Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Wednesday, December 29, 2021

Ứng nghiệm với quẻ gieo

 Trong toán mệnh, vật quân bình là cát. Sự quân bình của âm dương là điềm lành. Trong đời người, không tật ách, bệnh hoạn là phúc. Chữ phúc là suy xét của quá trình phát triển, cứu giải qua hạn hành tai nạn và khi về các hành vận thăng trầm có thể vực dậy. Có người bạn lâu năm người viết hơn nửa đời theo dưỡng sinh khí công, đi khắp đây đó tìm các môn khí công biệt truyền để nghiên cứu, học hỏi không quản tiền bạc công sức. Tuy tài quan vận không lớn, được thân thể tráng kiện vô bệnh hoạn, tinh thần sảng khoái. Lại mở lớp truyền đạt, theo nghiệp y đức giúp người lợi thân. Cũng là điểm mừng của mệnh số. Cũng có nhiều người rơi vào suy tính cả đời tiền bạc, danh tước, được ít mất nhiều, cũng là niềm vui khi được mất, tuy nhiên khi bệnh tật khổ ách khó cam chịu.  Sức thể tráng kiện, tinh thần sáng suốt là cần thiết để có thể tạo những điều phi thường từ việc bình thường. Rất nhiều việc phi thường tạo ra từ những điều bình thường, đơn giản trong đời sống. Cũng vậy, có những điều bất ngờ tới tai họa nặng nề từ những sơ suất tạo ra. Cổ nhân tất luận "Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí". Điều họa phúc là phép định tính, thí như hỉ mừng, khổ não. Phúc là điều tốt đẹp, họa là điều mất mát, hung họa. Việc trong đám cưới chạy tang là chuyện có thực tế. Kẻ vui mừng khi tranh giành được đất đai, người buồn khổ vì cảnh tương tàn. Việc Hỉ thường có mặt khi đạt được mong muốn, cũng thường xuất hiện khi đoạt được, tranh đoạt, tranh đấu cho tới tranh cướp. Hoặc có kẻ mua được giá rẻ, người bán mừng vì bán được giá đắt. Cùng vật mua bán, cách định tính hai bên có thể suy tính khác nhau. Điều này dẫn tới một điểm quan trọng, việc vui mừng nên có tri kiến, hoặc khả năng suy tính, luận định tốt đẹp hơn việc thiếu khả năng xét đoán, nhận định sai về giá trị. Việc hỉ mừng đặc trưng cho tất cả tinh đẩu không riêng Đào Hồng, Song Hỉ. Đặc biệt, đa phần tất cả hung sát tinh đều phát sinh tính tranh đoạt và hỉ mừng khi hợp hóa cách cục. 




Do vậy, thực tế điểm vui mừng của mỗi nhân mệnh đều ẩn một cách cục Sát cách cường vượng. Thí tới, việc hỉ mừng mỗi nhân mệnh có tính sai biệt. Khi người có tiền bạc đầy kho, việc mất mát tiền của có thể không quan trọng bằng sức khỏe, người nghèo phải đánh đổi sức khỏe để mưu sinh. Xuất hiện sự bất bình đẳng là thực tại được công nhận. "Nhất tướng công thành, vạn cốt khô". Trong nội bộ một xã hội, cũng xuất hiện những bữa ăn có giá trị bằng khoản nợ tiền chữa bệnh nan y của người nghèo, liên quan trực tiếp tới sinh mạng. Trên phương tiện xã hội tiếp cận càng lớn, việc nhìn nhận sự tách biệt càng rõ. Điều quan trọng, là có những sự bất mãn thực tế hiển hiện xảy ra, tức Cự Môn chính là một nguyên nhân để thúc đẩy mỗi nhân mệnh. Sự bằng lòng vô định hướng không khiến nhân mệnh vươn lên mạnh bằng việc ôm bất mãn nỗ lực. Cự Môn chủ tinh của nhóm sao chỉ hai chữ Cự Nhật có thể vượt trôi hơn 2 nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm và Sát Phá Tham. Với việc mất định hướng, vô định cũng là điểm khó khăn dẫn tới Tử Vi là tinh đẩu quan trọng để vươn lên. Thăng quan, tiến chức, phát tài, đắc danh, cầu duyên đều dễ là điểm hỉ mừng. Tuy nhiên có một số trường hợp việc lên chức mang lại khá nhiều phiền muộn, giữa hư quyền và thực quyền, giữa vị trí thăng tiến thường sắp xếp để bị luận tội, hay việc phát tài do bán chất cấm, buôn lậu có việc thất kinh trong khi phát tài. Việc ám lộc có sức phát lớn hơn chính lộc nhiều do nguyên nhân từ ám lộc cách có thể phát kiến từ những trao đổi ngầm. Do vậy thực chất cách Vũ Phủ Lộc hay Thái Âm Lộc đều mang tính chất tài cực vượng khi thành cách. Hỉ kỵ và dụng thần là phần quan trọng khi định cách ngũ hành và thần sát trong bát tự tử bình. Hỉ và kỵ khi hội cách trong tử vi cũng mang tính chất quan trọng. Một cách cục hay bởi Tham Hỏa Lộc Kỵ rất bất lợi khi hội thêm Thiên Hình. Dịch lý là tổng quyết của pháp, là sự biến chuyển dịch biến của vạn vật mô tả khởi phát từ hơn bốn ngàn năm trước. 



Nhìn dịch học thấu triệt được chứ ứng. Phàm nhân mệnh khi tâm tính tương thông, vắng lặng khởi sự, gieo quẻ tính dự đoán một phần tính chất việc diễn ra, có những kỳ nhân dự đoán về vận nhân thế diễn ra bởi những khí tượng của quốc gia. Khởi một niệm là tương ứng một kết quả. Cũng vậy khởi một con người thai sinh là điểm quan trọng tương ứng, toán mệnh tới số phận. Vì bản chất khởi sinh một nhân mệnh thể thức, tinh, khí, thần rất mạnh, thường gọi thông linh. Các môn toán mệnh, hà đồ dẫn hóa tới lạc thư, biến chuyển dịch biến có khởi và kết. Hà đồ là thường, Lạc thư là biến. Thái ất, Độn giáp, Lục nhâm mang tính dự đoán sự việc là gốc khởi. Thông linh tương ứng là tính chất đặc biệt của dịch lý tương quan với sự tồn tại của mỗi người và tương thông với đạo hay phật giáo. Việc thiền tưởng khiến tâm vắng lặng để phát sinh những năng lực tâm linh cũng tương tự như việc khởi tâm dụng quẻ, khán định được cát hung sự việc như kinh dịch. Phàm việc cùng khởi nguyên và kết quả, chỉ khác phương pháp truy cầu. Suy cùng đạo cùng chung đường, truy cầu đạo quân tử, dịch lý biến ảo khôn lường. Cũng điểm cốt yếu là nhất tâm. Vật khởi biến dịch luôn có nhân nguyên, cũng biến động nằm trong vòng quy luật thiên cơ. Hỉ mừng của người truy cầu đạo là con đường dẫn tới chứng nghiệm cảnh giới. Hỉ mừng của người binh sĩ có khi chỉ là được về thăm nhà đoàn tụ gia đình. Hỉ mừng của người tu hành là giải thoát. Tâm nhất quán dẫn tới thông linh, nếu không có điều này liệu đoán quẻ dịch tại thời khắc truy cầu liệu có thể ứng nghiệm. "Vạn pháp duy tâm tạo"  là cổ ngữ chứa đựng nhiều huyền cơ và chứng nghiệm của rất nhiều giai đoạn và hệ thống khoa học huyền bí xuất hiện nhiều tại quốc gia tu tập con đường của đạo. Những tinh đẩu tác động vào tâm tính, bản tính phản ứng trước những vấn đề bất ngờ phát sinh, khi bản thân nhân mệnh không làm thể chủ tâm trí và tác động từ định tính xã hội có thể dẫn tới trầm uất tự sát. Với tình cảnh vậy mỗi nhân mệnh giải quyết vấn đề riêng biệt. Bẩm sinh có nhân mệnh khuynh hướng nhường nhịn chịu thiệt phần mình, có nhân mệnh tranh đoạt mạnh mẽ, có nhân mệnh lý lẽ, nhân mệnh ưa hành động. 



Một vòng tròn sắp xếp bởi mệnh số "Đại phú do thiên, tiểu phú do cần". Thiên địa vận hành là cái lý dẫn động cát hung, người sống trong thể thiên định tuân định theo quy luật, thai sinh khởi thời khắc xuất nhập ngũ hành tú khí, luận định trên là sự tác định của những đúc kết tiền nhân. Tuy có một phần tác động của thời kỳ phong kiến lập định mệnh thiên tử ứng do trời lập để ứng với thần quyền. Vận số là vậy, có thể thay đổi vận khí chính là dựa vào thế mạnh ứng hợp của bản tính. Thứ tới là sự khởi quyết của tâm với những thói quen từ tưởng thức hóa nhập thành hành thức. Thí như trên mệnh số rất nhiều khuynh hướng tương ứng, rất nhiều cách cục phát sinh, tuy nhiên nhân mệnh thọ thai gia đình quyền thế sẽ có nền lực phát triển mạnh hơn. Có lá số cùng thời nhân mệnh theo nghiệp kinh thương phát tài thập vạn, có người theo nghiệp công chức đắc danh mà không có lợi, hư danh. Có những sự mô tả những hạn hành tử tuyệt, thời kỳ hiểm nguy của nhân mệnh khởi phát trên bát tự. Bia đá cổ ngữ vẫn còn đó, chỉ có người trông qua còn nhớ hay vô tình đi qua. Toán mệnh lý xưa nay vẫn còn tồn tại sau bãi bể nương dâu, gặp những người hữu duyên làm thú vui nhàn nhã kinh sách. Cũng như pháp phật cao thâm, cũng người tín kẻ không, người thấy huyễn hoặc, người chứng tâm thông. Trong lưỡng nghi, quẻ liền 2 vạch là dương, ứng thể chủ động, quẻ đứt 2 vạch là âm. Vạch thể này là tượng hình của âm dương. Mỗi quẻ 4 hào sinh Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm. Từ quẻ trên thêm 2 hào sinh bát quái. Luận lưỡng nghi mặt âm dương. Trong thực tế Thái Âm tức mặt trăng ẩn tàng, mượn sức sáng của mặt trời chiếu để lộ ra bên ngoài, ban ngày thì mờ ẩn, mặt trăng sáng thứ hai khi nhìn trên trời. Điểm quan trọng là luôn nhìn thấy chỉ một nửa thái âm, nửa còn lại tuy được mặt trời chiếu sáng tuy nhiên không thể nhìn thấy do góc quay tương đồng của địa cầu và mặt trăng. Ứng với điểm âm chứa dương và dương chứa âm của thái âm. Do vậy, tính âm dương lưỡng nghi được xác tính chuẩn xác qua tính chất của Nhật Nguyệt. 




Từ sự tương tác liên quan tới thực tại, Nhật Nguyệt là cặp âm dương đối ngẫu. Nắm điểm này rất cần thiết, cũng như khi cho phương trình số ẩn, thay số ẩn là điều thực tế tức nhật nguyệt và khoảnh khắc thai sinh, được điểm dự báo theo quy luật của tự nhiên và vạn vật. Từ thế lưỡng nghi sinh tứ tượng, cũng là sự tương hóa rất kỳ lạ của tự nhiên, phân định mô tả về bản chất của tứ giao mùa hoạt hành. Những điều thực tế này như bài toán cụ thể về dự đoán thứ nằm bên trong thiên địa, là nhân mệnh qua thời khắc ứng hóa với một số quy luật kế tiếp. Lục thập hoa giáp, khởi phát kế tiếp ứng với chữ thời. Điểm hóa này rất quan trọng, chia nhỏ cụ thể thêm bài toán về quy luật biến dịch. 12 địa chi phối định 10 thiên can, ứng thế âm dương theo luật, được 60 hoa giáp ứng với thời năm. Lại xét chỉnh thêm khắc của tháng xét nhập năm nhuận. Xét nhập phân cắt gần hơn là ngày, tới giờ tức thời khắc. Xét một thời điểm khớp với thời của lục thập hoa giáp khởi bởi ngũ hành 10 Thiên can gồm 5 âm và 5 dương. Phối địa chi chính là thời khắc, ứng với chuyển dịch nhật nguyệt. Ta được lục thập hoa giáp. Khi ứng điểm bắt đầu của vòng là Giáp Tí bắt ứng với thời khắc quy luật vận hành ngày đêm, tháng năm của mặt trăng, mặt trời. Vào rạng sáng ứng giờ Tí, tháng Tí ứng tiết trời đại hàn, năm Tí là khởi lục thập hoa giáp. Khởi phát tuần hoàn 60 năm kiến tập, xác tính thấy 1 năm sai biệt, khởi nhuận ứng nghiệm đúng. Người đời nghiên cứu thấu tường được lý lẽ nghiệm của quy luật là thực tế ngoài đời, thời khắc, thời gian đã hàm chứa thông tin, quy luật tại chính thời điểm. Do vậy khi khởi ứng quẻ thành tâm thông linh đoán tượng đúng, cũng thực chủng tử vô thức vận hành theo quy luật thiên địa. Xét truy nguồn gốc, thời khắc âm lịch tạo bởi bát tự 8 chữ là nguồn căn vậy. Như một bộ máy đếm từ 12 giờ, điều quan trọng nhấn đúng thời khắc chính mặt trời chiếu đứng bóng, đã bao hàm tượng khí dương cực thịnh, bao hàm quy luật trong nội tại. 




Do vậy chữ thời, hay bát tự là điểm quan trọng nhất để xét định dự đoán quẻ hay luận mệnh. Tương ứng vậy, thời khắc thai tạo một nhân mệnh còn ứng thêm một lý của vòng Trường Sinh, xét định vận trình dự đoán cát hung họa nạn cuộc đời. Vi diệu nên gọi là Huyền. Có tri kiến bên trong nên gọi là Học. Khi đếm 12 giờ ắt hiểu được đây là thời khắc thái dương chiếu mạnh nhất. Tuy nhiên hậu học về sau lại lấy 12 giờ làm gốc, như lấy tử tức bỏ phụ mẫu. Tại một số vị trí vùng cực, buổi đêm suốt nhiều tháng. Nếu lấy 12 giờ làm chính ngọ không có khí dương, dịch lý sai biệt không ứng với quy luật của nhật nguyền, không có cái thực tại, ắt mô tả dự đoán không thể xác định. Cũng như xem địa lý phong thủy vận, nơi không có dương hỏa, vật hàn lạnh, khí sát thấu độc. Những nơi phong thủy vậy gây họa hơn phúc. Nơi địa lý vùng cực, hay xích đạo, cũng là điểm thiên lệch của thiên địa. Cũng vậy, xuất nhiên vòng lặp lục thập hoa giáp mỗi 60 năm. Tuy nhiên mỗi giai đoạn lịch sử, người kiệt xuất sinh bởi thời định sai biệt không lặp theo vòng trên. Cuối cùng, điểm cốt yếu của nhân sinh. Người viết gặp cảnh biến động của thời cuộc, thời điểm quốc gia gặp nạn. Có điều xuyên suốt từ xưa tới nay, có những nơi người nghèo khổ nhất, lại chứa đựng chủng tử lương thiện hành động không suy nghĩ thiệt hơn. Người bươn trải ngụ cư đầu đường, cho đi đồng tiền rách nát tới người  lâm cảnh bệnh tật nan y, bệnh hoạn khổ cực, khi nhận lại sự trợ giúp từ chối giữ sự thanh bạch của Liêm Trinh Thiên Lương. Thời điểm khẩu hiệu " một nắm khi đói bằng một gói khi no " cùng cực, về sau thời hòa bình có người được phụng dưỡng, nhiều người sau khi trải qua thời điểm hoạn hạn đùm bọc, tới giai đoạn đầy đủ chính gia đình rời bỏ, coi như gánh nặng. Có những trường hợp, nhận một điều tốt như bất ngờ xúc động không thể kiềm, vì người thân tử tức còn không lo tới, già sức yếu tự lo bản thân, người ngoài vì lòng thương người, giúp đỡ không vì sự liên quan lại có thể hết tâm ý giúp đỡ. Dẫn trong bản thức, hoàn cảnh khó khăn cùng cực, giữ được chữ Nhân. Người thân không có điểm nương tựa, nhiều nguyên do được giải thích. Tuy nhiên suy xét rõ cũng là chữ bạc. Ứng câu " Cò ơi cò bạc như vôi " như sự thực hiện thực không thêm bớt nửa lời, nhận định không phiến diện. Những nhân mệnh vậy, thường lại xuất hiện các tổ hợp Sát vô tình,  mệnh Sát hữu tình thì phát tiết hợp hóa bạo phát. Mệnh Sát vô tình thừa nhập cơ tới giai đoạn đảo nghịch vận lâm thế nguy cấp, cũng ứng hiềm nhân quả tuần hoàn. Tới khi chung cuộc, vật đều trạng thái hòa, tất cả đều bỏ, danh sắc tài không còn là thứ quan trọng, đều trôi như nước, chỉ còn tâm hoan hỉ hay khổ não, luyến tiếc. 

Friday, December 10, 2021

Cự Hỏa Kình Dương, chung thân ải tử

 Vạn vật đều có tính chiêu cảm, có thể luận như lực hấp dẫn tác động qua lại. Suy cho cùng, tâm tướng cũng vậy. Hạn hành chẳng qua là nơi lưu mệnh trong thời gian ngắn Nhật hạn, Nguyệt hạn, Tiểu hạn, hoặc lưu mệnh trong thời gian dài Đại hạn. Cự Hỏa Kình Dương chung thân ải tử, tuy nhiên khi xét thực tế, rất nhiều cách cục này chủ gặp nhiều điểm tốt đẹp, phát tài quan song mỹ rất hay. Điểm khi xét đến tại phú luận tại một tính chất nguyên thủy của cách cục. Có thể hiểu trường hợp xảy ra như việc tất cả Mệnh, Thân, Đại Hạn, Tiểu Hạn đều gặp cách cục Cự Hỏa Kình Dương, bất hội trợ cách như Hóa Quyền, Thai Tọa, Hóa Lộc, Hóa Khoa, Xương Khúc, Tả Hữu, Thiên Khôi, Phượng Các, Đào Hoa,... cách cục trên sẽ thành cách chung thân ải tử. Hoặc kể như hội trợ tinh, thêm Sát Kỵ tinh cũng là mang ý nghĩa hung họa. Tính chất chính của cách Cự Hỏa Kình mang ý nghĩa không thể đương cự, không thể chống đỡ dẫn tới trầm uất trước biến cố nặng nề, mạng vong. Cũng vậy, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Kỵ biến hóa thành nhiều ý nghĩa theo dòng cách cục, tuy nhiên vẫn mang ý nghĩa chính là hóa khí ra tính chất riêng biệt. Có sách luận, Hóa Lộc gặp Không Kiếp thành cách nghèo hèn. Hay Hóa Khoa gặp Không Kiếp thành khoa nạn. Hóa Kỵ gặp Thanh Long trở thành rất tốt đẹp, rồng ẩn trong mây. Cần rất cẩn trọng khi suy xét định cách của hóa khí. 




Có một điểm cách hay khi xét định khí hóa của vận. Ở mức độ cơ bản tuy nhiên khi nghiên cứu luận định cách cục có thể không chú ý tới là điểm vận của Sát cách. Tại điểm vận Sát cách khí hóa dồn ép bởi cách cục Kiếp Kỵ, Kỵ Hỏa, Hỏa Kình, Kình Kỵ Khốc, Tức Sát cách tính dương, đương vượng bộc phát. Hành vận trải qua áp lực khủng kiến, tuy nhiên nếu đại vận kế tiếp, cách cục thời cơ phát khởi, hoặc duy như các cách cục cát, hoặc đắc cách, khí số đại vận này sức thành tựu không thể xem thường. Thăng phát rất mạnh. Hai hành vận tiếp chuyển, ắt nếu một hành vận trải qua cách cục Không Kiếp, hành vận tiếp theo sẽ tránh được bố cục này, nếu hội họp Xương Khúc thành cách được đánh giá hay. Sát cách đắc chế hóa, điểm vận khí vượng, lưu tới hành vận quyền cách, như Binh Hình Tướng Ấn, Quyền Khốc, Quyền Tuế, luận tương thông Quyền Sát. Thực tế điểm hóa khí vận của Sát cục là nguyên tắc cơ bản. Thí như việc khi đặt nhân mệnh thực hiện nhiệm vụ công tác ngoài đảo xa hoặc biên giới, sẽ hình thành tư tưởng quý trọng ở vị trí giao thông thuận tiện, đô thị tấp nập nhiều người đông vui. Cũng vậy, nếu nhân mệnh trải qua được giai đoạn nợ số tiền rất lớn, sẽ cảm thấy việc không có khoản nợ là điều rất quý. Phàm ở trong lao tù mới thấy thời gian tự do quý giá. Người bị bệnh nan y như ung thư, tiểu đường, phổi tắc nghẽn thấy giá trị của sức khỏe. Sự kích phát điểm vận sau khi qua giai đoạn Sát Kỵ trùng phùng có tính chất phát triển đột biến nếu thành cách. Trong các Sát tinh, dễ thành cách nhất khi hợp hóa là Kình Dương, Hỏa Tinh. Cũng là Sát tinh dễ mang lại thất bại, nguy hiểm, thương tật. Kình Dương là ngôi sao cần có nếu nhân mệnh khởi phát điểm thấp, thường diện tướng luận định cách Kình ngộ Long Trì được đánh giá là hay về tướng mũi. Xét cách cục thực tế, vị trí của Hỏa Tinh gặp Lộc hay Quyền là cách tốt đẹp, do tính chất bạo phát nhanh chóng đặc biệt khi đắc địa. Một lá số nhân mệnh Thiên Tướng người viết có luận gần đây cuộc đời nghèo khổ, tới hạn hành Hỏa Khốc Kình Lộc, giao hội Tuế Phượng cách trong thế Sát Phá Tham, mười năm làm nên tài sản rất lớn, đất đai rất nhiều. Khi xét định cách cục, rất cần lưu ý tới các trường hợp đặc biệt, do bản chất thực tế ngoài xã hội người thành tựu lớn không nhiều, việc chiếm đa số là người bình thường, hoặc làm công ăn lương, hoặc buôn bán nhỏ. 




Để xét định nhân mệnh quý hiển, điểm thứ nhất cách cục hoặc đắc cách hợp hóa, hoặc phản cách thành quý, thứ tới khả năng điểm hóa Sát rất mạnh. Một số kinh sách luận về định cách của Kình Dương và Hỏa Tinh có điểm cần tránh hiểu theo nghĩa của từ ngữ. Do có phần ý nghĩa phú luận bởi biệt cách tức cách cục thể hiện rõ tính chất theo hung tính của tinh đẩu. Thực tế nhiều câu phú khiến người nghiên cứu tử vi rất khó khăn trong việc định hình tính chất, ý nghĩa của cách cục. Một lá số đắc cách tức đảm bảo yếu tố Sát vượng không hóa thành sự nguy hiểm với chính bản thân nhân mệnh. Sức phản kháng của nhân mệnh tương ứng với những lựa chọn mang tính bước ngoặt cuộc đời. Thường nghe thấy tính chất nhận định về con đường sự nghiệp là tươi sáng hoặc trắc trở. Trong bản chất của biến động này là sự thăng tiến liên tục, hoặc sự thăng giáng tuần hoàn. Một số nhân mệnh đường sự nghiệp nằm ngang, bình ổn không có tiến triển nhiều trong các hạn hành. Lá số ổn định trong thời điểm thế giới hiện tại thực tế không còn ứng hợp như trong thời kỳ lịch sử. Các truyền thống văn hóa và định hướng phát triển xã hội, ngành nghề, quan tước, phú cách về ý nghĩa và quyền lệnh đã phát sinh biến hóa thay đổi nhiều. Điểm quan trọng khi xét định các lá số gặp cách cục ổn định, tránh Sát Kỵ hội mệnh về vận trình phát triển rất khó khăn, thường chấp nhận với thực tại. Có lá số nhân mệnh làm công ăn lương trong nhà nước có bất mãn do cảm thấy không phù hợp với Tài Bạch tức về lương tiền. Thực tế vấn đề thời thế xã hội mỗi thời điểm nhân mệnh sinh sống, tồn tại tại lịch sử phân hóa những ngành nghề với cuộc đời bó buộc rất khác nhau. Đây là điểm rất quan trọng để xét định cách cục, do nghề nghiệp là đặc trưng không thường thay đổi nhiều của các cách cục ổn định hoặc ngay bố cục Sát cách. Trong thực tế, nếu lựa chọn một khuynh hướng làm việc công, viên chức trong nhà nước, hoặc ngành nghề nhà giáo, bác sĩ, y tá, đầu bếp,... là sự ứng hợp của cách cục hội cách của nhân mệnh hướng tới ngành nghề này. Ở quốc gia Mexico, xuất hiện chiến tranh ma túy là thế lực ngầm rất lớn và hàng trăm nghìn người mất tích tại đây. Thực tế đã xuất hiện thêm rất nhiều nghề nghiệp khi lợi nhuận, hay lộc được phát sinh. Từ thể chế lịch sử mở rộng lãnh thổ, tới giai đoạn hiện nay. Lộc là hóa khí đứng đầu, phát khởi tới Quyền và Khoa. Nơi có Lộc sẽ sinh khởi nghề nghiệp mới, sinh khởi uy tín, hay quyền và nghiên cứu Khoa về vấn đề phát sinh. 




Thí như Cơ Lương Diêu Y Tướng Ân Quý thường hành nghề y đạo, hoặc liên quan tới y học. Hoặc cách Phá Quân hội Binh Tướng Quyền Khốc thường theo khuynh hướng binh nghiệp, võ cách. Ngành nghề gắn liền với rất nhiều về thông tin một nhân mệnh, thường khi ghi chép thông tin cơ bản một người, phân định tới nghề nghiệp, công việc đảm nhiệm. Có người theo đường quan chức, có nhân mệnh theo đường kinh thương, hai phân định chính này là Tài Bạch, Quan Lộc mối quan tâm thường trực của đời người. Do vậy, Tài Bạch và Quan Lộc tam hợp chiếu với Mệnh cung. Mệnh là tổng thể một nhân mệnh, Tài Quan là thứ bên ngoài tuy nhiên là thiết yếu của nhân mệnh. Như một đặc điểm để nhận định một người, áo khoác Tài Bạch tức tiền bạc, và Quan Lộc là vị trí công việc, địa vị trong hệ thống xã hội là gốc rễ xét các đối đãi với một nhân mệnh, chi phối các yếu tố khác của nhân mệnh. Sự tác động này nhìn ở vấn đề thực tế tác động qua lại lẫn nhau, thí như tài sản lớn sẽ dẫn tới địa vị xã hội cao, cũng đánh giá về thân phận. Hoặc về chức vụ, quyền lực lớn sẽ có những chế độ về vật chất tốt hơn. Hoặc như năng lực, bản tính của nhân mệnh tác động mạnh tới tài sản, địa vị của nhân mệnh. Sự tác động liên hệ này là tam giác Mệnh, Tài, Quan. Luận về Sát tinh, biến hóa phức tạp. Phú luận "Dương cung gặp cách Hỏa Kình, một là phát lớn hai là hình thương". Với bố cục Hỏa Kình hội cách, đặc biệt Hình Kỵ lai xâm nơi hạn hành, rất nhiều nhân mệnh gặp tai nạn hoặc nguyên cục tại Mệnh cách có thường tật yểm li với xã hội. Ngược lại, có một số nhân mệnh kích phát thành cách cục mang tính hoạch phát. Sự biến hóa của cách cục này mang tính hai cực, có thể hóa cực đoan hoặc may mắn kích phát. Xét về cách cục Hỏa Kình kích phát cách ứng câu "Hung tinh đắc địa phát dã như lôi", bất kỳ nghề nghiệp đều ứng hợp thăng phát mạnh do nhiệt hỏa nhiệt huyết của Hỏa Tinh dẫn động Kình Dương táo bạo. Tuy nhiên với những môi trường công việc có tính đặt bẫy, cạnh tranh âm ám, bố cục này rất dễ ứng cách bị loại trừ. 




Để thành kẻ có quyền cần thêm Quyền tinh do không thể gặp Ấn tinh trong bộ Tồn Tướng Ấn tại đây. Thiên Không Địa Kiếp là thiên tai họa nạn, như động đất, sóng thần, lũ lụt, hỏa hoạn,.. những thiên tai ứng bất ngờ, khó có thể trở tay kịp là tính chất cơ bản của Không Kiếp. Tuy nhiên khi gặp thiên tai họa nạn, một số kẻ lại là thời điểm đắc lợi, được vận hội tới kiếm ra tiền bạc. Điểm chung có sự sắt đá trong nội tâm, tức thuộc cách ác bởi lợi dụng sự khó khăn, nguy cấp để đạt được lợi ích. Do vậy thực tế để dụng cách Không Kiếp cần bố cục có tính táo bạo, có thể hư giả như Thiên Hư, hoặc cách ác để thành tựu. Thời kỳ lịch sử, trước luận thổ phỉ có sơn, hải, thảo, mã tặc khởi nguồn trên tất cả quốc gia trong lịch sử, mọi nơi sinh chiếm đoạt. Tức gắn với bản tính của người. Tinh đẩu cũng mang ý nghĩa vậy, là nguyên thủy về bản tính diệu dụng của con người và sự hội họp mô tả tác hóa cát hung là sự biến định của tư tưởng, hành động của chư tinh diệu. Thổ phỉ, buôn lậu là nghề trái pháp luật, do vậy gặp Kỵ Hình trong nội cách. Hoặc bố cục Kỵ Kiếp, Tang Kỵ, Hỏa Kỵ,... sẽ có khuynh hướng biết hành động sai trái vẫn vi phạm. Nếu Kỵ Hình có Xương Khúc phát triển mạnh hơn, do Xương Khúc chủ sự hiểu biết, cũng là văn tinh chủ nho nhã, học vấn cách. Kẻ làm thổ phỉ có lý riêng để hành động, có toán cướp người giàu chia người nghèo, có toán thấy sự bất công của xã hội phong kiến, cũng như người đứng đầu cuộc khởi nghĩa, đắc thời có quần chúng ủng hộ là chính nghĩa, gặp thất bại là phản loạn tùy vào người thắng lợi sẽ viết lại lịch sử. Tượng ứng của Lộc Tồn là sự gìn giữ, tích trữ. Lộc Tồn mạnh do sự giúp sức của Tướng Quân, Quốc Ấn. Xét về Hóa Lộc là khí từ tổ hợp Chính Tinh mang ý nghĩa của tinh đẩu hóa khí. Lộc Tồn có tác động mang ý nghĩa riêng rẽ. Tổ hợp Lộc Tướng Ấn thành cách là sự tiết kiệm của Lộc Tồn, gìn giữ từ thế hệ trước Tồn Ấn với Tướng Quân là sao tình cảm, tình thương gia đình. Quốc Ấn còn là con dấu, sắc lệnh, với Tồn Ấn di sản thừa kế. Cách Tồn Ấn Tướng hay là có thêm Đào Hoa đồng cung với Lộc Tồn. Thể hiện ý nghĩa niềm vui với tài lộc, tức là cách phát tài. Khi mất mát tài sản khó có thể vui mừng, do vậy Đào Tồn cư Ngọ can Đinh được đánh giá rất hay. Ngay việc mệnh tại đối cung với cách Thái Dương tại Tí nhật trầm thủy bể, phản cách thành bố cục hay với can Đinh. "Thái Dương cư Tí, Bính Đinh phú quý trung lương". Can Đinh gặp 6 địa chi, Hợi Mão Mùi và Tị Dậu Sửu. Đào Hoa tại Tí và Ngọ. Cách cục Lộc Tồn xung chiếu Đào Hoa hoặc đồng cung Đào Hoa. Hai cách này phối hợp Mệnh cách có Hóa Kỵ hội về từ Cự Môn thành cách cơ hội, niềm vui tới từ bên ngoài. Trục Đào Phi có tính chất đặc biệt, mang tính bộc phát lớn. Thực tế cách cục Kình Hổ Khốc hay Đà Phượng được đánh giá hay khi hội nhóm Phượng Khốc an theo Địa Chi. Với cách cục Lộc Tướng Ấn và Phi Phục Thanh hội Đào Hồng Hỉ an theo Địa Chi cũng mang ý nghĩa hay. Nếu ưa tranh cướp gặp cách Kình Đào Hà, cạnh tranh là Kình Phượng. Thực tế Đào Kiếp có tính nhanh chóng. 


Thursday, November 25, 2021

Quy luật sinh tồn cuộc đời

 Trong thời kỳ lịch sử, kinh thuyết giải và nhận định của đa số tiền nhân thời kỳ luận thuyết vạn vật, cho rằng trái đất là trung tâm vạn vật, đứng yên để vạn vật xung quanh sao, tinh tú chuyển động theo. Cũng có thuyết luận mặt trời đứng yên, trái đất quay xung quanh. Sau này khoa học phát triển, chiêm nghiệm thấy trái đất tự chuyển động quanh trục và chuyển động theo quỹ đạo của thái dương hệ. Thực tế tinh hệ này di chuyển với tốc độ hơn 200km/ giây. Về sau, xuất hiện internet phổ biến dần, tra cứu nhiều điều mới về tri kiến trên mạng mới được rõ hơn vậy. Vật lớn như hành tinh tự quay quanh trục. Tới vật nhỏ, quả bóng đứng yên cũng cấu tạo từ rất nhiều hạt nhỏ chuyển động rất nhanh xung quanh nguyên tử. Điều muốn nói lên việc tự vận động, và chịu tác động xung quanh là bản chất của vạn vật. Tất cả đều có sự vận động trong nội tại và cân bằng tạm thời. Cũng như vậy, ngũ hành xung khắc chế hóa lẫn nhau, đạt được cân bằng tạm thời. Âm Dương đối nghịch, trong dương có âm, trong âm có dương đạt sự cân bằng tạm thời. Điều khoa học nghiên cứu thực tế xảy ra xung quanh tự nhiên là điểm quan trọng để nghiệm lý những tri kiến của sở học của học thuyết Phương Đông. Điều này xác định sự thay đổi liên tục của vạn vật ngay mỗi sát na, không tồn tại sự tĩnh lặng, đứng yên. Sự chuyển động này tới từ vạn vật trong chính nội tại. Điều này là lẽ hiển nhiên, khi nhân mệnh cảm thấy bế tắc của cuộc đời, giai đoạn bế tắc cũng mang tính chất tạm thời. Kế tiếp là hướng đi của bản thân dẫn tư tưởng để thay đổi. Sự thay đổi của nhân mệnh trong giai đoạn bế tắc cùng cực, hoặc khi tuyệt mệnh, miễn là bước đi, sẽ có sự thay đổi lớn. Tuy nhiên một số nhân mệnh lựa chọn việc chấm dứt, dừng lại, bằng cách đâm đầu xuống sông tự tử, hạn chí đầu hà. Đặc tính của Sát tinh tại tính chất biến động lớn. Điều quan trọng khi Sát tinh hội cách là lực ép rất lớn tới nội tâm. Một trong các pháp khán hạn sinh tử, là xét thể khí hóa động hay tĩnh, nhận hay thông, khí áp khinh trọng. Thế tĩnh ứng hiềm tuyệt khí, hoặc khí chặn bởi Lưu Kỵ là giai đoạn nguy khốn. Hóa Kỵ, Đà La, Hình Diêu, Tồn Bệnh, Tang Môn, Địa Kiếp, là các tinh đẩu chủ thế tĩnh. Người ngưng hô hấp là tuyệt mệnh. Ngưng trao đổi chất với bên ngoài là tuyệt mệnh. Nhìn nhân tướng một người có thể đưa ra một số dự đoán về nhân tâm tính cách kể cà khi bản thân không hiểu về mệnh lý. Việc nhân tướng và mệnh lý thuận hợp không gặp mâu thuẫn khi dự đoán từ cổ chí kim. Mệnh hành bạc nhược, loay hoay với cuộc sống. Thứ nhất đứng đầu là Sát cục đắc lệnh, là mệnh đại quý. Thứ nhì thành cách, trợ lực không gặp phá, hành vận Sát vận tuy thăng trầm vẫn đạt thành tựu lớn. Thứ ba định cách quý cục, hội cát trợ tinh bất kiến Sát, các cung độ trở nên thiên khô trên tinh bàn, thực tế tại đây còn hàm chứa cách hung họa. Nhìn bên ngoài, loài săn mồi và loài thành thức ăn cho kẻ khác. Tại xã hội cũng có những tranh đoạt quốc gia chỉ cách đây khoảng trăm năm, dẫn tới loạn lạc, giết trẻ em, cưỡng đoạt phụ nữ là điều thực tế diễn ra. Nơi của kẻ yếu, trong loạn lạc là sợ hãi, khốn cùng, và chịu mất đi sinh mạng. Cũng vậy, khi xét về các bố cục trong tử vi, người tinh anh là mệnh quý, để bảo vệ bản thân, và suy tính mưu lược. Nhật Bản với chế độ phát xít, chủ nghĩa quân phiệt cũng như loài săn mồi, tội ác là sự thực, còn hiển hiện thảm sát nam kinh. Nếu xét cát tinh dùng bởi chữ cát tác động mang ý nghĩa phù trợ tốt đẹp, sát tinh mang ý nghĩa nguy khốn là khuyết thiếu khi luận định cách cục. Kỵ Kiếp Hỏa Diêu thành cách hợp hóa khí hình gốc, kẻ đắc lệnh mệnh ác, tuy nhiên quý hiển. Người lành tinh thần hôn ám, Sát tinh vượng địa hóa thành bệnh u uất, mệnh yểu tử. 




Trong một thời khắc ngắn việc thay đổi của nội thân thông qua việc hô hấp. Vạn vật nhờ hô hấp, khí thở ra vào trong từng thời khắc để duy trì sinh mệnh. Nếu việc thở không diễn ra trong vô thức việc chú tâm tới sẽ gây ra khủng kiến nặng nề. Thói quen cũng vậy, bản tính có nhân mệnh ưa đọc kinh sách thánh hiền, nghiên cứu sâu sắc về tri kiến. Có nhân mệnh thấy được lợi ích của kinh sách nên thường thói quen đọc sách. Có nhân mệnh làm việc tại thư viện tuy nhiên không đọc dù một cuốn sách. Bộ Xương Khúc rất giá trị, đặc biệt tại vị trí thủ mệnh cung, đủ cặp tại Tị Dậu Sửu và Hợi Mão Mùi được đánh giá rất hay. Gặp Xương Khúc tránh được Không Kiếp, tức thế nhu nhuận, hiểu biết của Xương Khúc tại tri kiến tác động mạnh tới hành khí của bản mệnh. Giáo dục là nguyên căn để phát triển nhân mệnh. Xương Khúc mang ý nghĩa này. Do vậy, nếu nhân mệnh hội cách Xương Khúc định hướng để thành cách khác biệt với trường hợp hội cách Không Kiếp. Xương Khúc Khoa Khôi được đánh giá hay. Tuy nhiên Không Kiếp Khoa Khôi là cách cát hung tương bán. Trên mạng hiện nay có thể thực hiện mua bán, trao đổi tài sản với số khoản tiền rất lớn, không cần có mặt và trong một số trường hợp, không biết rõ có thực là đích danh. Điều này cũng dẫn tới việc đa cấp, tệ nạn phát triển trên không gian này. Internet kết nối vạn vật khiến tri kiến phát triển rất lớn, từ tham quan các quốc gia qua màn hình tới việc nghiên cứu ngôn ngữ, hay giao thương. Trong môi trường rất lớn đa quốc gia này, việc kết nối con người trở nên gần hơn bằng việc khi truyền tin tới vài nghìn km nhanh chóng, kể cả hiển thị hình ảnh, hoạt động hiện tại. Phát triển vượt bậc này phục vụ tới con người tuy nhiên khi xét vận thiên hạ, còn nhiều nơi nghèo khổ cùng cực, thống kê tới hơn 20 quốc gia, hoặc nơi chiến tranh binh biến, không được tiếp cận với internet, điện, điều kiện sinh tồn liên quan tới tính mạng, khắc nghiệt do dịch bệnh, nạn đói, chiến tranh. Cũng là con người, nhân mệnh hoàn chỉnh, rất nhiều nhân mệnh khi khởi sinh đã gặp khó khăn trắc trở . Môi trường khiến sức chịu đựng của con người trở nên mãnh liệt, cũng có cuộc sống đầy đủ vật chất, hòa bình tuy nhiên nhân mệnh trầm cảm, sa vào tệ nạn, nội tâm suy xét sự việc là điểm quan trọng, cũng là điểm xét nhân mệnh có thể xoay chuyển tình huống trong nguy khốn hay không. "Đất nghèo nuôi những anh hùng. Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên. Đạp quân thù xuống đất đen, súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa". Khi xét tính chất này, thích ứng với thời vận là điểm quan trọng, như sự tự quay, tự vận động của nguyên tử rất nhỏ cho tới hành tinh lớn. 






Phát triển cơ bắp và sức mạnh trong tự nhiên là khuynh hướng của Kình Dương. Phát triển khả năng phòng thủ, đưa mồi vào bẫy là Đà La. Tuy nhiên xét tới một sự phát triển thích ứng tạo bởi Kình Kỵ Kiếp. Kình Dương chủ tấn công, tuy nhiên không chỉ vì sức mạnh, cách Kình Kỵ Kiếp tượng cách như loài mang độc dược. Không to lớn và mạnh khỏe như Kình Lực Đại, tuy nhiên có thể sát thương rất mạnh. Bốn đối tượng nhỏ không nên xem thường. Hoàng tử nhỏ, rắn nhỏ, đốm lửa nhỏ và vị tu sĩ còn nhỏ. Với những cách tượng trưng khác nhau. Vạn vật dời đổi, thích nghi biến đổi phức tạp. Không nhiều người có thể nhận định rằng những bệnh dịch do covid mang lại có sức lây lan qua tiếp xúc lớn như vậy. Khoảng 250 triệu người bị dịch nạn này trên thống kê, có thể vẫn còn số lượng người chưa thể kiểm đếm toàn diện, cũng hơn 5 triệu người tuyệt mạng, số người chịu ảnh hưởng tới trong cơ thể lâu dài. Tai kiếp này phát khởi có tính địa phương, có những nơi không gặp tai họa về dịch nạn này. Việc chuyển dịch liên tục của thời vận, tại các vận khí lớn hơn như vận thiên hạ xuất khởi những điểm dị nguyên trong toán mệnh. Hiện nay, là thời đại của những điều đáng bất ngờ tức Không Kiếp, tưởng chừng những thứ không thể mới cách đây nửa đời người không thể nghĩ bàn, tới nay đã thành hiện thực. Không Kiếp hoạt động rất mạnh, tượng cách bởi những đột phá không ngờ gây thay đổi toàn bộ nhân loại, tức vận thiên hạ. Khi tài sản không cần cất giữ trong kho tàng bí mật, mà hiển hiện chuyển đổi trong chính thiết bị liên kết mạng thông tin. Nơi thậm chí quy đổi vài cân vàng bạc chuyển mua bán rất chóng vánh. Với một số người tư tưởng có phần cổ hủ khi nhìn nhận sự thay đổi lớn trong thời gian ngắn có thể phát kiến bằng hàng nghìn năm lịch sử trước đây. Thời đại hiện nay với sự công bằng chung được cải thiện một phần lớn khi thông tin được chuyển dịch nhanh chóng, các thiết bị, mạng xã hội nơi cá nhân bày tỏ quan điểm và có nhiều người từ xa tới gần có thể đọc với những minh họa, bằng chứng bằng đoạn phim hay hình ảnh lưu lại. Một giai đoạn cuộc đời cũng có thể lưu tại mạng cá nhân. Cũng trong sự thay đổi, chuyển động tự nhiên theo quy luật này. Nhân mệnh ở thế bĩ cực có thể vượt qua những khó khăn trong thời gian ngắn hơn. Nhịp chuyển động của xã hội rất mạnh, thay đổi nhanh chóng theo từng thời gian ngắn. Bản thân một số nhân mệnh có cách cục quý cách người viết thường nhìn thấy sự vui tươi trong giai đoạn khó khăn bế tắc lớn của nhân mệnh. Nhắc tới có nhớ một nhân mệnh thời gian cũng hơn 10 năm, khi đó trung vận phá tán nặng nề, mắc khoản nợ rất lớn. Vẫn thấy trong Sát vận hiện hành vui vẻ kể về việc may mắn ở thời kỳ này không phải đặt tính mạng như thời chiến trận ác liệt. 




Tham vọng phát tài bằng cờ bạc, dù thua hoặc thắng đều rất có động lực để chú tâm vào canh bạc tiếp theo, kể tới khi lâm vào cảnh nợ nần mất mát lớn. Với việc phát triển mạng thông tin, trên báo tin tức cũng thông báo một số vấn nạn này với số lượng tiền rất lớn. Rất nhiều những tri kiến tốt trên mạng kết nối, cũng rất nhiều nguy hiểm lớn như có thể chỉ một vài thao tác có thể chuyển dịch vài trăm triệu để lao vào đỏ đen hoặc đầu tư, mua bán sinh lời cao như một chiếc bẫy Đà La giăng bởi lợi nhuận, lời lãi cao Lộc Mã. Cách Mã Kiếp Tồn là cách cục nguy hiểm nếu mệnh cách không chế áp được định cách này. Tính hai mặt của Sát tinh tác động rất mạnh bởi các bố cục then chốt hình thành. Rất nhiều ngưởi nghiên cứu tử vi phân định giữa Mệnh và Thân sai khác khi cung an Thân hoạt động từ khoảng tuổi tam thập. Trên mạng tìm kiếm có một bài viết về việc tâm linh hay duy vật phát triển, hai ngưỡng đã định hình hai chủ nghĩa duy vật và duy tâm và rất nhiều nhà khoa học, triết học xét khởi về vấn đề này. Thiền sư Thích Nhất Hạnh có đưa ra thí dụ về vật lý nguyên tử, xuất hiện cùng dạng hạt và sóng tại cùng một thực tại. Bỏ đi tính nhị nguyên, xét tới tính đồng nhất của duy vật và duy tâm có thể cùng chung gốc. Tâm là Mệnh, vật là Thân, xuất phát từ một thể, tác động ngay từ khi thai sinh. 

Tuesday, October 12, 2021

Chọn lựa và các kết quả

 Mỗi một lựa chọn, đưa ra quyết định trước một vấn để có thể khiến nhân mệnh thành tựu lớn hoặc đưa đến những bế tắc xuất hiện. Có những lựa chọn được khởi phát bởi bản tính và một số do sự huân đúc những tri kiến, tích lũy những thất bại. Trên tử vi xuất hiện các tổ hợp xuất phát từ bản tính. Người ưa việc mạo hiểm, kẻ muốn sự an toàn. Điểm quan trọng là nhận định của nhân mệnh về bản chất của sự việc có thấu. Có một số nhân mệnh có chia sẻ với người viết về tiền của tích lũy mua nhà đất tuy nhiên không cẩn trọng dẫn tới bất cẩn khi lựa chọn một mảnh đất như một đương số vướng mắc khi mua đất tại Alibaba. Một số nhân mệnh khi đưa tài sản tích góp và có thể vay nợ thêm để cho vay với lãi suất cao và không thể thu lại nguồn vốn là tài sản tích lũy trong thời gian rất dài. Có những lựa chọn có thể khiến nhân mệnh trở nên giàu có, những lựa chọn dẫn tới suy tán. Một số đầu tư theo việc cầu may tới cờ bạc. Trên tử vi, có một số cách cục chủ tham muốn phấn phát là Tham Hỏa và Đào Hoa Kiếp Sát. Điểm quan trọng là các cách cục này khi thành cách có thể khiến nhân mệnh thăng phát rất lớn. Tượng cách của Đào Sát là tham muốn từ Đào Hoa, chủ động nắm lấy và thực hiện hành động Kiếp Sát. Sao Kiếp Sát thường ít luận định trong tử vi. Kiếp Sát có đặc tính chủ tranh đoạt, khởi từ niềm tin của Đào Hoa tới những điều tươi sáng kế tiếp. Đào Sát là một trong các cách cục cơ bản khi xét nhóm sao an theo Địa Chi. Khi xét bốn cách cục cơ bản Tuế Hổ Phù, Tang Hư Mã Khách, Đào Kiếp Sát và Hồng Hỉ. Thường phú luận "Mệnh trung Hồng ngộ Kiếp Không mạc đàm phú quý". Với cách Hồng Kiếp có giá trị tác họa lớn hơn bố cục Đào Sát. Do thực tế Hồng Loan thường tại vị thế bị động khi hội Kiếp Không. Do Thiên Hỉ luôn bên ngoài kích phát khiến Hồng Loan ở thế bị động trước niềm vui Thiên Hỉ tại đối cung. Niềm vui đắc tài lộc, tình duyên, do vậy thường luận "Niềm vui ngắn chẳng tày gang". Bên trong còn mối họa Không Kiếp thường trực không được chế hóa. Cách cục Đào Sát chứa Sát tính, trong trường hợp đơn thủ không hội Hồng Loan, khi hội cách Đào Sát Kiếp Không, tính hung có thể bị Kiếp Sát hóa. Phát ngoài thực tế là những kẻ chiếm đoạt, như việc lừa đảo về đất đai thu lợi cho người bất chính. Nhóm sao Đào Hồng Hỉ được gọi là Tam Minh, do những niềm tin về điều tốt đẹp tới mệnh cách. 



Trong thời điểm khó khăn, bế tắc lớn, nhân mệnh xuất hiện niềm tin là động lực để có thể vượt qua. Chờ đợi thời cơ khác tính chất của trễ nải. Quan trọng là trong nội tâm phân biệt hai tính chất này rất khó khăn. Dẫn tới việc có người chờ thời vận tới tuy nhiên thời gian luôn dịch chuyển theo chiều hướng tới, không xuất hiện quyết định trong thời gian dài, lưỡng lự trong những lựa chọn được gọi là do dự. Thời cơ tức Thiên Cơ có thể tới do sự khai phá triệt để của Phá Quân, phá cũ làm mới, đôi khi việc cũ tốt đẹp, Phá Quân vẫn phá bỏ để tiến lên. 




Thiên địa tuần hoàn, vận bĩ tới thái, nhật nguyệt hối lại minh trong các thời kỳ là thuận lý tự nhiên. Đời người cũng vậy, khi thuận nước xuôi dòng, nghịch nước gặp cản cần quyết tâm vượt qua. Ý nghĩa của cách Đào Hồng Hỉ mang lại sự lạc quan tới nhân mệnh. Điểm cách của Đào Hồng Hỉ đắc cách thường được luận tối hỉ với Thái Dương, do Thái Dương là ngày mới, gặp Tam Minh là cách cục hay, nếu đủ cách Âm Dương không gặp Sát Kỵ là ngày tháng hưởng thụ vui vẻ. Việc niềm vui có thể xuất phát từ nhiều nguyên do, tai hại là niềm vui giải trí do những thứ gây nghiện, niềm vui sắc dục quá đà. Xét về tham muốn, cách cục mang lại vui vẻ của đời người khi đạt được danh vọng, tiền bạc, hoặc lý tưởng được thực hiện. Có những niềm vui do giúp đỡ người yếu thế, có niềm vui do tự chủ chính cuộc đời bản thân, niềm vui được tự do. Cũng vậy, Đào Sát và Hồng Hỉ phát triển tham muốn. Hồng Hỉ còn tượng là sắc diện, người có ngoại hình tốt cũng là niềm vui, cũng như gặp người bần cùng sa lỡ, hay hình thương bệnh tật phát sinh tâm thương xót. Trong cuộc chiến trường kỳ, nếu có niềm tin thắng lợi sẽ tạo động lực mạnh để hành động, như năng lượng để khởi phát những ý tưởng, giải pháp vượt qua tình thế. Thực tế bốn nhóm sao Tuế Hổ Phù, Tang Hư Mã Khách, Đào Sát và Hồng Hỉ là bốn nhóm sao đại diện đặc trưng về tính cách của nhân mệnh. Trên tử vi cũng gặp cách Tam Ám, tức Diêu Đà Kỵ. Hội vận Âm Dương gặp Diêu Đà Kỵ, hay cách Cự Môn hội Tam Ám hành vận trải qua ắt như mây dông kéo đến, mệnh cách vững có thể hóa làm trợ dụng với khả năng cơ biến. Cũng do Tam Ám hay Diêu Đà Kỵ thực tế còn tồn tại cách Kỵ Hình chủ dễ sai phạm, vượt quá những quy định. Trong các nhóm sao chính an theo Địa Chi, bố cục Tang Hư Mã Khách thường gặp đánh giá khó khăn hơn. Tang Môn, Thiên Hư là sự hư hao, còn chủ tang tóc, biến đoạn. Lý âm có dương, dương chứa âm, trong thế bĩ là nơi rèn dũi khả năng cơ biến tại Thiên Mã nghị lực. Tuế Hổ Phù là lý tưởng, quan điểm của bản thân, được đắc chữ chính khi có chữ Thái tại Tuế, có Bạch Hổ ứng chữ liêm chính, gặp Long Trì, gặp Hoa Cái, một số địa chi năm gặp thêm Phượng Các là bộ tứ linh Cái Hổ Phượng Long. Thiên Địa tuần hoàn bất phân chính, bất chính. Cũng vậy không phân xét người tụ tài, tán tài, do sở tác của lòng nhân phân định. Cũng vậy, sinh thời người thể trạng tốt, kẻ sức yếu, người bệnh tật nan y, kẻ vô lo vô bệnh. 




Người tư chất thông minh, người trí kém. Lá số tử vi phân định vậy, chỉ xét nguyên cục gặp cách Tang Hư Mã là khởi phát khó khăn so với cách Tuế Hổ Phù. Địa lý cũng vậy, nơi gặp hiểm nguy cận kề, nơi có những cơ hội phát triển tốt hơn tới nhân mệnh. Sự lựa chọn trong cuộc đời mỗi nhân mệnh có tính cá nhân, kết quả trực tiếp tới cuộc đời của nhân mệnh. Việc từ bỏ những hướng đi sai lầm là khó khăn, cần tới quyết chí đoạn tuyệt, phân định sai lầm và tri kiến của nhân mệnh. Chỉ yếu tố lựa chọn, cơ bản, là quá trình tư duy, tri kiến của mệnh số. Phàm như vật được thuần hóa như giống chó mèo nuôi nhốt, khó có thể có sự nhạy bén như loài hoang dã, nơi tồn tại giữa các nguy hiểm, sinh mạng. Tuy nhiên, nếu được huấn luyện có thể trở nên sắc bén, khả năng kích phát năng lực lớn, như huấn luyện nghiệp vụ. Cũng vậy, mỗi thế mạnh không hẳn đặt ở vị trí nguy khốn có thể tạo thành tựu đột biến, có những sự tích lũy an toàn nhờ vào năng lực nội tại. Điều quan trọng như nội tại được phát triển theo đúng khuynh hướng. Nhân mệnh khi khởi phát tính cách, có người tính cách ưa cương trấn, có người nhu nhược, có người gan góc. Có cách cục gặp nguy khốn rèn luyện được bản lĩnh, năng lực phát sinh mạnh. Có cách cục cần sự khích lệ, hướng dẫn đúng phương hướng nếu không sẽ dẫn tới suy bại, thất bại cuộc đời. Như một nữ mệnh có người con sa vào nghiện chất ma túy, muốn thoát ra tuy nhiên rất khó khăn. Nếu sa vào tham cầu về tài danh, theo con đường kinh thương nhân mệnh có thể đã được sự ngưỡng mộ. Điều quan trọng đặt sự tham muốn ở vị trí nào. Vấn đề nghiện về chất kích thích, hay ma túy ắt liên quan tới điều cấm, vượt quá hành vi cho phép, là trái pháp luật. Trên tử vi hình thành các nhóm sao mô tả bố cục này. Thế Ám hình thành, cũng là chất kích thích tuy nhiên thuốc lá được xã hội chấp thuận, bản chất của ma túy sẽ khởi phát khí Ám, tức phát sinh từ bóng tối, tượng cách âm. Cũng như bố cục Kỵ Hình, là nòng cốt của Nhị Ám. Kỵ Hình tam hợp có thêm Thiên Diêu, tức tượng cách Thiên Hình là pháp, luật, Kỵ Diêu là điều ám, chủ trong tối, việc ám muội, không công khai. Có thể Kỵ Diêu tác hóa hóa thành tính dục, tuy nhiên cũng có thể hóa thành việc mờ ám. Liên quan tới bộ Kỵ Hình là một cách cục lớn trong tử vi. Địa Kiếp khởi bởi cuồng. Kỵ Hình khởi từ phạm. 




Thiên Cơ hội Kỵ Hình tức Cơ Diêu có thể là hay, do chính yếu ý nghĩa là sự tiếp xúc âm ám với cơ thể. Cách Cơ Kỵ Hình và Đồng Kỵ Hình được đánh giá tốt hơn bố cục Sát Phá Kỵ Hình. Hoặc thí như cách Vũ Kỵ Hình là khả năng lách trước luật khi hội Song Lộc là bố cục có tính hoạch phát mạnh, Vũ Khúc là tài tinh, có năng lực linh hoạt, tuy nhiên khi hội vận Sát Kỵ cũng sẽ mang tính hình pháp dễ bị tai họa. Tính chất của Kỵ Hình trên lá số tử vi động tương ứng bên ngoài thực tế xã hội. Khi phát sinh những điều cấm mới bởi luật pháp, Kỵ Hình cũng biến dịch thay đổi tính chất. Cách cục là nguyên gốc, phản ánh ra bên ngoài và tác động nghịch lại với bố cục. Với một quốc gia được xét việc mại dâm là hợp pháp, tức bố cục Kỵ Hình biến chuyển khiến một số cách cục trở thành không vi phạm. Một số quốc gia, việc phụ nữ gặp những bất lợi trước quyền cơ bản, được coi phạm pháp luật ở một số quốc gia. Việc luật định thay đổi cũng hóa cách Kỵ Hình thay đổi. Tác động của lá số tử vi mỗi nhân mệnh là hoàn cảnh và nội tư tưởng của mệnh cách. Mối liên kết giữa lá số tử vi với vận làng, vận nước xuất phát từ hóa khí bên ngoài. Không có thế vững bền trường tồn, ngay cả sự ổn định của một quốc gia thịnh vượng, vạn vật đều tuần hoàn biến dịch, đời người cũng vậy, lấy chấp để cầu thành tựu, chấp niệm quy căn nguyên về tham muốn khởi như Tham Lang, hay sâu hơn là sao Tử Vi, khi hóa thành hành khí, ắt có biến dịch, thăng trầm, điều thay đổi là cần thiết để tiến lên phía trước.

Saturday, October 9, 2021

Phá Quân đắc lệnh uy trấn biên ải

 Khi luận định về nhân mệnh Phá Quân độc tọa hay các cách cục Thất Sát, Vũ Sát, Vũ Phá, Tử Phá, Tử Sát của mệnh nữ định cách cục thường gặp lá số của nhân mệnh có thành tựu lớn trong sự nghiệp. Khởi sinh của nữ là âm. Thế Sát Phá khi thành cách kích phát. Trong kinh thương và chính trị, nữ mệnh thành tựu lớn trong sự nghiệp thường thuộc cách nữ cường. Khởi phát tính chất chế hóa của mệnh nữ phức tạp hơn nam mệnh tương đối nhiều. Thường gặp các cách cục nghiên cứu khoa học với tổ hợp Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham đắc cách và khuynh hướng chính trị với hai tinh đẩu Phá Quân và Thất Sát đắc cách. Luận định trong bài xét về cách cục tạo bởi Sát Phá Tham cách. Tại Phần Lan xuất hiện nữ thủ tướng khi chỉ 34 tuổi. Khi xét về diện tướng, nhân mệnh nữ cường đảm nhiệm vị trí tương ứng xét tới điểm quan trọng là khí Sát đắc dụng. Giải quyết công việc cần sự quyết đoán và khởi tạo những quyết định, chính sách phù hợp. Một lá số Phá Quân từng giữ vị trí trọng yếu trong chính trường. Trong các tinh hệ trên lá số tử vi, tinh hệ Tử Tướng cư Thìn Tuất là vị trí thường đắc cách với các lá số nhân mệnh hơn các tổ hợp còn lại. Xét nghiệm lý về mệnh cách thành tựu xuất hiện tinh hệ Tử Tướng cư Thìn Tuất nhiều hơn các tổ hợp khác, khi chưa xét tới các tổ hợp bàng tinh và hóa khí giao hội. Với tinh hệ Tử Tướng, thế cân bằng tại 12 cung độ xuất hiện rất rõ. Bố cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm và Sát Phá Tham đều đắc cách. Đặc biệt 4 tổ hợp Tử Tướng cư Thìn Tuất, Vũ Phủ đồng độ, Thất Sát Tí Ngọ và Cự Cơ Mão Dậu là bốn tổ hợp định cách cho toàn bộ tinh hệ này. Với tinh hệ Tử Vi độc tọa cư Tí Ngọ, bố cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm đắc khí hóa điểm cao nhất, tức Sát Phá Tham ở vị trí lạc hãm, thế Âm Dương rất mạnh khi Tử Vi cư Ngọ. Tuy nhiên nếu trong tổ hợp Tử Phủ Vũ Tướng Liêm phá cách, ắt nhân mệnh tuy lý tưởng cao viễn vẫn có khuyết điểm. Đặc biệt khi tinh hệ Tử Vi cư Tí không mạnh như Tử Vi cư Ngọ. Điểm còn lại của tinh hệ Tử Vi cư Ngọ được đánh giá hay nhất, khi hai tổ hợp Tử Phủ Vũ Tướng Liêm và Âm Dương Lương thành cách, hoặc một trong hai tổ hợp đắc cách khi xét các cách cục Chính Tinh. Thứ tới, tinh hệ Tử Phủ cư Thân được đánh giá hay hơn tại Dần do Âm Dương nhập miếu, nhóm Sát Phá Tham đắc lệnh tuy nhiên nhóm Cự Cơ Đồng có khuyết điểm. Khi xét bố cục Chính Tinh không đóng vai trò tất yếu để định cách, xét điểm quan trọng là bàng tinh và hóa khí, trợ tinh giao hội. 





Trong các tinh hệ khi Sát Kỵ xâm phạm, bố cục Tử Tướng cư Thìn Tuất có thể thành tựu ứng hợp tốt hơn các tinh hệ khác. Tinh hệ Tử Vi cư Ngọ mệnh cách nếu đắc lệnh thường vị trí khởi sinh tương đối lớn, tức xuất thân từ vị trí xã hội cao do thế đứng của Âm Dương đều nhập miếu, tượng cách Nhật Xuất Phù Tang và Nguyệt Lãng Thiên Môn.   Cách cục Tử Tướng cư Thìn Tuất đặc trưng bởi Cự Cơ và đối cung, Vũ Phủ và đối cung tức Thất Sát đều rất mạnh. Tử Tướng và Phá Quân xung chiếu, tính chất lưỡng Sát cường vượng. Nhìn chung hạn hành Cự Cơ đắc cách hội trợ tinh Xương Khúc Tả Hữu Khôi Việt và hóa khí Khoa Quyền Lộc, nhóm sao an theo Thiên Can là Kình Hao hoặc Thanh Phi Phục, nhóm sao an theo Địa Chi là Tuế Hổ Phù đắc Phượng Khốc là cách cục cao viễn, mệnh cách nhập tại bất kể cung độ, khi hạn hành đại vận qua cung độ này đều hoạch phát, do đắc thời cơ lớn từ Cự Cơ. Xét Lục Sát Kỵ Hình còn lại phân bố phù hợp, nếu Không Kiếp tại Dần Thân phù hợp hơn tại Tị Hợi. Do cách Tham Lang xung chiếu Liêm Trinh hỉ được Không Kiếp tại đây. Với cách cục nữ mệnh trên, Phá Quân độc tọa cư Tuất ngộ Lộc hội Kiếp Kỵ Thanh Hà, thuộc cách cục Long Kỵ Hà là bố cục phù hợp Phá Quân, Kiếp Kỵ ngộ Tham là đặt kế hoạch lớn cho cuộc đời. Hạn hành Cự Cơ Khôi Quyền Tuế Mã Khốc Khách hội Xương Khúc Long Phượng Phụ Bật và Song Hao cư Mão Dậu. Thực chất là cách cục thường phú luận " Cự Cơ chính hướng, hạnh ngộ Song Hao, uy quyền quán thế ". Đây là chính cách của bố cục này, ắt có sự thay đổi lớn hoạch phát lớn về công danh. Điểm quan trọng của luận tử vi là đắc hợp và bất hợp. Khi xét định lá số, bất kể nhân mệnh xuất thân ở hoàn cảnh hay tại thời điểm khó khăn, nếu hình thành tổ hợp cung trọng điểm mạnh, nhập vận xuất tướng nhập tướng, bạo phát lớn. Cũng như việc người gặp thời, gặp may mắn bên ngoài rất nhiều. Với mệnh cách Phá Quân, không gặp Lộc Tồn là điểm mạnh của bố cục. Ngày nay, người nghiên cứu tử vi, mệnh lý cũng nhiều, phần kinh sách hiển thị trên mạng toàn cầu cũng xuất hiện nhiều. Tuy nhiên về giá trị sâu học thuật cần người nghiên cứu tự bản thân nghiệm chứng với các cách cục tổ hợp lý tính. Thí như khi xét cách cục mệnh tạo trên với bố cục Kiếp Kỵ, sẽ thường trang mạng luận giải là cách cục hung, do Địa Kiếp là tối hung thần, đóng đâu tại đó mười phần hiểm nguy. Khi ngộ Hóa Kỵ càng tăng tính hung. Tuy nhiên độc giả cần lưu ý và nguồn gốc và sức dụng của hóa khí và sát tinh này. 




Địa Kiếp khi giao hội với các chính tinh tinh dị biệt sai khác rất mạnh. Phá Quân chế ngự Kiếp Kỵ, tượng cách có thể luận như Sát Phá có tính dương mạnh, tính phản kháng tương đối lớn, trái với Cơ Nguyệt Đồng Lương hiền hòa. Sát Phá Tham có tính động, tính hung, và bất nhẫn lớn. Thí như dụng 12 con vật biểu thị Địa Chi. Vật định ngoài tự nhiên, động vật ăn thịt và có độc chiếm ưu thế. Sự phát triển của Sát và Kỵ tức Ám hợp hóa thành cách là tượng của vật này. Rắn độc khó có vật khác xâm phạm, hổ dữ đứng đầu trong rừng. Điểm cốt yếu có người bị họa nạn lớn do Kỵ Kiếp, có người đắc cách lớn do cách cục này. Điểm hóa của bố cục khi phát khí hình ra ngoài là diện tướng, hay nhân tướng có thể khiến người nghiên cứu dễ phân biệt do xuất khí thành sắc tướng. Khi xét định diện tướng, hoặc hành vi của nhân mệnh có thể định được phần về vị trí xã hội. Thí như một số diện tướng chủ yểu họa, hay sát khí của nhân mệnh hình tù là khí loạn, tính ám và sát diện khởi phát ra bên ngoài hiện rõ. Cũng vậy, khí sắc này được mô tả trong tử vi bởi khí hóa tác động hợp hóa trong các cách Mệnh Thân Hạn. Điểm này một số phái tử vi khi định số không xét Khán Hạn Quá Khứ, định trực tiếp bởi diện tướng để luận hành khí của các tổ hợp và khả năng chế hóa của nhân mệnh trước các tổ hợp. Thí như loài vật có tính hung, sát tính trong nội khí của thức ấm, biểu trưng tại nhãn tướng tức ánh mắt phát lộ thần ra bên ngoài. Như loài rắn độc hóa Sát từ khí ám trong nội thức, ứng với thân hóa bên ngoài, cũng ứng với tập tính săn mồi ban đêm là mắt tròng đen nhỏ, dẹt, loài thường không có độc lòng đen lớn. Loài săn mồi khí hung hiển lộ. Loài hổ, báo, sư tử đứng đầu trong chuỗi tự nhiên khí phát khác với loài trâu, bò, lợn thỏ,... Nhân mệnh cũng vậy, diện tướng mắt tam bạch đản, tứ bạch đản, hoặc thần khí hôn ám, lộ hung quang là điểm phản ánh từ thức ra bên ngoài về khí. Diện tướng lông mày chữ Bát dễ nhận biết so với các cách khác có đặc trưng về tính cách riêng, tượng cách thường gặp Thiên Cơ thủ mệnh. Trí tuệ hay mưu cơ của nhân mệnh là điểm chế hóa thượng cách của Sát tinh. Sát tinh ứng hợp với nhân mệnh cũng vậy, khi Kình Dương đắc cách là sự tinh anh, tinh tường và quyết đoán tấn công đúng thời điểm, thời cơ để thay đổi. Khi Đà La đắc địa là mưu cơ tính toán tài giỏi. 





Phá Quân nếu gặp Lộc Tồn tại vị trí đồng độ hay tam hợp chiếu có thể luận hung cách, thí như bố cục Cự Tồn cũng vậy, có thể phát triển lên cao cũng là phù vân nếu theo nghiệp quan cách. Cần lưu ý, Phá Quân tối hỉ gặp Hóa Lộc, là một trong cách cục hay trong tử vi, hoặc Phá Quân hóa thành Quyền. Thảy đều rất cần thiết với Sát Phá để tránh rơi vào hạ cách. Phá Quân nhập Mệnh diện tướng thường xương góc hàm không kéo dài, tưởng trán cao, cằm lộ, đắc cách như Thiên Phủ, tướng gương mặt tròn, xương lộ. Tính cách cương liệt, có tính khai phá, tìm tòi lớn. Do vậy khi hội cách Tồn Phá theo khuynh hướng nghiên cứu khoa học có lợi, do tránh được hành động thực tiễn khi cầu tài danh bên ngoài. Việc thử nghiệm khoa học có thể sai, tuy nhiên nếu kinh thương là tài sản, khi phá sản dẫn tới hậu quả lớn. Mệnh đắc cách, tướng mắt lộ, thần khí sắc bén, có tính ưa động, biến chuyển, thay đổi cao. Phá Quân cũng chủ có tính chất ưa sự chỉ huy, lãnh đạo của bản thân thực hiện một kế hoạch, đường lối. Phá Quân lưu vận tới bố cục Tử Tướng hay Cự Môn đểu có tính khởi tạo, tham muốn khai tạo cái mới, đứng đầu. Phá Quân nhập mệnh, khi đắc cách là phá vỡ những cản trở trên sự nghiệp. Tính chất tại Mệnh cách của Phá Quân rất mạnh. Trái biệt với các tinh hệ của Tham Lang, Thất Sát. Trong trường hợp cách cục tổ hợp Tử Phủ Vũ Tướng Liêm giao hội Sát Phá Tham khiến nhóm Phủ Tướng đơn thủ, hình thành rất nhiều bố cục giao hội bởi Tử Vũ Liêm và Sát Phá Tham. Phân định cuộc đời sẽ gặp nhiều biến cố về tình cảm. Khi xét diện tướng, một số cách cục mang ý nghĩa quan trọng như Cự Kỵ miệng méo, năm Mậu Tuất cũng phát khởi một lá số cách cục thượng cách, cách cục Cự Cơ Đồng. Can Mậu thực tế xuất hiện nhiều cách cục phản tắc rất mạnh. Tứ hóa Tham Nguyệt Bật Cơ ứng Lộc Quyền Khoa Kỵ. Với Mậu thuộc dương thổ, Lộc Tướng Ấn lưu về cung độ Tị Dậu Sửu. Tức cung độ Hợi Mão Mùi gặp cách Thanh Phi Phục thuộc nhóm sao an theo Thiên Can. Xét địa chi cách, do dương thổ, chỉ gặp các can Thân Tí Thìn, Dần Ngọ Tuất đắc Tuế Hổ Phù hoặc nhóm sao Tang Hư Mã. Đồng thời các cung độ này gặp Kình Hao và Đà Hao. Đào Hồng Hỉ tại đây sẽ hội cùng nhóm Lộc Tướng Ấn và Thanh Phi Phục. Do vậy nhóm sao an theo Địa Chi phối định cách sẽ gặp nhóm sao an theo Thiên Can theo thứ tự sau. 




Kình Hao và Đà Hao hội Tuế Hổ Phù, Tang Hư Mã Khách. Lộc Tướng Ấn và Thanh Phi Phục hội Đào Hồng Hỉ. Khôi cư Mùi, Việt tại Sửu. Mệnh cách tại vị trí Tị Dậu Sửu và Hợi Mão Mùi đắc Lộc Tướng Ấn hội Đào Hồng Khôi hoặc Việt và trường hợp ngược lại với nhóm Thanh Phi Phục. Tại đây xét tới mỗi tinh hệ Tử Vi lưu chuyển tới các cung sẽ hình thành đắc tính riêng. Một điểm quan trọng khi Tử Vũ Liêm luôn giao hội Sát Phá Tham tại các cung độ Tị Dậu Sửu và Hợi Mão Mùi sẽ hình thành hai khuynh hướng đặc biệt với nhân mệnh, sa vào Đào Hoa cách, hoặc vươn lên khó khăn bởi Khôi Việt Hóa Lộc. Bố cục Song Lộc hình thành, có thể khiến Phá Quân tăng mạnh tính chất do Lộc Tồn xung Phá chủ hung mang lại. Thế Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật hội nhóm Kình Đà và Tuế Hổ Phù, Tang Hư Mã có phần ổn định hơn. Thực tế nếu Xương Khúc Tả Hữu lưu về các cung Tị Dậu Sửu và Hợi Mão Mùi sẽ thành bộ sao, đặc biệt trường hợp đồng độ tại Sửu Mùi và Hữu Bật hóa thành Khoa là cách cục mạnh. Tính chất của Khôi Việt Đào Hồng hội cùng Lộc Tướng Ấn và Thanh Phi Phục và có thể thành bộ đầy đủ với các trợ tinh, hoặc Không Kiếp Tị Hợi khiến cách cục có tính phát mạnh, có năng lực đứng đầu lớn, trừ trường hợp Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham tại đây tương đối phức tạp, bố cục Âm Dương Lương với cách Nhật Lương cư Mão và Thái Âm cư Hợi, hay cách Cự Cơ Mão Dậu được đánh giá tốt tại đây. Tứ hóa Tham Nguyệt Bật Cơ, điểm quan trọng tại Tham Lang hóa Lộc và Thiên Cơ hóa Kỵ, không thể hình thành đủ cách cục Tam Hóa như can Đinh với Nguyệt Đồng Cơ Cự. Phân bố của hóa khí trung tính, giải cách Sát Phá Tham do Tham Lộc hình thành, Cơ Kỵ khi đắc cách Cơ Kỵ Thanh là vận hội tới, ngay cả cách Cơ Kỵ Hình cũng không gặp khó khăn trắc trở như cách Cự Kỵ. Can Mậu khi phát sẽ dễ ở vị trí đứng đầu, do đặc tính hội cách của Khôi Việt ứng Đào Hồng Lộc Tướng Ấn và Thanh Phi Phục, cũng ứng thế đứng đầy đủ bộ của trợ tinh Xương Khúc, Tả Hữu. Mỗi can chi của năm sẽ hình thành các tổ hợp định sẵn bởi nhóm sao an theo Thiên Can và Địa Chi thành các đặc trưng. Với can Đinh, nhóm sao Cơ Nguyệt Đồng Lương chỉ xuất hiện tại Dần Ngọ Tuất và Thân Tí Thìn sẽ đắc Khoa Quyền Lộc và Lộc Tướng Ấn hoặc Thanh Phi Phục. 




Nhóm Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham và cách Phủ Tướng đơn thủ. Bố cục này hóa khí do nhóm Văn đoàn không gặp Khôi Việt, nếu hội Xương Khúc và Tả Hữu không đủ bộ. Tuy nhiên bộ Không Kiếp nếu lưu tại đây cũng sẽ không đầy đủ, trường hợp có thể gặp là xung chiếu nhau tại Dần Thân, các cung Thìn Tuất, Tí Ngọ đơn thủ. Khi xét hai can Mậu và Đinh, phân định sai biệt rất lớn tại thế đứng có thể hình thành của tinh đẩu. Tại thế của can Mậu, tính kích phát do thêm Khôi Việt và Không Kiếp, Xương Khúc, Tả Hữu có thể hội thành sao đôi, tức đủ bộ sẽ tăng mạnh tính tác hóa. Khí hóa của Chính Tinh và trợ tinh cũng sai biệt, khởi đặc trưng riêng của từng can chi năm tuổi. Với 6 cung Tị Dậu Sửu, Hợi Mão Mùi sẽ tương đối bất lợi với nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm và Sát Phá Tham do hình thành cách giao Tử Phá, Tử Sát, Tử Tham, Vũ Sát, Vũ Phá, Liêm Phá. Tại 6 cung này, cách Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham với can Giáp luôn đầy đủ Tam Hóa, do an Liêm Phá Vũ Dương ứng Lộc Quyền Khoa Kỵ, đắc thêm Khôi Việt tại Sửu Mùi, tuy nhiên không gặp Lộc Tướng Ấn và Thanh Phi Phục tại đây do Lộc Tồn tại Dần. Tại can Giáp, các nhóm sao Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật hoàn chỉnh khi an tại Dần Ngọ Tuất và Thân Tí Thìn sẽ đắc vòng Lộc Tồn hoặc gặp Thanh Phi Phục, không có hóa khí và khi hội Xương Khúc, Tả Hữu hay Không Kiếp không đủ bộ. Nhìn chung, khởi phát từng can chi năm tuổi như bản đồ trên thiên bàn bởi một số nét vẽ đặc trưng, việc an cung Mệnh tại các vị trí sẽ hình thành các nhóm sao theo quy luật. Xét tới các nhóm sao an theo Tháng, Ngày, Giờ luận định số. 

Friday, October 8, 2021

Quá trình phấn đấu của mỗi nhân mệnh

 Nhân mệnh thai sinh, trưởng thành và theo guồng quay của nghề nghiệp công việc đang làm, để mục đích kiếm ra nguồn thu nhập, nguồn tiền lương cho cuộc sống, thụ hưởng của mỗi người. Một số nhân mệnh muốn thoát ra những vòng tròn lặp lại để tạo nên đổi mới trong cuộc đời, khi ngành nghề không phù hợp, hoặc hướng tới công việc tốt hơn, thay đổi số phận thường như đã được lập định để tìm kiếm tự do về kinh tế, đáp ứng nhu cầu về vật chất hoặc tinh thần. Một loạt các quy tắc chuẩn mực của xã hội, trong công việc khiến mệnh cách có những áp lực tới chính bản thân. Điều này cần xét về tính chất thông minh và xoay chuyển tình thế của nhân mệnh. Trong chuỗi ngày nghề nghiệp tác động ngược lại bản thân do kết quả là lương tiền Thiên Lương tới nhân số. Liên quan tới tử vi đẩu số, là phương pháp toán mệnh trên khí hóa của mệnh tạo khi thai sinh. Phàm thời khắc khai tạo một nhân mệnh là thời điểm cốt gieo nhân quả tới thiên địa. Khi thai sinh, nhân mệnh chịu sự tác động tương tục của xã hội tới nhân mệnh. Chính tinh chủ nghiệp nối tiếp quá trình nhân quả sẽ theo nhân mệnh tới khi hết chu kỳ sinh lão bệnh tử. Do vậy, luận cách cục tối quan trọng là Chính tinh thủ mệnh và các tinh đẩu tại bản cung mệnh. 12 chính tinh và giao hội, VCD khắc họa bản tính nguyên thủy của nhân mệnh. Điểm trọng chính là điểm xét cách cục tạo tại mệnh nguyên để xét năng lực, khả năng, thiên tính của nhân mệnh. Cuộc đời gắn với tinh đẩu là tính cách tồn tại của nhân mệnh phản ánh từ vô thức, gắn với cát hung thịnh suy khi luận đoán. Cũng vậy, xuất hiện nhiều tổ hợp Mệnh có thể khiến đương số khó có thể vực dậy sau những sai lầm biến cố cuộc đời. Dự đoán vận cát hung là vấn để cơ bản khi nghiên cứu tử vi, là điều nhập môn người nghiên cứu có thể nắm rõ. Vận sinh tử là phần tương đối phức tạp để định cách. Dựa vào cát vận hoặc đại hung vận cách không đủ xét định số phận tuyệt khí của mệnh tạo. Phàm vạn vật theo lý đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Khí linh ứng cảm giao tương ứng là tất yếu khi khí hóa của bố cục phát ra bên ngoài. Cách cục vận hạn đại hung ứng hóa với hoàn cảnh bên ngoài sẽ tạo nên tính chất hung hiểm tai kiếp nặng nề, tuy nhiên chưa xét tới họa sát thân. Sự thay đổi diễn ra có thể khiến nhân mệnh mất đi chỗ dựa của bản thân về chính công việc, thứ tạo ra nguồn thu nhập của mỗi mệnh tạo. Nghề nghiệp, chức vụ là quá trình khởi phát của công danh, tính chất của Hóa Kỵ là nỗi sợ, trong vòng Tang Hư Khách Mã là nhóm sao có tính chất khởi phát sự đương đầu của nhân mệnh trước những quyết định lớn trong cuộc đời. Nỗi sợ hiển hiện rất nhiều đặc trưng bởi đánh mất, mất mát của nhóm Sát Phá Tham, hay của mâu thuẫn, đè nén bởi Cự Cơ Đồng. Tại đây, có nhân mệnh chịu đựng để nghĩ tới ổn định trong cuộc sống, có nhân mệnh lựa chọn thay đổi để tìm phương hướng khác, chưa xét tới quá trình thành hay bại khi lựa chọn của chính bản thân đương số tới những điểm tác động của cuộc đời. Tuy nhiên dây buộc lại chính là việc lo sợ mất việc làm, lo sợ về không có lương tiền để duy trì cuộc sống. Đặc biệt với những nhân mệnh có những khoản nợ được trả bởi lương tiền hàng tháng. Điều này dẫn tới việc quan trọng là sự lựa chọn, quá trình lựa chọn của nhân mệnh trước những biến động của thời cuộc có sự tác động của chính tư tưởng, hay bản tính, tính cách của mệnh tạo tới. Trong nhiều thời điểm, xét mệnh cách gặp Khôi Việt Khoa Quyền Lộc Tả Hữu Xương Khúc hội cách cục cát hóa mạnh, khi bản thân có thời gian ngẫm về tử vi giai đoạn còn thanh niên và sau này khi thời gian lập lại hòa bình của đất nước, khó để suy xét mệnh cách quý hiển bằng các tổ hợp sao cát trợ tinh, nhược lại có rất nhiều cách cục gặp bố cục trên khiến cuộc sống nhàn hạ, nhân mệnh bình thường không gặp các biến động lớn của thời thế tác động tới duy trì cuộc sống của nhân mệnh. Lương tiền, lương bổng là điểm cốt yếu có thể ảnh hưởng tới các quyết định cuộc đời của nhân mệnh. Có người do nghĩ tới gia đình, bản thân và nhiều lý do khác. Tính chất lo sợ, áp lực của những hoàn cảnh mang lại khiến nhiều đương số không thể phát triển thêm những tư duy, tư tưởng mới, khi vừa xuất hiện đã bị loại bỏ. Và có những tư tưởng đáng lý sẽ thay đổi toàn bộ cuộc đời của nhân mệnh. Trong quá trình chịu áp lực lớn, cũng là thời điểm kích phát của cục số. Tính chất này do tính chất phát tác của hung sát và cách cục tới nhân mệnh. 





Những nhân mệnh thành tựu sẽ đưa ra các quyết định mang tính quan trọng trong một số lần trong cuộc đời sau những thử nghiệm, cố gắng tồn tại trong chính tính cách của mệnh tạo. Điều này dẫn tới các tín hiệu của hành vận tạo bởi một số sự kiện do nhân mệnh đưa ra quyết định tiên quyết. Thí như một trường hợp người viết có luận với lá số một thanh niên có sự nghiệp ổn định tại ngân hàng nhà nước và khi thời điểm Lộc Kỵ Kiếp Tướng bỏ công việc và khởi đầu với kinh thương qua mạng internet. Sau gần một năm loay hoay với những khoản tiết kiệm đã dùng hết và lương tiền không còn được bảo lãnh bởi công việc làm. Nhân mệnh rơi vào thế áp lực khủng kiến, vay mượn của gia đình người thân. Gặp thời cuộc đã có tài sản rất lớn, có thể bằng đời người tích lũy. Sự thay đổi mang tính mạo hiểm và quyết định có thể khiến nhân mệnh bế tắc trong cuộc sống hoặc khiến cuộc đời mở ra bước ngoặt mới. Phàm quá trình xây dựng sự nghiệp của mỗi nhân mệnh có đích tới nằm tại quyết định những thời điểm quan trọng của nhân mệnh. Như việc đặt cược sự thay đổi có thể dẫn tới thành tựu hay trượt dài trên những quyết định hối hận. Quá trình phấn đấu của mỗi người chịu tác động bởi cả hoàn cảnh vận làng, vận nước. Trong giai đoạn dịch bệnh này có thể khiến nhiều đương số rơi vào tình cảnh nợ nần, khủng hoảng về tư tưởng do áp lực của tài sản hao hụt hay không thể kinh doanh buôn bán. Thời điểm này thương nghiệp chịu ảnh hưởng nặng, quan lộc cách có thể ít gặp biến động hơn. Phép luận định khi hoàn cảnh vận nước sẽ thay đổi thích nghi với dịch bệnh để khôi phục phát triển kinh tế, tạo ra nguồn tài sản từ những thiệt hại do ngưng trệ giao thương. Nhiều nhân mệnh sẽ rơi vào tình trạng khó khăn, cũng như mỗi thời trong giai đoạn chiến loạn mệnh cách đắc sẽ bạo phát. Giai đoạn này là thời điểm của thay đổi thích nghi. Như trong tự nhiên việc sinh tồn dựa vào quá trình thích nghi liên quan tới tính mệnh. Trong thời kỳ vận bĩ, khai thông, lật đổ bĩ sẽ tới giai đoạn thái. Trong thời điểm này, sẽ có nhiều nhân mệnh đánh mất toàn bộ tích góp của cuộc đời tính tới giai đoạn này, lâm vào cảnh nợ nần bế tắc. Một số kẻ tiếc nuối về những quyết định của bản thân. Rất nhiều mệnh cách quý hiển rơi vào thế khó khăn, cũng là thời cơ cho sự thay thế của trật tự xã hội. Trong quá trình phấn đấu này, thành bại nằm tại tính cương cường, vững chắc. Tuy nhiên điểm cốt yếu là khả năng linh hoạt xoay sở, khi dồn vào thế chân tường. 





Mất mát là cách cục thường hiện diện trên lá số tử vi, vào các hạn hành hung sát trùng phùng, hội họp cách cục phá tán. Đánh mất gia nghiệp là việc khổ tâm của mệnh cách, đặc biệt nếu nhân mệnh đã trải qua quá bốn hạn hành tức vào thời trung niên. Việc gây dựng lại sẽ khó khăn, bĩ cực thái lai, phàm sự thoái lui là quá trình sai giảm để hướng tới cơ hội mới của vạn vật, nếu không nhanh thay đổi ắt sẽ tụt hậu hoặc phá tán mạnh như quá trình từ Đà La tới Lộc Tồn, tới Kình Dương. Con người gặp giới hạn bởi thời gian, tức mỗi giai đoạn sống phân định hữu hạn về quá trình phấn đấu. Nếu chậm trễ khi chuyển vận về sau càng suy giảm thời gian sống. Thực tế, khó có thể luận định được cơ hội sống của mỗi người trong thời gian cuộc đời, chỉ xét tới tính chất bệnh tật, yếu tố tai nạn, họa hoạn đã tạo nên những mối nhân quả sai biệt giữa các mệnh cách. Người viết thường thấy rõ việc nhân mệnh thành tựu sự nghiệp quý trọng thời gian hơn những vấn đề lo nghĩ, lo sợ về quá trình thực hiện công việc hay nghề nghiệp. Điều này là sự tinh tường rất lớn của những nhân mệnh này. Mối quan hệ chặt chẽ này gắn với tính khởi phát quan trọng nhất trên lá số tử vi mà thường người luận định không chú trọng tới, chỉ tập trung vào luận đoán bố cục và tính chất của tinh đẩu. Thời gian là điều kiện tiên quyết của mệnh cách để xét định toàn bộ lá số tử vi. Thời và vận là những điều cần nhìn rõ để xác định khả năng và tiến trình vận cuộc đời của một người. Thí như nghiệp quan gắn với thời gian đắc lệnh thường tầm trung niên. Theo nghiệp kinh thương xét tới tính chất hoạch phát lớn hơn tức giai đoạn nhân mệnh bước vào tiền vận đã có thể tạo nên sự nghiệp kinh doanh lớn. Tuy nhiên khi xét yếu tố thời gian, mục tiêu của nhân mệnh đạt được cuộc sống chính là giai đoạn tiền vận và khởi đầu của trung vận. Mười năm thiếu niên đắc thời không bằng 1 năm trung niên đắc vận. Quá trình sinh phát tương kiến của vật theo khuynh hướng phát triển sẽ hội tụ điểm kích phát cần chú trọng tại thời gian sau. Do giai đoạn tiền vận thường tích lũy kinh nghiệm sống, nguồn lực không mạnh như giai đoạn về sau. Tuy nhiên tại giai đoạn trung vận sẽ ảnh hưởng thêm tác động tật bệnh và suy yếu của thể trạng. Nhân mệnh cách được thừa hưởng, kế tục từ phụ mẫu là điểm cát khi thời gian phát triển rút ngắn. Tính chất này cũng khiến nhân mệnh nếu khởi sự từ bạch thủ hưng gia, tay trắng nên nghiệp bắt buộc khuynh hướng rất táo bạo, đánh đổi, đánh cược với những tư tưởng đổi mới khác. Cũng vậy, quá trình biến động của vật chất không như quá trình suy giảm của sinh lực.  Tài vận có thể thăng giáng, ở mức âm do nợ tài sản, tuy nhiên sức khỏe chỉ theo chiều hướng suy yếu theo thời gian và ngưỡng số Không tức Vong.  




Sức tác hóa của thời gian và hiểu rõ tính chất quan trọng của thời gian tạo ra các thời vận, cơ hội là điều mệnh cách thành tựu đại nghiệp nắm rất rõ. Phân phối và lược bỏ những vấn đề tác động không cần thiết là nguyên tắc cho quá trình phát triển mạnh về sau. Điều này thường không nhiều đương số xét tới, do vậy mệnh cách thành tựu không nhiều trên tổng thể. Vận trinh của cuộc đời là các giai đoạn trải qua, càng về giai đoạn sau cuộc đời nhân mệnh sẽ có khuynh hướng sự an toàn, ổn trọng, do vậy nếu tích lũy năng lực và khả năng thay đổi nắm thời thế nằm tại giai đoạn hành vận thứ 3,4. Hai đại vận này có tính chất quan trọng do chịu tác động của thời gian tại lá số tử vi. Nếu hai hành vận này phối hợp Mệnh tốt đẹp, lá số luận cát. Sát tinh sẽ chế hóa điểm chủ tại hai đại vận này. Rất nhiều lá số nhân mạng khởi sự lại từ đầu khi giai đoạn trung niên, có những mệnh cách còn nợ số tài sản lớn tại giai đoạn này. Thứ cần thiết của mệnh tạo lúc này là thời gian gây dựng lại. Do vậy những điều tiêu hao như sức khỏe và thời gian ứng quy luật vòng Trường Sinh khởi phát sẽ tác động phần lớn tới độ số của mọi mệnh cách. Tri kiến và tích lũy kinh nghiệm từ giai đoạn tiền vận là điểm quan trọng để mệnh cách có thể phát triển tương đối an toàn về sau. Có thể đánh đổi tức Thất Sát, trao đổi bằng thời gian giải trí Vũ Khúc, Đào Hồng, Diêu Y, hay thậm chí thời gian sinh hoạt của mỗi nhân mệnh để lấy tri kiến trong giai đoạn này. Người viết có luận giải những mệnh số giai đoạn khó khăn trong cuộc sống, phân định thời gian dành cho giải trí hay thú vui nhiều hơn dẫn tới tích lũy về kinh nghiệm có phần khuyết. Khi Sát Kỵ tác động nhập vận tác hóa tới gặp biến động như bị lừa đảo, hay kinh thương thất bại, hoặc gặp biến cố trong công việc, hoặc mắc vào tệ nạn, cờ bạc... dẫn tới khủng hoảng của bản thân và gia đình. Khi lập thế vững chắc của tri kiến tức Xương Khúc có thể khắc phục vấn đề này. Lựa chọn tạo bởi chính nhân mệnh, về việc tạo sự chuẩn bị trước những biến cố là điều cần thiết. Lựa chọn cũng chính là Đào Hoa. Tinh đẩu biến hóa theo đích là chủ thể tức nguyên mệnh. Phần phân định này là khán hạn sẽ phân định được rất nhiều cách cục chính yếu gắn với độ số của mệnh tạo. Khi suy xét về khả năng tham muốn về tri kiến, học thuật ở phương diện sách vở và kinh nghiệm, có giá trị hơn thời điểm giải trí, hoặc thí như đặt quá nhiều thời gian cho những mối quan hệ và chịu tác động của các tư tưởng hưởng thụ khi thế của nhân mệnh chưa thực mạnh. 




Phòng vệ, lường trước những biến cố cuộc đời là điều cần thiết, ở mức cao hơn là lập định kế hoạch tức Tham Lang để hướng tới, như Tham Lang cần có Hỏa Tinh tức nhiệt huyết là cách cục quý. Kế đến là sức khai phá, làm chủ của Phá Quân, Tử Vi và Cự Môn tới cuộc đời nhân mệnh. Một lá thư của một đương số bắt đầu tới giai đoạn hành vận trung niên đề cập tới người viết về sự khó khăn đột biến khi dịch bệnh xảy ra khiến đương số trở về số không khi thời kỳ trước có một doanh nghiệp tương đối lớn về dịch vụ. Cũng rơi vào trong điểm vận Phá Không Tồn Kiếp Ấn Đào ứng với hai thời kỳ hành vận của nhân mệnh và thời vận của vận thiên hạ bất lợi với một số ngành nghề liên quan tới dịch vụ. Thực tế nhân mệnh có thể khởi phát cơ nghiệp khi nhập vận Khoa Quyền Lộc hội trợ tinh mạnh trong thế đứng của Chính Tinh vững hợp cách mệnh. Tuy nhiên khi lưu chuyển trên 12 cung độ ắt sẽ có giai đoạn gặp Sát Kỵ dẫn tới bại cách. Điều này cũng thường gặp tại nhiều lá số trên kinh thương và các quan trường. Tới giai đoạn hậu vận, có thể gặp phá tán nặng nề. Phân định ngày tháng ý nghĩa là một trong những yếu tố để định số trong tử vi. Tạo bởi tổ hợp Âm Dương khi định cách. Nếu trên thiên bàn, bộ Âm Dương nhập miếu gia cát là cách thời gian sử dụng tốt. Sự tác động của khí hóa khiến nhân mệnh lo sợ rất nhiều vấn đề, là lo lắng đánh mất sự ổn định tuy nhiên thực tế vạn vật luôn vận hành, biến chuyển không ngừng, những ý tưởng, tư tưởng hay bị phá bỏ bởi hoàn cảnh trước khi được khởi tạo là thường gặp. Vì vậy mới thường ca ngợi cách cục Cự Cơ chính hướng hạnh ngộ Song Hao uy quyền quán thế, là sự thay đổi của Cự Môn khi bất mãn. Hay cách cục Sát Phá Kình Đại sẵn sàng phá lề lói cũ đổi mới. Tử Phủ Lộc Tồn với hệ tư tưởng vững chắc trước thời cuộc, có tính tích lũy lớn và linh hoạt của Vũ Khúc. Nhân mệnh hành trình của cuộc đời là tìm lại cuộc sống của bản thân, hướng tới điều hoan hỉ, an ổn, thỏa được vật dục và sắc thọ ấm. Số và phận gắn liền với nhau, mệnh cách an phận thì số không biến động mạnh, mệnh cách hướng lên trên, không an phận thì số biến động, có thể thành bại thăng trầm. Có lẽ cuộc đời nên thử một vài lần. Cổ nhân luận định, mệnh quý là mệnh hoan hỉ trước những khó khăn và lo lắng khi đạt được thành tựu lớn. Việc tư tưởng và hoàn cảnh tác động mạnh tới khuynh hướng nghề nghiệp, hai lá số cùng tứ trụ, khởi sinh cùng thời điểm, một thăng vận Sát Kình Tuế Phượng Khôi Quyền Kiếp, giữ vị trí quan trọng trong quốc phòng, một theo nghiệp kinh thương xuất ngoại đạt được sự nghiệp lớn trong ngành công nghiệp bên Hoa Kỳ, cả hai đều nhập đại vận phát dã như lôi. Phàm nhân mệnh, xét thời là quan trọng, vận bĩ mệnh quý là thời khắc thử thách vận bĩ là trui rèn cho năng lực của mệnh tạo. Cả hai lá số một người phụ thân mất sớm khi thiếu niên, một người mồ côi, cũng là điểm tác họa của Sát tinh. Nhiều lá số khác tại vị trí cao trong xã hội trong trích lục của Tử Vi Đông A, khởi phát khi hoàn cảnh thế cùng cực, thắp lên ý chí cao viễn để có thành tựu về sau. Cũng ở mệnh lý của nhân mệnh đương nhiệm, Tử Vi Đông A chỉ bàn luận về cách cục, không xét về cụ thể. Điều nghiệm lý nhiều mệnh cách gốc mệnh bình hòa, toàn bộ tổ hợp đắc chế hóa lưu tại hành vận trung niên, nhập vận bất ngờ đắc thời trong giai đoạn rất ngắn giữ vị trí quan trọng trong xã hội. Đây là điểm huyền nghiệm của mệnh lý. Ứng tiền nhân luận "Mệnh hảo bất như Thân hảo, Thân hảo bất như Hạn hảo". 




Mệnh quý cũng có thể luận là mệnh tri kiến sâu rộng, năng lực suy xét nhạy bén, giải quyết vấn đề. Cuộc đời nhân mệnh có thể dài hoặc ngắn, trường đoạn có người rời khỏi nhân thế khi đầu xanh, có mệnh số vừa chào đời đã không thể tiếp tục sinh mệnh. Vật vô thường vậy khiến suy xét về tính phát khởi của nhân mệnh cần chú tâm. Người bệnh tật, hình pháp, tới thương tật chỉ tham cầu sự sống hay tham cầu đầy đủ tứ chi, vô bệnh tật. Việc bế tắc, áp lực tồn tại do vấn đề khác là tác hóa dư khí của Sát Kỵ tới nhân mệnh. Rất nhiều nhân mệnh có khả năng nắm bắt thời cơ để tạo ra khối tài sản khổng lồ trong thời gian ngắn, cũng có nhân mệnh biến hóa, linh hoạt tìm ra những bí mật, sơ hở của luật pháp các quốc gia để tạo nên cơ nghiệp của bản thân. Tuy nhiên nếu có Kỵ Hình Phi thì cẩn thận bị bắt, nếu có Khôi Hình Kỵ Hổ khó có thể thoát nạn. Nhiều trường hợp ở vị trí cao trong xã hội cũng khó thoát ách nạn này. Giai đoạn từ khi thai sinh tới lão bệnh là quá trình tiếp nối của thời gian, không thể quay lại và càng về vận trình sau của cuộc đời sẽ có cảm nhận rõ về thay đổi của thời khắc, điều cần lưu tâm là chế ngự được hung sát tinh tác động tạo áp lực, đè nén, xung đột tới mệnh cách. Thiên Cơ tương kiến là linh động, chủ dùng trí phân tích. Phá Quân dùng lực và tính khai phá. Thiên Phủ dùng tình cảm. Thiên Lương dùng đạo. Thất Sát dùng dũng. Tử Vi dùng lý tưởng. Thiên Đồng dùng cộng. Cự Môn dùng khẩu. Tinh đẩu khi đạt khí hóa cao nhất như việc nhân mệnh học hỏi ở mức độ tinh thông. Đại diện cho các vị trí tài giỏi, nổi danh. Phàm tử vi không có tinh đẩu đại hung, chỉ có bất hợp. Như thuyết ngũ hành, năm hành đều quý, miễn là tương hợp chế hóa hữu tình. Tử Vi xét chính tinh chủ mệnh là bản thể, khi xét cách hóa ra bên ngoài tượng nghĩa, là bản thân nhân mệnh, tú khí thì thành tựu. Kể hung sát ám tinh, tú khí là nhân mệnh tài giỏi, như Tào Tháo đa nghi cũng là mệnh vương. Tần Thủy Hoàng thường bị người đời luận định ác nhân lưu truyền tài trong sử ghi. Một cung đường cuộc đời, tới trăm năm cũng thành cổ nhân, hà tất lo sợ việc thay đổi có thể phần mạo hiểm để mưu cầu điều tốt hơn cho năm tháng còn lại. 

Tuesday, August 17, 2021

Nối tiếp thế hệ và bạch thủ hưng gia

 Sự nối tiếp của thế hệ đi trước trong một gia đình tức vận nhà khiến hệ cách cục định số biến chuyển theo khuynh hướng có tính khảo cứu tương đối hay. Thứ nhất thường một số người nghiên cứu tử vi có kinh nghiệm luận về truyền tinh của phụ mẫu tới nhân mệnh. Thứ tới là việc suy xét tính chất này có một đặc điểm quan trọng khi khảo cứu là xét sự biến dịch của tổ hợp tinh đẩu hung họa trong một gia cảnh tốt đẹp để định cách biến hóa của tổ hợp. Cách cục bản chất về tính cách hay bản tính không có sự sai biệt. Tuy nhiên về lý tưởng, tham muốn đạt được của hai trường hợp này đã ở cách xét mức độ rất khác nhau. Vận thiên hạ thắng vận nước, vận nước thắng vận làng, vận làng thắng vận nhà, vận nhà thắng vận mệnh. Đây là sự tác động nghịch với nhân mệnh. Tuy nhiên bản chất một nhân mệnh khí hóa cao viễn hay thậm chí bình thường vẫn có thể là tác nhân suy chuyển vận nước, việc này đúng với yếu nhân đứng đầu trong một tổ chức quốc gia. Trong bài viết này bàn về tác động của vận nhà tới mệnh cục. Thể chế, truyền thống, bản sắc một quốc gia sẽ tác động tới toàn bộ công dân của quốc gia này, từ hệ thống công trình cho tới giáo dục, y tế, kinh thương,... Đặc biệt là sự tác động của giáo dục sẽ tương đối mạnh. Tại đây tác động này sẽ hình thành nên sự sai khác giữa các quốc gia. Tức sự tác động của vận nước sẽ liên quan tới nhân mệnh quốc gia này. Vận làng tức xét hoàn cảnh sinh sống tại một địa phương. Và vận nhà là tác động của gia đình, phụ mẫu huynh đệ tới nhân mệnh. Nếu vận nhà cực thịnh, tức tổ nghiệp ở vị trí cao trong xã hội thậm chí quốc gia. Tính chất của toàn bộ tinh đẩu sẽ sai khác về tham muốn và lý tưởng. Thí như với lá số nhân mệnh đắc cách Cơ Lương cư Thìn hội Khoa Lộc Mã Xương Khúc Tả Hữu, sinh khởi trong gia đình phú gia địch quốc. Nhân mệnh đắc cách này có khuynh hướng phát tài phú tương đối mạnh. Tuy nhiên trong các lá số nghiệm lý, có nhân mệnh theo khuynh hướng tu đạo, có người rời bỏ gia đình ẩn cư tu đạo. Các bố cục định cách về khuynh hướng đã hóa hợp sai biệt tương đối mạnh. Tượng cách Cơ Lương có một phần tính chất ưa nghiên cứu đạo, thoát ly tăng đạo như cách Tử Tham. Khi định cách cục này có trường hợp nghiệm lý quả thực có kết quả trường hợp sai biệt. 



Với bố cục mệnh cách thừa hưởng kế tục được tước vị, hay tài sản rất lớn của phụ mẫu hay thậm chí gia tộc, dòng họ do tính truyền thừa, kế thừa. Nghiễm nhiên một số mệnh cách này đã có được khởi đầu rất tốt đẹp. Đây là điểm rất cần chú trọng khi xét gốc khởi ban đầu của cách cục. Thực tế trong giai đoạn hiện thực, tại tất cả các quốc gia khi xét ở phương diện doanh nhân hoặc chính trị có nhiều mệnh cách được sinh khởi trong gia đình có truyền thống lãnh đạo đứng đầu một tổ chức hoặc một quốc gia. Gốc khởi phát này như nguồn lực rất lớn tới nhân mệnh cũng dễ xét tới trong ngay môi trường xung quanh mỗi nhân mệnh. Tuy nhiên khi khảo sát về nhân mệnh đắc thành tựu khởi phát từ gốc vận nhà tương đối yếu thế, với cách cục Sát cách đắc lệnh vẫn mang ý nghĩa hoạch phát rất lớn. Nhân mệnh nếu khởi điểm không được nhiều thuận lợi, có thể trong hoàn cảnh rất khó khăn bằng nỗ lực tạo những thành công lớn tới xã hội cũng xuất hiện rất nhiều. Cách cục này để thành cách có những tinh hệ thường khi xét luận chủ có tính chất vươn lên, cầu tiến rất mạnh. Khi nghiệm lý toàn cục xét tính chất sao, cổ nhân phân định Khôi Việt là bộ sao quý nhân, tính chất vượt trội rất mạnh, an theo Thiên Can nằm ngoài bốn nhóm sao chính an theo Thiên Can. Thiên Khôi và Thiên Việt nếu nhập Mệnh ắt nhân mệnh hẳn không là người tầm thường. Lưu ý việc Khôi Việt nhập mệnh khác tam hợp chiếu, củng chiếu mệnh hoàn toàn. Khôi Việt thí như sự trọng đại, khi nhập mệnh mang ý nghĩa tăng trọng cung độ này. Nếu xét tính bộc phát, Khôi Việt có tính chất dự đoán, cát hóa bố cục hung cách. Không Kiếp bộc phát bất ngờ. Khôi Việt là cách cục chủ vươn lên, là thế trợ lực của hoàn cảnh tới nhân mệnh. Mệnh cách gặp Khôi Việt, nếu sinh khởi nhân mệnh hoàn cảnh khó khăn sẽ có sức vươn lên tương đối mạnh. Về phần định cách cục Khôi Việt một số bài người viết đề cập tới tính chất của tinh đẩu này. Thường xét luận 6 trợ tinh gồm Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt. Tuy nhiên nếu xét thực tế trên thiên bàn có 4 trợ tinh có thể hóa khí và có bàng tinh an theo trợ tinh này tức Tả Hữu Xương Khúc có Thai Tọa Ân Quý Cáo Phụ. Tả Hữu chỉ Hóa Khoa có 2 phụ tinh Thai Tọa. Xương Khúc có thể Hóa Khoa và Hóa Kỵ gồm 4 phụ tinh Ân Quý Cáo Phụ. Thực tế phân định hai tổ hợp của Thai Tọa và Quang Quý an theo ngày sẽ hình thành một số cách cục mang ý nghĩa cốt lõi trong trợ luận về độ số. 




Hai bộ Quang Quý và Thai Tọa an theo ngày nên không nằm cố định theo tổ hợp sao xác định từ trước. Tác động của hai bộ sao này tương đối mạnh, biến chuyển tính chất hoàn toàn của một cách cục cát hung. Người nghiên cứu tử vi thường nghiệm lý hai trường hợp Xương Khúc Ân Quý đồng cư Sửu Mùi và Tả Hữu Thai Tọa đồng độ tại Sửu Mùi. Bốn trợ tinh Tả Hữu Xương Khúc hợp hóa tương đồng, xung chiếu tại Thìn Tuất, tam hợp chiếu tại Tị Dậu Hợi Mão, đồng độ tại Sửu Mùi và đơn thủ tại Tí Dần Ngọ Thân. Sáu vị trí Thìn Tuất Tí Ngọ Dần Thân gặp trợ tinh Tả Hữu Xương Khúc không đủ bộ, đơn thủ. Do vậy cổ nhân luận cách Xương Khúc Tả Hữu đồng cư Sửu Mùi là cách cục nhập miếu cát hóa mạnh, đặc biệt khi giao hội Thai Tọa hay Cáo Phụ. Với Sát tinh Không Kiếp luôn đồng độ tại Tị Hợi, xung chiếu tại Dần Thân, tam hợp chiếu tại Mão Dậu Sửu Mùi, đơn thủ tại Thìn Tuất Tí Ngọ. Khi xét xong phân bố của Chính Tinh, xét Tứ Hóa, 4 trợ tinh, Không Kiếp để định khí hình gốc hay năng lượng của tinh bàn. Tại sao gọi là năng lượng ?. Do tính chất lưỡng đấu của Sát và Trợ tinh, hoặc vị trí kích phát treo của các tổ hợp này khi nhật hạn, nguyệt hạn, tiểu hạn với thời gian ngắn vận qua sẽ gặp biến hóa mạnh trong tư tưởng, hàm tính biến động, dao động mạnh. Năng lượng trong các tinh hệ Chính Tinh với các nhóm sao thủ mệnh sai biệt tương đối lớn. Xét cục nếu phần năng lượng của Sát cục lớn, hoặc trợ tinh lớn là điểm vượng suy của nguyên cục. Nếu Sát tinh có năng lượng lớn, sức áp lực, đè nén, bất ngờ, lo sợ và bế tắc, mất phương hướng,... sẽ phát khởi mạnh nếu không được chế hóa. Với trợ tinh lớn như Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt là sự phát triển, xu hướng tốt lên, tăng tính ổn định, thời vận, tuy nhiên năng lượng khởi phát không lớn mạnh, khởi tham vọng lớn như Sát tinh do tính cân bằng, ổn trọng trong tính chất tác hóa. Trên tinh bàn, xuất hiện các tổ hợp có sức tác hóa lớn, đây là mệnh phát triển bất ổn định, tức khi phát ắt hoạch phát tài danh, khi hung họa tăng mạnh tính hung. Bản chất khi xác định dòng khí hóa vận hành qua các hành vận tác động tới tư tưởng, Mệnh Thân việc gặp tai kiếp nạn ách thương tích, thương tật hay phá tán bại vong đều đổng đẳng tính chất hoạch phát, cát hóa, đắc tài lộc, gặp thời cuộc. Đều không là mệnh thường, tuy nhiên hai khuynh hướng rất sai biệt. 




Điều quan trọng, người nghiên cứu tử vi xét luận từ gốc định, có thể phân rõ năng lượng trong tổ hợp hình thành mạnh là cát hay hung. Sát tinh có thể phối hợp định cách đại cát, cát trợ tinh khởi phát tối hung. Điểm khẩn yếu này biến hóa vận động thực tế do mong muốn của lòng nhân. Thí như một loài sâu bọ, khi diệt loài này có thể mang kết quả tốt với con người tránh hại cây quả, tuy nhiên có thể kết quả xấu với tự nhiên khi mất cân bằng. Năng lượng hay khí hóa gốc của tinh hệ cũng vậy, ngược về gốc bất phân cát tinh hay sát tinh. Khi truy nghịch, nghiên cứu giải đoán lá số người nghiên cứu cũng suy xét từ nguyên căn, thứ tới phân định cát hay hung của chính nhân mệnh mới có thể thực tránh một số sai lầm khi luận giải. Nếu nguồn năng lượng khởi phát trên một số tổ hợp mạnh, hay chính yếu là tổ hợp cung trọng điểm sức tác động lớn. Nghiên cứu tử vi không chỉ nhìn xét cách cục luận theo phú giải. Tinh đẩu biến hóa phức tạp, một số người nghiên cứu thời gian còn chưa thực sự nhiều tuy nhiên do một phần tính huyền học của toán mệnh tương đối khó tiếp cận, người nghiên cứu cũng thường muốn tri kiến của bản thân được người biết như trên các trang mạng khi luận giải hay truyền đạt tới mọi người như sự nghiệm lý, tổng hợp phân định phú giải cần sâu dày cần tránh rơi vào sự tự tin dẫn tới tạo nghiệp quả khi dự đoán lá số tới người khác. Quan trọng phú luận có tính phổ quát, tổng hợp rất lớn, nếu không nắm rõ yếu tố cốt lõi rất dễ sa vào câu chữ trong phú luận. Điểm chế hóa của mệnh cách là sự dung hòa của cách cục. Như việc dung hòa được thuốc có tính độc trong cơ thể phá những bệnh huyết ứ trong đông y. Ngược lại bồi bổ những liều thuốc, thức ăn bổ nhiều sẽ phát sinh tới bệnh tật. Bổ cứu là điều quan trọng trong ngũ hành tương sinh tương khắc. Tức giữ được đạo trung dung vậy. Việc được mặt này mất điểm khác là quy luật của thiên địa. Cách cục tượng cách lạc quan và hướng lên phía trước khi thời điểm hoàn cảnh khó khăn nhất là cách cục mang ý nghĩa cát hóa mạnh. Mệnh tạo này có sức đột phá mạnh, luôn tìm kiếm cơ hội, giữ tích cực trong thời gian dài là điểm ít cách cục nhân mệnh có thể hình thành. Các tổ hợp an theo Địa Chi. Với nhóm Đào Hồng Cô Quả và nhóm Tuế Hổ Phù Tang Hư Mã Phượng Khốc hình thành nên các cách cục mang ý nghĩa sai khác về tính cách khi nhập Mệnh. Đào Hồng có tính bất ngờ, Đào Sát chủ đoạt lấy, giữ của bản thân, Đào Hồng là nguyên nhân, Cô Quả là kết quả. Tuế Hổ Phù và Tang Hư Mã là hai mẫu người khác nhau, một chủ quan điểm, lập trường, lý tưởng rõ ràng. Một chủ tính xã giao uyên bác, mẫn tiệp, thích nghi, đa năng. Nhân mạng phân định như trên, phối hợp cách cục chính tinh và các nhóm sao khác hình thành nên hệ tư tưởng, mẫu người riêng trong xã hội. Cũng như xét định nhân tướng phân định diện tướng sai biệt có những tính cách riêng rẽ, hoặc như mệnh cách chịu ảnh hưởng của hành khí Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ trong ngũ hành phân định tính cách riêng.