn đề liên quan giữa doanh nghiệp cũng tạo được tiếng vang rất lớn, tuy nhiên sức hoạch phát về công danh không lớn mạnh như người em, tuy nhiên về phần tài lộc và ám lộc có phần tốt đẹp hơn. Bố cục định Sát cách tuy hai lá số trùng nhau, lại cùng môi trường hoàn cảnh gia đình, tuy nhiên khuynh hướng về sau sai khác, cùng ứng hợp với bố cục nghề nghiệp mang tính hình tụng, lại có điểm sai biệt. Tuy đại đồng nhưng tiểu dị.




 Phàm nhân mệnh gặp vận hạn tối tăm mờ ám, khó có thể tạo nên đột biến lớn nếu Sát cách không chế ngự được bởi toàn cục. Lại ứng tới mỗi nhân mệnh sẽ hấp thụ nguyên cục của Sát tinh và sau đó hóa hợp mang ý nghĩa sai khác. Sát cục hóa thành tú khí, mệnh này tối quý, ắt nắm đại quyền. Sát tinh hóa thành tạp khí, hung khí ắt mệnh ứng hiềm dễ yểu tử hay gặp ác nạn bất ngờ. Cũng giống như các thời cơ do hoàn cảnh mang lại hiện nay như việc một làng được xây dựng các khu chế biến, công nghiệp ngay tại đó ắt đời sống của người dân buôn bán gặp thời. Lá số cuộc đời cũng như vậy, có vận cát hóa, dễ tạo được thành tựu lớn trong đời, có vận hung họa dễ gặp tai kiếp. Cũng vậy, người nắm được thời vận biết tiến lui phù hợp hoàn cảnh ắt có được phú quý. Trong thời điểm ứng hiềm thời bĩ của vận thiện hạ, việc phát sinh bệnh dịch như dịch covid-19 hiện nay, khi xét bố cục vận nước qua mỗi quốc gia nhìn rất rõ được tai kiếp của vận làng, vận nước, vận thiên hạ tác động tới mỗi nhân mệnh. Tại một quốc gia đang gặp tai kiếp nặng nề do bệnh dịch như Ấn Độ có thời điểm lên tới gần 400.000 người mắc mỗi ngày , hay Nepal có ngày lên tới hơn 8000 người mắc. Và bệnh dịch này có tỉ lệ khoảng 1/4 tác động nghiêm trọng tới phổi hay cơ quan nội tạng. Tức với quốc nạn này hình thành, cao điểm sẽ có khoảng gần 100.000 người mỗi ngày chịu tác động hậu quả lớn. Cả một số ngành nghề kinh thương hay có những người giàu sẽ trở nên khó khăn, nợ nần lớn khi chịu tác động trực tiếp tới việc kinh thương. Trong thời điểm bệnh dịch này, mệnh cách hội họp nhưng tinh đẩu chủ di chuyển, chuyển động thường xuyên ắt sẽ ứng hợp với nguy cơ mắc bệnh cao hơn. Hoặc như tại vận làng, cũng sẽ có khu vực trọng điểm dịch bệnh. Điều quan trọng tại đây là trong sẽ có nhân mệnh tại mệnh cách hình thành bố cục Kỵ Hình Việt hội Tang Hư Mã và Sát dễ hóa thành mang ý nghĩa vi phạm quy định, thêm Phi Liêm thành cách trốn trách khai báo, có hung họa hay không còn ở tại Lưu Sát Kỵ và Không Kiếp Hỏa Linh. 




Nhân mệnh khi xem các môn huyền học mệnh lý, hay xem bói, lên đồng, cúng bái, giải hạn khi xét tới yếu tố dự đoán về việc sắp diễn ra cần chú ý tính xác thực. Nhân mệnh cách hạn hoạch phát nếu xét tại diện tướng có thể nhận định dự đoán tương đối gần và sát thực tế do khí phát tiết ra bên ngoài diện tướng, tướng mạo là hành khí đặc trưng của mỗi nhân mệnh. Lá số tử vi là thế đứng của nhân tính, do bản tính chịu tác động của âm dương ngũ hành, thuận vòng Trường Sinh lấy làm thể mệnh. Quá trình xoay vòng không dứt, một vòng tròn thập nhị cung đồ, 12 cung như thập nhị nhân duyên. Sinh Vượng Tử Tuyệt cuối cùng nhập Thai sinh nối tiếp nhau. Liệu bản tính của nhân mệnh có thực là hình thành trong kiếp sống này hay thực tế là tập khí chuyển dịch của kiếp trước. Vòng Trường Sinh là vòng tròn, không thấy điểm cuối. Bản chất nhân mệnh là sinh diệt tự mất đi, tuyệt khí về tâm thức sau khi tuyệt mạng, hay như vòng Trường Sinh, cuối cùng của chữ Tuyệt lại bắt đầu một chữ Sinh mới, điều này khó có thể khẳng định. Thực tế người nghiên cứu tử vi, nghiên cứu các môn huyền học toán mệnh sẽ tự chiêm nghiệm của bản thân thực chứng về thế giới quan về huyền học phương Đông. Sinh và tử của con người là quá trình bất dịch. Tượng của khí hóa là thể của thiên địa. Thí như mưa đủ thì vạn vật tốt tươi, nhiệt đủ thì sưởi ấm vạn vật, đất giúp thu tàng, dưỡng mộc. Kim là thuộc tính quan trọng của thiên địa, trong máu hay các cơ quan trong cơ thể đều có kim loại, kim sinh thủy, trong các nguyên tố kim loại chiếm phần tương đối lớn trên bảng tuần hoàn hóa học. Ngũ hành có tính chất riêng biệt. Mệnh quý rốt cuộc có thường có quý tướng, tính cách, thói quen dễ dẫn tới thành công. Cũng như việc khi chưa nắm rõ nguyên lý về bệnh tật, coi việc những nhi đồng không may gặp bệnh tật như bệnh down và tắc-nơ theo tướng số ắt thường khó có thể đạt được những tài danh hoạch phát khi xét nhân tướng. Người nghiên cứu toán mệnh nên soi xét về điều này, thường quy dự đoán phú quý thành bại về tư tưởng, tâm sở của bản thân. Tâm thức mạnh, chuyên nhất, tập trung với tham vọng dễ đạt được những thành tựu tốt đẹp. Mệnh tạo nếu chịu tác động bởi nhiều Đào hoa tinh là việc khó luận, có thể dẫn dắt tham vọng cầu tài danh, có thể khiến nhân mệnh chìm sâu trong ảo vọng về tài sắc, hư huyễn. Cách cục mạnh trong mỗi thời kỳ mỗi khác. Khi chế độ phong kiến, quân chủ sụp đổ, không còn vua thực quyền, danh chính ngôn thuận. Thời thế thay đổi, tinh đẩu biến hóa theo nghĩa lý của thực tại, tuy nhiên về ý nghĩa gốc cốt yếu không sai khác.