Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Saturday, March 23, 2019

Nhất tướng công thành vạn cốt khô ( Phần 3 )

Một Cự Môn thành tựu khai quốc thì thời cơ là chính Cự Môn khởi binh do bất mãn, nắm lệnh hay không, được quần chúng hay không. Cũng như vạn Thất Sát theo binh nghiệp thời loạn chỉ một kẻ thành tựu công danh. Sức khác biệt là định Sát cách của cách cục là tính xuyên suốt khi luận trải qua hành vận của lá số ứng hợp, nếu sai một phần sẽ định cách sai toàn bố cục. Nếu chỉ nhìn Mệnh để luận lá số tử vi và hành vận tốt đẹp thành tựu ở cung vận đó là khiếm khuyết. Thứ nhất khi sai lầm ở xét định ý nghĩa thực của các tổ hợp chứa bố cục Sát. Thứ hai ở việc định cát hung ở cung vận Sát quan trọng ở tính phù hợp. Nếu trình bày đầy đủ các bố cục xét tới khi luận thường dài dòng nên người luận tử vi thường xét trên lá số giao hóa và lưu lại ý chính của giao hội cách cục khi luận. Tuy nhiên khi truyền phổ biến tử vi đôi khi gây khó khăn cho người nghiên cứu, dẫn tới đôi khi cái căn bản sai biệt như Thiên Khôi và Thiên Việt đều cùng mang ý nghĩa là được quý nhân trợ giúp. Thiên Khôi là to lớn, đỉnh điểm. Thiên Việt là khởi phát. Tính chất của Kình Khôi là bộc phát lớn, tính chất của Kình Việt là khai phá, khởi tạo mới. Tính chất tổ hợp giao hội sẽ khác hoàn toàn. Phức tạp hơn là luận các hành vận nối tiếp dòng tư tưởng xuyên suốt của mệnh cách qua từng giai đoạn. Mệnh cách định chế hóa Sát người viết phân định rõ tương đối đầy đủ các bố cục và tác động để có thể nhìn xét rõ các biến động khởi phát và lưu chuyển của hành vận. 





Mệnh cách và hành vận bổ trợ tới tư tưởng của mệnh tạo do Mệnh Cục đồng hành. Đại vận thứ nhất là đại vận khởi tạo tính cách. Phát khởi của hành vận là tất cả các cung độ trên lá số tử vi. Do đó xét hành khí của vận tiên phát là sức chế hóa của Sát cách. Xét Sát tinh có thể thấy ngay cung độ Phúc, Phối, Di, đặc biệt là cung Di hội đủ Không Kiếp, lại có phá cách Không Kiếp Tuế Tồn Khốc, cho dù có Song Lộc cũng hoạch phát hoạch phá thất thường. Đây là cung độ Sát trọng điểm với bố cục Cự Cơ Đồng ngộ Lộc Ấn Bệnh và Tuế Hổ Phù có Phượng Khốc gia Hỏa Kiếp Tam Không. Vận hạn đến đây ắt sẽ có những biến đổi lớn tác động đến Mệnh tạo, khí hình vượng, đến đây với cách VCD tức các sao lưu hóa tới hai lần, tác động mạnh tới bố cục, định khí hình, chủ động hay bị động sẽ ra các kết quả biến động rất lớn. Trên tổ hợp các bố cục Chính Tinh, các sao tăng mức độ có các cung Bào, Tật, Điền tụ hội các sao Kình Khoa Khôi Việt Hồng, các cung độ này hội đủ nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm hoàn chỉnh, không gặp phá cách, mức độ cát hóa lớn. Nếu định hướng theo Tài cách cũng sẽ đạt thành tựu, với cách VCD giúp định khí hình vượng ngay tại vận thứ hai với nhiều sao quan trọng, hành vận bình ổn, lưu vận tới tuy khó khăn nhưng không nguy hại.  Ở Đại vận đầu tiên là cách VCD nội Âm Dương Lương ngoại Cự Cơ. Cách cục Âm Dương Lương là cách cục ôn hòa, tình cảm nam nữ bình ổn, gia đình hòa thuận. Bộ Âm Dương Lương không bị phá cách tức bản thân ta là người may mắn, người hiền lành, trong bố cục xuất hiện Hóa Quyền theo Thiên can, sao Thái Dương hóa khí thành Quyền chủ uy tín, là mức thấp nhất của Dương Quyền, khi nhập vận đắc cách hóa thành quyền lực, cho tới quyền sinh sát, quyền hạn gắn với trách nhiệm trong bố cục. Tại cách cục Cự Nhật với cách cục đối củng khi nhìn tại Mệnh, có bất mãn, đa nghi của Cự Môn tác động. Đại vận thứ nhất chủ hình thành khởi nguyên bản cách là cách VCD ngộ Phi Hư Tả Quang giao hội Âm Dương Quyền Thai Tọa Long Khách Quả và Thiên Lương ngộ Mã Sinh Binh Tang Bật Cô Quý. Bố cục chung Mệnh cách là Đại vận đầu tiên VCD nội Âm Dương Lương ngoại Cự Cơ ngộ Phi Phục Thanh và Tang Hư Mã có Quyền Tả Hữu Thai Tọa Quang Quý nhập Sinh Vượng là cách cục hội các tổ hợp phù hợp. Nội cách là ứng với chữ quyền biến, nhạy bén trong nội tâm với Tang Hư Mã đắc cách và mưu trí với Thanh Phi Phục, Mệnh tạo ẩn chứa nghị lực và quyết tâm, phúc tốt, may mắn tuy thất thường, bộc phát, trong công việc có nhiều bôn ba. Mã Sinh giao hội là cách cục tốt, cát hóa tới Cự Cơ Đồng rất lớn khi bố cục Cự Cơ Đồng xung đột bởi Lộc Tồn tại cách cục, cũng là người tin tưởng vào tâm linh do sao Thiên Lương đắc cách, tuy nhiên bản chất chứa khuyết điểm về mặt công danh và tiền bạc do thiếu tính kiên quyết, phản kháng để thành công và cũng ưa thích sự an nhàn, hưởng thụ. Điểm xấu là sao Phi Liêm ở Mệnh thường chuyển biến xấu khi gặp hạn xấu hay điều kiện xấu.
Cách VCD thường luận là thất thường, thay đổi bản tính trong nội tâm qua các giai đoạn cuộc đời, tính dịch lý lớn, thường luận bản tính bất định. VCD luôn có xung Chính tinh, Chính tinh bên ngoài và tinh hệ bên ngoài đó chính là bản thân ta, do ta tiếp thu, học hỏi từ bên ngoài, tuy nhiên bản cung Mệnh cần xem xét có hợp với Di cung hay không. Mệnh cách VCD khi qua hành vận thứ nhất tiếp thu hoàn toàn ảnh hưởng tới tư tưởng, bản tính, nội là Âm Dương Lương ưa hiền hòa, ngoại Cự Cơ tạo xung đột ngay chính nội tâm, loay hoay khó quyết đoán và ứng với bố cục đa nghi do âm ám của Cự tác động. Cách Âm Dương Lương ở đây ngộ Thai Tọa tại Mộ cung là cách gần gũi người quyền quý, tăng tính ổn định, phúc ấm cho Mệnh tạo, có Tang Hư Mã mạnh trong quan hệ giao tiếp, xã hội nhưng không mấy hay cho tinh thần, tình cảm. Trong trường hợp này khuynh hướng từ nội cách Âm Dương Lương hướng tới quan hệ xã hội, công chúng dụng Quan cách do trong tổ chức, xuất hiện vị trí phát triển ứng công danh. Tuy nhiên Cách Âm Dương cư Mùi cũng bất lợi cho nam giới khi ngày đang tàn, tâm trạng thường không tốt, thiếu bền chí nhưng bố cục tốt đẹp thì lại hóa thành Quyền ngầm, có Tả Hữu tức tay chân thân cận, bộ Tả Hữu Thai Tọa giúp làm vững bản Mệnh. Cách Thái Âm ngộ Thanh Long  giúp tăng tính mưu trí, gia thêm Điếu Khách có thể theo nghiệp chính trị, công danh, chính trị thành tựu lớn vì Tang Hư Mã có ý nghĩa thâm trầm, vượt qua khó khăn trắc trở và dày dặn kinh nghiệm. Bộ Âm Dương Lương ưa gặp Tang Hư Mã do đều có tính giao tiếp, xã giao. Bố cục nhập Sinh Vượng nơi vòng Trường Sinh là người mạnh mẽ, có ý chí, sức khỏe tốt, cung an Thân nhập vòng Trường Sinh cát hóa Thiên Lương, chủ sự tăng cường năng lượng, có quyết tâm thoát khó khăn, có sự tự cường mạnh mẽ.  Gốc vận thứ nhất là then chốt trong chu trình hành vận của Thiên Bàn, tác động định hướng hoàn toàn tới các vận còn lại, như một mũi tên xuất phát từ điểm đầu. Đại vận này bên ngoài hội Cự Cơ ngộ Tuế Kiếp Khốc Song Lộc giao lai Tam Không có Hỏa tinh, bố cục ngoại cách Sát cách vượng, khuynh hướng đường lối rõ ràng, đi ngược truyền thống tức sao Tử Vi, lại là cách Cự phùng Tồn tú tức thị phi, chỉ lợi chuyên môn và nghiên cứu, mang tính bất mãn, mâu thuẫn. Cách cục này có khuyết điểm khi đứng đầu một tổ chức hay khai sáng, không thể ở thế cục ổn định của nội bộ do tính chất mâu thuẫn của cách cục. Cách cục được Tả Hữu trợ lực chiết giảm tính mâu thuẫn tuy nhiên không mấy tốt đẹp về Quan Cách nếu ở vị trí đứng đầu chịu trách nhiệm, ở vị trí tham vấn phù hợp. Thực tế với cách cục VCD nội Âm Dương Lương, ngoại Cự Cơ là cách cục Quan Cách, thường mệnh đứng đầu, tuy nhiên khi đứng đầu có tính chất đa nghi sẽ gặp bất lợi khiến xung đột bên trong. Nếu dụng Thiên Lương cư cung an Thân theo khuynh hướng Quan Cách cũng có thể phù hợp tuy nhiên lấy Văn Cách làm trợ dụng nếu không cũng khó thành nghiệp lớn, Thiên Lương chủ bụng để ngoài da, phơi bày bên ngoài. Tuy nhiên cần lưu ý tới tính Cự Cơ mang ý nghĩa suy tính, cũng chủ Sát cục với Cự Môn đứng đầu, chủ khuynh hướng, tư tưởng nguyên tắc được Thiên Khốc táo bạo, được ủng hộ, nhưng ở đây có Tam Không Hỏa Kiếp chủ tai họa, cũng chủ lo âu, do tính chất của Cự Môn. Cũng may Mệnh cung có cách Quyền Tả Hữu gặp Không Kiếp, tương hợp được với Di cung, tuy nhiên Cự Môn không thể chế hóa hoàn toàn Không Kiếp. Cự Cơ đó cũng là bản thân ta, có tài năng do bản cung VCD học hỏi tiếp thu tính cách từ bên ngoài. Một cách cục Cự Cơ gặp Song Lộc là tài năng, am hiểu cặn kẽ về lĩnh vực hướng tâm tới, do luôn bất mãn, nghi ngờ trước các kiến thức và thực tế tự tìm hiểu sâu thêm chuyên môn, gia Hỏa Kiếp Tam Không là cách cục chống đỡ, phản kháng lại khó khăn, cũng là cách gặp tai họa do bất mãn mà nổi nóng, có Thái Tuế gia Khốc thể hiện quan điểm ra bên ngoài, bộc lộ. Nếu Cự Cơ hướng tới nghiên cứu sâu sắc về chính trị, về sâu trong cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị là khuynh hướng phù hợp. Song Lộc tại đây định hướng theo Tài cách có phần ổn trọng về lâu dài hơn Quan Cách. Cự Cơ ngoại cách khuyết điểm do Tồn Tuế Hỏa Kiếp gia Tam Không và Cự Ấn, là cách từ bỏ, không còn tồn tại, đặc biệt khi nhập đại vận Sát Phá Tham tự tạo áp lực tới bản thân. Cách CỰ KHÔNG KIẾP chủ đột phá về ý tưởng, luôn chứa đựng sự bất mãn và bộc phát, hình ảnh này ở Di cung tức cũng là cái ta thấy, ta học được ở hoàn cảnh hồi thơ ấu. Đại vận này cũng bản tính là hình ảnh người hiền lành, có một phân may mắn, gần gũi nơi quyền quý, sao Thiên Lương an Thân hợp cách ngộ Mã Sinh chủ đại quý, vận hạn nào cũng không gặp tuyệt đường, có thể qua khỏi, cũng là cách mang nhiều bất mãn trong lòng, học hỏi chuyên môn tốt, trong nội tâm cũng một phần có tư tưởng an định, an hưởng cuộc sống dẫn tới Sát cục không có điểm dẫn hóa ứng hợp xung đột ngay trong chính bố cục.




Qua đại vận thứ nhất, các tổ hợp Sát đã hình thành khí hình gốc hoàn chỉnh. Vòng hành vận khởi phát biến chuyển. Khuynh hướng của mệnh tạo bắt đầu khởi phát tư tưởng, tham muốn định cách cho lá số. Đại vận thứ hai, bắt đầu từ 13-22 nhập cung độ Liêm Trinh trong thế cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm hoàn chỉnh, bản cung Liêm Trinh ngộ Khúc Việt Khoa hội Tử Tướng Kình và Vũ Phủ Khôi Đào Hồng. Bố cục này thuận cho Văn cách tại bản cung, Tài cách Tử Phủ Kình Dương tam hợp, có Vũ Hồng Đào đôi khi ham chơi do hai sao Đào Hồng trong tam hợp cùng với nhiều sao tăng mức độ ảnh hưởng đến bản cung Liêm Trinh, do đó đây cũng là cung lợi cho đường lối, đạo đức, kinh thương. Tính chất chính trị của Liêm Trinh mạnh do Liêm chủ quan sát cho nhóm Tử Vũ Liêm tức có tính dò xét, suy xét, là con mắt của nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm. Cung an Thân là Thiên Lương lưu vận tới Liêm Trinh xuất phát từ tham muốn sâu bên trong là gây dựng. Thiên Lương có tính chất ban phát, lấy cái tâm làm trọng. Sao Liêm Trinh độc tọa hội các sao tăng mức độ, tính chất hiển hiện rõ ràng không bị biến đổi, cũng không hóa Đào hoa cách, ở đây hành vận thứ hai sau dịch chuyển khởi tư tưởng của vận thứ nhất hợp cách cũng thích hợp với công việc Chính trị, là kẻ trọng nghĩa, cư xử đúng mực với mọi người, cung độ Liêm Trinh dễ định hướng theo con đường chính trị. Bố cục cung độ ổn định theo Văn cách, không bị phá cách, gốc gia đình ổn định, không biến động nhiều tại đây, định hướng ở đây có thể phụ mẫu định hướng cho công việc ổn định. Vận tại đâu khí hình theo đó. Tư tưởng là mặt bên trong tức thể nội của khí hình, thể hiện ở tham muốn, khuynh hướng và tư tưởng hiện hữu hiện tại, những tác động xoay quanh mệnh thể của xã hội tác động tới là thể ngoại của khí hình. Tất cả Sát cách đều thể hiện hai mặt, bất ngờ và bộc phát. Điều hậu bởi sức chuyên nhất của mệnh cách. Do đó thường tiền nhân luận kẻ có ý chí tiến thủ, tham vọng lớn tuy có thể thất bại, rơi vào thế bế tắc nếu không gặp thời vận, luận là bất đắc chí. Tuy nhiên đây là điểm đầu tiên khi định khí hình của mệnh tạo. Tham muốn đi liền với hiện thực bên ngoài. Đại vận thứ hai nhập cung độ Liêm Trinh trong thế cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm hoàn chỉnh. Không gặp phá cách do thế Việt Khúc Khoa. Khởi tạo chính Văn cách do Khoa Khúc dẫn hóa khiến mệnh cách hướng tới học vấn và tri kiến, Văn cách hình thành tác động mạnh tới tư tưởng và khí hình của mệnh tạo. Tử Phủ Vũ Tướng Liêm hoàn chỉnh không gặp phá cách, lại cách Tử Tướng có Kình tính khai phá mạnh. Đây là đại vận phù hợp, ngay hành vận thứ hai hóa cục Cự Cơ Tồn Kiếp Hỏa Khốc tránh thế tai kiếp do xung đột mâu thuẫn của cách cục, hướng tới tự mâu thuẫn về kiến thức, dẫn tới phát triển sâu trong lĩnh vực hướng tới. Tử Phủ Vũ Tướng Liêm hoàn chỉnh mang ý nghĩa cuộc sống khá ổn trọng, không gặp nhiều biến động mạnh. Nếu cách cục Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham luận khác. Trong thế cục tinh hệ Tử Tướng là tinh hệ mạnh, ổn trọng do nhóm sao Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cự Cơ Đồng và Âm Dương Lương tuy không quá cường vượng nhưng tránh được thế tuyệt khí như cách cục Tử Vi cư Ngọ. Nếu tại cách cục Tử Tướng có Không Kiếp thì tốt hơn tại mệnh cách, hoạch phát sẽ lớn hơn. Tuy nhiên cách cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm nhập vận như vậy đã là hợp hóa hữu tình. Thực tế trong cách cục tổ hợp Âm Dương Lương tại đây có thế Âm Dương bình hòa đồng độ nên tránh việc lấy sự cần cù, chăm chỉ với các vấn đề làm trọng. Hướng Cự Cơ ở sức khai phá những cái mới, cái đột phá tạo chuyển biến mạnh, nếu tinh hệ Tử Vi cư Ngọ với Âm Dương nhập miếu thì phù hợp với việc cẩn mỉ. Cách cục Cự Cơ xét mạnh ở tính khai phá, thay đổi dẫn hóa bằng ý chí chung, Cự Môn khai phá mạnh do thế Cơ Đồng tự vấn và trả lời, Cự tăng tính xung đột và sâu sắc. Âm Dương Lương lấy tình cảm làm trọng thì phù hợp. Liêm Trinh tại đây có một khuyết điểm là cách Liêm hội Đào Hồng không ở thế Cô Quả sẽ ảnh hưởng tới giai đoạn hành vận Tử Tướng ở tính chất tình cảm. Đây là điểm nên lưu ý. Đại vận này thực tế không có biến đông mạnh, Liêm Trinh chủ tìm hiểu, dò xét tăng tính chất hiểu biết, nắm bắt sâu trong các vấn đề tạo thành thói quen cho mệnh cách. Ở trong thiếu thời, hành vận Liêm Trinh chủ bản thân có một phần bị kiềm tỏa bởi định hướng gia đình, tuy nhiên đây là định hướng tốt, đại vận thứ hai nhập Văn Cách tức phát triển tốt học vấn, tránh được sai lầm ở thiếu thời. Tuy nhiên cách cục này cũng có tính khai phá thấp, mệnh cách VCD sẽ ảnh hưởng tới tính táo bạo của bản thân, khả năng quyết đoán, quyết liệt trong tư tưởng và cách hành động. Dẫn tới mệnh cách sẽ hoạch phát khi nhập vận chế hóa Sát cách, tuy nhiên tính chất bộc phát sẽ không tới đỉnh nối tiếp mà về thế ổn định sau hoạch phát. 




Đại vận thứ ba từ 23 tới 32 nhập cung độ VCD nội Tuần Không Bệnh Phượng giao lai Song Lộc Tuế Kiếp và Hổ Tướng Ấn có Hỏa hội Âm Dương ngộ Long Khách Quả Thai Tọa Quyền. Đại vận này cũng là cung VCD, là nơi học hỏi từ cung xung chiếu, tức Âm Dương này cũng là của ta. Cách Âm Dương cư Mộ cung có Thai Tọa là cách gần gũi người quyền quý, thị tụng ư cung cấm, có Tả Hữu Quyền là cách dụng được Sát tinh. Tại nơi lưu hóa hai lần cung độ Âm Dương cư Sửu và Cự Cơ cư Dậu, cũng là cung độ Tam Không, đây là cung độ trọng điểm tăng mạnh khí hình. Cách cục này ở đại vận được đánh giá đột phá trong tư tưởng của mệnh cách, khi khai phá do Tả Hữu Không Kiếp hình thành. Mệnh VCD cũng như đại vận VCD được Tam Không được Cát hóa, là nơi hoạch phát hoạch phá. Trong nội cách của Đại vận này hàm chứa sự mâu thuẫn, bất mãn trong nội bộ, đường lối rõ ràng, chuyên môn tốt, tại đây khí hình đã cực vượng. Bố cục có Tam Không gia Hỏa Kiếp Tồn Tuế là bố cục Sát mạnh, tai họa tại đây cũng không nhẹ, mang ý nghĩa luôn tồn tại tai kiếp, sức tác hoạ lớn thể hiện ra bên ngoài. May thay ở đây trợ cách mạnh chế hóa được Sát tinh. Nếu không gặp Tả Hữu tại đây khó có thể thành tựu. Cách Âm Dương Khách có Thanh Long là cách giao tiếp xã hội, xã giao, khách khứa, hợp với Chính trị, lại có Tả Hữu Quyền dụng được Tam Không trong nội cách. Hai cung xung chiếu lưu hóa hai lần, tăng mạnh tính xã hội, xã giao, nhấn mạnh ở đây cũng là ở bản Mệnh, mang phần hư không, mang tính cô độc, ít người hiểu, ít người cùng chí hướng với Cô Quả nhưng đã thân rồi sẽ tạo nên tình cảm đặc biệt, cách này bất lợi cho tình cảm. Trong Tử Vi quan trọng nhất là Tam Không, rồi đến vòng Trường Sinh, Không Kiếp và Hóa Kỵ. Vòng Trường Sinh giúp tăng cường khí hóa, cùng với trợ cách Tả Hữu Quyền chế ngự được bộ Tồn Không Kiếp, một sự bất mãn luôn tồn tại để thay đổi, phá bỏ tạo nên con người mới, cách cục mới. Khi nhập vận Tam Không hình thành hai khuynh hướng. Thứ nhất là tham muốn vô cực, cát hóa toàn bộ các cách cục, thứ tới là khuynh hướng tư tưởng vô định. Ở đây, Mệnh cách tốt, nội tâm vững, bản mệnh ổn định mà Sát tinh hóa thành Quyền, hướng tới tham muốn mạnh mẽ, đại vận này có những thành công không ngờ, tăng khí hình cực vượng. Cự Môn vốn cũng không ngại Không Kiếp thành cách cục bất mãn do chuyên môn tốt, không ngừng tăng cường chuyên môn, thấy được cái sai trong công việc, được sự ủng hộ của Phượng Khốc, đây là vận được cát hóa và khá thành công. Trong hành vận, mệnh cách VCD khi lưu tới vận Tuế Phượng hội Tam Không có Tả Hữu Thanh Long, Âm Dương Quyền Thanh ở thế cục ngoại cách rất tốt đẹp, đây chính là bố cục VCD đắc Tam Không hội Song Lộc phú quý khả kỳ. Tuy nhiên trong cách cục Cự Cơ có khuyết điểm ở tính chất bất lợi của Cự Tồn. Đại vận tăng vượng khả năng chế hóa Sát, đặc biệt Không Kiếp của mệnh cách. Đại vận này ứng hợp chữ bất ngờ, do Tam Không tạo thành. Trong tư tưởng sẽ sẽ có khuynh hướng một phần tới bất định. Do Tam Không tác hóa ở các lưu tiểu vận. Với vòng hành vận điểm nhấn ở tại cung độ khi trưởng thành cung an Thân bắt đầu tác hóa mạnh. Chữ Thiên Lương tại đây ứng hợp phát may, cách cục rất tốt, tuy nhiên là sự chế hóa lẫn nhau, do đó có tính thăng giáng mạnh. Cách cục hành vận này được hóa từ Văn cách đại vận Liêm Khúc Khoa, có khả năng quan sát, đánh giá tốt. Tuy nhiên đại vận này ắt có một chữ đánh mất, do tính không toàn vẹn của Tam Không. Có thể ứng với tình cảm gia đình khi Cự Cơ Đồng hội Hỏa Tồn là bất ổn. 




Đại vận thứ tư từ 33 - 42 nhập cung độ Thất Sát ngộ Tuần Đại Xương Kỵ Diêu hội Tham Linh Hình Đà và Phá Triệt. Đây là đại vận khá quan trọng của cách cục và tác hóa muộn sau khi Tam Ám kích phát thế nhầm lẫn của Thất Sát. Với Thất Sát cư Tí Ngọ ngay cả nếu mệnh nữ cũng có thể chế hóa được Diêu Hổ Kiếp tuy Bạch Hổ rất kỵ Thất Sát. Thất Sát tinh rất quan trọng vị trí cư trên tinh bàn. Bản cung cách Thất Sát nhập vận là được mất, đánh đổi. Đại vận này tham muốn rất mạnh với cách Tham Linh định hướng theo Quan cách sức tác động lớn tới tư tưởng. Tham vọng là ở tam hợp, bản cung Thất Sát là hành động, tham muốn lớn. Thất Sát tại đây hội Tam Ám tức đầy đủ Diêu Đà Kỵ. Tam Ám khi hội Sát Phá thành loạn động. Tại đây không có Quyền tinh tuy được Tham Linh hội với cách Tham Đà Linh có sức quyết tâm, tuy nhiên đây là cách cục thiên về nhầm lẫn, mất nhiều hơn được. Cách cục này dẫn động bởi Thất Sát tại bản cung, mệnh cách VCD với cục mệnh đồng hành sẽ chịu tác động về sau vận. Âm Dương Lương khi giao vận Tam Ám là thế cục không mấy hay. Tuy khí hình cường vượng tại đại vận về trước lưu tới đại vận tạo sức chế hóa với Diêu Đà Kỵ có Tham Linh dẫn cách cục. Tuy nhiên đây là cách cục hoạch phát hoạch phá. Tham muốn do bên ngoài tác động tới bản thân. Tham vọng bám nắm theo đuổi công danh là Tham Linh Đà, Linh Hình chủ làm việc lề lối, có phương pháp. THẤT SÁT có hai chiều hướng rất rõ rệt khi luận đoán. Thứ nhất là tính chủ động tức hóa Sát thành Quyền, thành tín nhiệm và thứ hai là Văn cách nghiên cứu. Tính chủ động của Thất Sát phụ thuộc rất lớn vào vị trí của Thất Sát. Bản cung Thất Sát là hành động, Đại vận này là quả của Đại vận trước tức nhân, do đó vận Thất Sát này hướng tới quan sát, định đoạt, suy xét khá thận trọng, tức chiều hướng thứ nhất. Tam Ám có tính chất Âm Quyền, trợ lực cho Thất Sát chủ sâu bên trong, khi hóa Văn Cách tức bố cục khám phá tri kiến rất tốt. Sát Diêu Đà Kỵ luôn có hai mặt chủ động và bị động do bố cục Sát mạnh tại đây. Ở đây ta có khả năng dụng tình cảm thành Âm Quyền, có khả năng điều hậu ở tình cảm phối hợp công việc hóa quyền biến, lợi cho tranh đoạt. Sát Phá có Tuần Triệt thì tinh tường, đề phòng tốt, có khả năng phòng trừ tốt các tai họa. Điểm xấu ở đây là cách Sát Kỵ Diêu với Xương Kỵ có điểm yếu có thể gặp vấn đề về giấy tờ, văn bản. Một chữ Văn Xương tiếp nối Văn cách cứu giải bố cục này. Hành vận lưu từ Liêm Trinh có Khoa Khúc ứng với theo dõi, nhìn nhận vấn đề, soi xét. Nếu không qua vận Liêm Khúc Khoa từ đại vận thứ hai định cách cục Văn cách, cung an Thân có Thiên Lương thì ắt hành vận này có việc tới pháp luật. Cách cục này có điểm chế hóa Sát phù hợp, tuy nhiên tác động của Sát Kỵ Hình Xương sẽ tăng mạnh về sau khi đã hoạch phát do Âm Dương Lương tại mệnh cách, chủ tác động tới tư tưởng, nội tâm sẽ bất ổn. Nội cách Âm Dương Lương có ngoại cách Cự Cơ Tồn Kiếp cũng kỵ gặp Kỵ Diêu mang tính ám nặng, nhiều khi khiến ta tối tăm mặt mũi. Ở đây đương số có khả năng suy nghĩ quá nhiều do tính lo âu, lo xa. Điểm mạnh là khí hình vượng lợi cho tranh đoạt, tạo áp lực cho kẻ khác mà cũng bị kẻ khác tạo áp lực cho bản thân Điểm nổi bật ở Đại vận này là khám phá sâu bên trong các vấn đề, cần chú trọng về lưu niên vận về sau và lưu ý lấy Văn Cách dẫn hóa Quan Cách nếu không ắt họa gặp không nhỏ, xuất phát từ nhầm lẫn, nghe theo, thiếu quan sát khi niên vận hội họp Sát Kỵ có thể ảnh hưởng tới pháp luật, xung chiếu là Vũ Phủ chủ Tài cách và tam hợp Tham Linh có thể dụng Tài Cách. Tuy nhiên lưu ý lấy Văn cách làm trọng đặc biệt trong lưu vận này do Sát Linh Xương Đà Kỵ là bố cục cung trọng điểm, khi tác họa có tính bất ngờ lớn. Bố cục hóa Sát thành Quyền một phần, ở thế cục cân bằng nhưng dễ đổ vỡ. Lưu ý khi Thất Sát có Linh Xương Đà Kỵ thành cách, dù vị trí cư Tí Ngọ nhưng Hình gia hội tại đây khi sai lầm nghe theo hoạch phá rất lớn. Một chữ Tuần tại bản cung chủ trúng họa, sau khi hoạch phát ở giai đoạn vận này cần hướng tới tinh tường. Năm Kỷ Hợi 2019 là năm khó thay đổi, lợi cho hướng tới nghiên cứu, kiến thức chuyên sâu, bất lợi khi khởi tạo, thay đổi. năm Nhâm Dần tức năm 2022 là năm then chốt chắc chắn sẽ có biến động mạnh trong năm này, cần lưu ý tránh tạo tác hành động trong năm này khi có Vũ Kỵ xung Kỵ nguyên thủy. Đại tiểu vận trùng phùng Sát Kỵ Hình Đà Xương, họa tới khi nghe theo, nhầm lẫn. 




Đại vận thứ năm tức từ 43 - 52 tuổi nhập cung độ Thiên Lương ngộ Binh Tang Bật Cô Mã Sinh tại cung Tài bạch tam hợp Mệnh cung. Sao Thiên Lương ở đây đắc cách, tăng ý nghĩa thọ ấm và sức khỏe, hình tượng là người từng trải, có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống, thâm trầm trong suy nghĩ, ứng với chuyên môn tốt, chắc chắn, tính tình cương nghị hơn, quyết đoán hơn do trải qua nhiều chuyện từ quá khứ. Cách cục Lương ngộ Trường Sinh là dấu hiệu tốt cho sức khỏe, tật ách. Thiên Lương nhập vận ắt ưa chữ công khai, phơi bày ra bên ngoài. Cách cục này không có dấu hiệu của bố cục phá cách, hội cách cục khá tốt đẹp. Bố cục Đại vận này cũng mang tính may mắn lớn, tuy nhiên gặp họa trước mới có cứu giải, sao Thiên Lương đắc cách tốt nhưng nhược điểm ưa hưởng thụ, gặp Tang Mã Sinh làm giảm tính hưởng thụ mà bôn ba hơn, bố cục này thuận cho Tài cách. Thực chất bố cục Mệnh cách phù hợp với Tài cách hơn Quan cách do bản chất cách Cự Tồn Không Kiếp luôn đem lại bất mãn, dễ vạ miệng. Đương số theo Quan cách là cách cục phát triển mạnh, tuy nhiên sẽ thăng trầm bất ổn, lấy phụ tá Tài cách về hậu vận khi gặp bất ổn có thể bổ cứu, bắt đầu xét sang Tài cách, cần lấy Quan cách bổ trợ cho Tài cách, bố cục vận này ổn định may mắn đánh giá tốt. Hành vận của Thiên Lương kỵ tới cung độ của Thất Sát. Nếu lưu tới niên vận năm Dần cần chú trọng do Âm Dương Lương ngộ Tam Ám là cảnh tối tăm, khó khăn. Các lưu vận khác đều luận tốt. Qua hành vận này không hoạch phát mạnh tuy nhiên tính phát triển ổn định tốt, có thể dụng các tiểu vận chứa bố cục kích phát như tiểu vận Tị, Thân tới năm Dậu có thể phát triển đột biến. Cách cục đại vận này không phức tạp, là bố cục tốt, tính ổn trọng lớn, hành vận này có thể tiến tới, theo cầu Tài Danh đều phù hợp. Tuy nhiên Lương cư Hợi phát sinh tính trễ nãi, không sâu sắc bên trong, cần khắc phục tính chất này bằng sức khai sáng, sáng tạo đổi mới trong công việc. 





Đại vận thứ sáu, tuổi từ 53-62 nhập cung độ Tử Tướng ngộ Kình, cách cục rất mạnh về Quan Cách. Cũng có thể dụng Tài Cách do Vũ Phủ không gặp phá cách. Bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm đầy đủ, đắc cách tượng là một hệ thống đầy đủ, mệnh VCD đến đây tức TỬ VI là người đứng đầu, tính cát hóa lớn, lại hội Khôi Việt Hồng Khoa không có Tuần Triệt, thành tựu lớn về Tài Quan cách. Đây là đại vận thành tựu nhất của nam mệnh, bố cục Tướng Kình sức tiến công lớn. Mệnh cách VCD ở thế Tử Phá Cự xung chiếu, nhị hợp và lục hợp hành vận lưu tới cung độ một trong ba Chính Tinh ắt phát sinh tính khởi tạo, có khả năng lãnh đạo, đứng đầu một tổ chức, khai sáng một lý tưởng, đại diện. Bố cục Tử Tướng nhập La Võng, ở đây là Địa Võng tốt hơn Thiên La, thiếu Thanh Long tuy nhiên được Kình Dương tại đây là tốt. Đại vận này lưu tới tiểu vận Không Kiếp ắt hoạch phát mà không hoạch phá. Đại vận này nội cách có hàm chứa Đào Hoa cách có thể gây thị phi, do Đào Xương Tướng Mộc gây ra, lại ở cung độ Vũ Khúc chủ giải trí cần sự cẩn trọng trong tính chất này. Lưu đại vận ứng hợp Quan Cách khí số cường vượng, cách cục phân hóa tốt đẹp không thiên lệch, trừ bố cục Thất Sát hội Kỵ Hình Diêu Đà là cách cục phá bại, có tồn tại tai họa tại đây, nếu Quan Cách không dừng tại đại vận Thất Sát ắt phát triển lớn. Đây là lá số quý, Sát tinh trên toàn cục bị chế ngự, bản thân tư chất tốt, hành vận đi qua hợp lý, được đủ Phúc, Lộc, Thọ.

Wednesday, March 6, 2019

Nhất tướng công thành vạn cốt khô ( Phần 2 )





Trong luận của Tử vi đông a lấy cái thực lý làm trọng để xét được biến hóa ý nghĩa từng tổ hợp và nguồn gốc phát khởi của cát hung. Nếu chỉ luận thuyết không có sở dụng thì chỉ là hư hoa. Người nghiên cứu tử vi khi định cách cục Sát cách tự xét tới để nhìn nhận về bố cục này do tính chất biến hóa phức tạp của Sát hung hoặc kích phát cần xét sâu từ nguồn gốc tính chất từng tổ hợp. Nếu chỉ dụng phú luận tử vi như việc chỉ rõ được bề ngoài, bỏ qua vận hành bên trong. Trong các bố cục giao hội sai biệt sẽ sai lầm. Vạn bệnh khổ từ bất ngờ. Sát Tinh tất cả đều ở thế bất ngờ, có tính chất bất ngờ bộc phát. Từ Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ, Thiên Hình. Tính chất bất ngờ, hay luận là sự thăng trầm bộc phát. Trái với ổn định, bệnh tật không thể tự phát sinh, có nguyên do, khởi phát, giai đoạn suy và tử tuyệt. Khí hóa của Sát khiến mọi mệnh cách ở vị trí chủ động về bị động, tật ách chính giai đoạn khởi sinh và phát khởi cường vượng là gốc của họa. Trong các tổ hợp chế hóa Sát, là đề phòng, phòng bị, chế ngự, hòa hợp, trấn định. Phân định Sát cách thành hai thế âm thầm khởi phát và khởi phát. Cuộc đời cũng vậy, là những thăng trầm. Và những thăng trầm khởi phát khi ứng hợp với công việc, ứng hợp với tài sản, ứng hợp với bệnh tật, ứng hợp với họa ách,... Chế hóa Sát cách cần phân biệt từng định cách của Sát cục. Chế hóa Hỏa Kỵ Kiếp là thế cực dương, áp định là sự tàn nhẫn trong nội tâm, phàm nhân mệnh cách cục này không tự hóa ương ngạnh, tàn nhẫn thì ứng bản thân chịu tai kiếp. Như trong chiến trận, không phân định thiện ác, hai bên giao tranh mỗi bên đều có lý do chính nghĩa, nguyên cớ là khởi binh đều được gọi là chính. Sát cách cũng không phân định thiện ác, đạo đức là do tự điều chỉnh qua mối quan hệ xã hội cho phù hợp. Như tướng Giáp có quan điểm. "Người phương Đông chúng tôi khác người phương Tây các ông. Chúng tôi đặt sự tồn vong của cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân. Mỗi phút có hàng trăm, hàng ngàn người chết trên trái đất này. Sự sống hoặc cái chết của hàng trăm, hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn con người, đối với đồng bào của chúng tôi, cũng là không đáng kể (đối với sự nghiệp giành độc lập dân tộc)". Các quan điểm dẫn tới tự điều chỉnh về định giữa tư tưởng. Trong chiến loạn ắt có suy diệt. 





Sát cách cũng vậy, là sự tự tác họa tại mỗi mệnh tạo, từ khởi trong nội thân thể tới ứng hợp ngoại tâm dẫn dắt từ dòng khí. Trong nội thân tức là thể ứng hợp ngoài thực. Một kẻ ở nơi có việc nhiễm xạ hoặc chất độc hóa học như việc Mỹ thả hàng loạt xuống Việt Nam ngoại tâm bình ổn nhưng nội thân đã rơi ở thế tử tuyệt. Ngoài tư tưởng tức Mệnh còn Thân Thể tác động tới cuộc sống, sinh diệt. Lấy Sát cách là thế cục dồn ép, đột biến. Thường lấy thí dụ từ việc Hoa Kỳ thả bom xuống Nhật Bản khiến một giây phút vạn vật đều diệt. Hoặc các thảm họa khiến một xã hội đương thời đều diệt vong như chiến tranh, dịch bệnh. Lại một số người gặp các bệnh di truyền từ phụ mẫu gây bệnh tật nan y nặng nề dù mệnh độ số tốt. Việc dịch hạch tại Châu Âu khiến hơn 30% dân số tại đây tử mạng. Trong tất cả cách cục tử vi không trường hợp khi người luận thường xét cách cục tốt xấu, thọ yểu, dù mệnh khí tuyệt lớn cũng không tới tỉ lệ trên 30% lá số xấu dẫn đến tử mạng vì tật bệnh như trên. Dẫn tới phương thuốc chế ngự thứ nhất của Sát cách là phòng bị, phòng trừ, phòng tránh chữ bất ngờ. Hiện tại không còn nhiều người tuyệt mạng do bệnh dịch hạch do đã phòng trừ được nguồn gốc nguyên căn, phòng trừ lây nhiễm, biến thế bất ngờ do không hiểu rõ, không khám phá ra, thế âm ám thành việc nhìn rõ tìm ra phương pháp phòng bị. Xuất hiện khởi phát thứ hai là bệnh ung thư. Thân thể là vật thực của tạo hóa, có thể tự điều chỉnh tuy nhiên ở một mức độ hạn định. Sự tác hóa xảy ra trong toàn bộ xã hội dẫn tới phát sinh sự điều chỉnh trong mối quan hệ xã hội. Một kẻ chịu tác động của tinh đẩu, vận động của hành khí tới nỗi người suốt cuộc đời mệnh tạo, tất cả còn lại cũng đều chịu tác động như trên, dẫn tới sự thống nhất trong quần thể, cái gọi là duyên số là sự tác động đồng hợp giữa các số mệnh mà thực chất là do khí hóa của tinh đẩu thiên văn tác động. Cũng như sức tác hóa của duy trì giống nòi, hay việc mỗi nhân mệnh đều phát sinh tình cảm nam nữ giai đoạn trưởng thành, các nhu cầu khởi phát về địa vị, tiền bạc trong quần thể là cái quy luật bất biến chi phối để có thể đưa ra dự đoán do không nằm ngoài. 





Tuy nhiên sự tác động giữ vị trí địa lý, môi trường khởi phát riêng từng quần thể nhỏ có sai biệt. Như trong một quần thể có chiến loạn giao tranh tại một số quốc gia, tượng quần thể hợp nhất dẫn tới khí Sát tăng mạnh do có xung đột, tiêu diệt lẫn nhau. Hoặc quốc gia tức một thực thể hình thành với quốc gia nhỏ dẫn tới việc người Nhật có đặc quyền ở các quốc gia bị xâm chiếm, quốc gia nô lệ, và đế quốc. Diệt chủng của Đức Quốc Xã tới người Do Thái. Khoảng gần một nửa người Do Thái bị sát hại. Do phát sinh từ khởi một tổ chức độc lập, nắm quyền trong một quốc gia, bản thân tác động của tư tưởng yếu nhân tới quyết định ảnh hưởng cuộc sống của nội người dân trong quốc gia đó. Trong một giai đoạn về bệnh tật do chất độc hóa học tại Việt Nam do quân đội Mỹ lưu thả dẫn tới tai kiếp nặng nề về sau. Chế độ quân chủ đã khiến sai biệt một phần của huyền học về dự toán mệnh lý. Phàm là mệnh tạo tọa sinh bình ổn đều có thể tạo hoạch phát lớn nếu dụng hóa. Tuy nhiên đa phần những tác động bên ngoài do ảnh hưởng từ Mệnh cách và vận tác hóa như thể bị động khiến cuộc đời đa phần theo khuynh hướng mệnh lý, hay bản tính. Cuộc đời mỗi mệnh cách là sự quy luật tác hóa của tinh đẩu tới mệnh khí. Như việc khi Hỏa khí đột nhiên phát khởi cường vượng của khí hình địa lý thì dẫn tới chiến loạn. Sự nổi tranh đoạt là thế cục của rất cả các nhóm Chính Tinh trong tử vi. Trong quốc gia tức một tổ chức xã hội có thể phân nội loạn hay ngoại xâm do Cự Môn khởi tức nổi lên kẻ tạo phản. Có thể do Phá Quân tức kẻ ưa khám phá tranh đoạt. Vạn vật Tuyệt do thế ổn định trở nên loạn động, do ngoại xâm hoặc nội loạn. Bệnh tật cũng vậy, ngoại xâm hoặc nội loạn không sai khác. Như một chiếc đồng hồ cơ chạy. Hư hỏng tức tuyệt khi bên ngoài tác động, hoặc bên trong tự biến đổi loạn động. Khi luận tử vi thế tránh vận xấu tức " Xu cát tị hung" là một thế cục của phòng bị, phòng trừ. Như kẻ gặp cách cục Cự Diêu Kỵ Tồn Tang ắt có họa về khẩu ngôn, có kẻ thủy tai, có kẻ lại gặp thời phát phú do phạm pháp, có kẻ thành tựu lớn khi gặp cách cục này tùy vào ứng hợp bên ngoài đời thực. Cách cục này chứa bố cục Binh Hình Tướng Ấn với Lộc Mã giao trì có Cự Binh có kẻ chính là tướng lĩnh trong chiến loạn. 




Sự tác hóa của bố cục là do khí hình định cách. Khi nghiệm lý cách cục và định cách của tiền nhân. Bố cục trên. Nếu mệnh cách có xuất thân gia đình luật sư, ắt theo nghiệp luật sư, tức dụng Quan Cách. Nếu mệnh cách xuất thân gia đình là binh nghiệp, thường theo nghiệp binh quyền, tức dụng Võ Cách. Các khuynh hướng khi xét định tại các thời điểm giao vận chính là khi hình để xét định tính chính xác của toán mệnh. Có kẻ mệnh cách vậy nghiên cứu huyền học mệnh lý. Trong các trường hợp hành dụng tổ hợp chính tinh khác nhau, biến hóa khác nhau, định cách khác nhau. Sự sai biệt của sự việc. " Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột". Các cách cục đều lấy từ gốc trụ. Khả năng chế hóa Sát cũng sai biệt ở các mệnh cách. Tử vi đông a chính luận có phần xét về định cách cục Sát. " Kẻ nào nắm được lệnh của Sát cách tức nắm thời vận, là thượng cách bất luận định độ số". Do nắm được quy luật của vạn vật, quy luật nguyên thủy tương tự như tính âm dương nên thành tựu. Là thể bình đầng của nhân mệnh trong giai đoạn phong kiến có thể dẫn tới nghịch với đạo trung chính thường không lưu truyền theo kinh sách tử vi đẩu số ra bên ngoài. Thứ tới, thế Tuyệt khí bế tắc là khởi sinh của bạo phát cách là cách vật cùng tắc biến. Trong chiến loạn là nơi Sát cách tác hóa cường vượng, thế cục Sát hiển hiện sẽ rõ ràng khi khảo cứu. Nếu nội binh loạn tức thể cách bị phá ắt từ nơi Tử địa thành Tuyệt địa. Nếu ngoại công, nội bất loạn chưa phân định vội sinh diệt. Thời vận khởi sinh từ tử địa. Thế vận động liên tục trong giai đoạn này có lợi tiền nhân luận " Tuyệt địa phùng sinh". Hay thường luận " Dịch mã lưu tuyệt, tuyệt xứ phùng sinh". Trong các cách cục Sát thường gặp bị động khi tác hóa tại giai đoạn này và thường dẫn tới Tuyệt khí do nội loạn, thế bị động. Ở mệnh cách đắc chế hóa Sát, tính phòng bị ở vị trí Suy trước Tuyệt, do vậy thường nhập Tử địa bất nhập Tuyệt địa, tốt là dụng thời cơ từ giai đoạn Suy. Vạn vật đều trong chu trình tất cả đều phải trải qua vòng Trường Sinh, sự bắt buộc thay đổi khi lâm Tử Tuyệt ngay cả ở quốc gia, một tổ chức, một doanh nghiệp lớn, một đời người. Từ vật nhỏ, việc nhỏ tới vật lớn như quốc gia, tinh đẩu, vũ trụ. Chính là quy luật bất sai biệt. 




Tại đây cũng thành thế cục hữu tình của vạn vật. Tức kẻ thua thiệt nhất cũng có thể trở nên đại thành tựu do đột phá, thay thế kẻ suy diệt. Mã Khốc Khách hay do Thiên Khốc hóa được khó khăn của Tang Môn và hoạt hóa Thiên Mã tăng sức thay đổi. Hỏa Tham tốt do Hỏa Tinh giữ tham muốn của Tham Lang bất tuyệt, vững bất loạn, thoái lui. Trong thế phòng bị chủ động tức có tính chất phòng chống Sát cách tác hóa, có khuynh hướng dụng thời cơ. Khởi tạo thời cơ là khởi vòng Trường Sinh. Như một ván cờ tướng, có thêm nước đi sẽ phát sinh thêm cơ hội hay thời cơ. Bên ngoài hành động là vậy. Trong nội tư tưởng cũng bất sai khác, khởi sinh niệm là khởi được thời cơ. Tài cách kinh thương hay Quan cách đều dụng tới sức linh hoạt của tư tưởng. Tuy nhiên dễ hóa thành phù động, dẫn hóa bởi tư tường hay lý tưởng thấu suốt, xuyên suốt thì cách cục tránh loạn động nội tâm. Có một làng ở Thái Bình phát sinh rất nhiều mệnh tạo Tài cách, thường gọi là làng Mẹo. Trong địa phương lượng người tự lực giàu có rất nhiều. Có những khả năng truyền lại từ nhiều thế hệ, có thể do thời vận của vận làng. Cũng nếu sinh trưởng ở vị trí thành phố lớn phần đông nhân mệnh sẽ có khả năng tiếp thu tri kiến phát triển hơn các khu vực biên giới. Trừ các cách cục Sát được động hóa, tức tham vọng khai phá lớn khiến mệnh cách không bằng lòng với thực tại, luôn có khuynh hướng phát khởi cái mới. Chỉ một tham muốn vật dục thúc đẩy có thể khiến Hỏa Tham thành cách cục lớn mạnh về Tài cách. Chỉ hai sao Vũ Tham khiến cách cục hóa Tài cách. Một Không Kiếp đắc cách luôn có mất mát, đánh đổi để đạt được bạo phát cách. Nếu không có đánh đổi ắt không phải nhập cách cục Không Kiếp. Thiên Mã khi hợp cách Lộc Mã giao trì là cách cục tốt đẹp về Tài cách. Tuy nhiên tại đây luôn tồn tại Tang Môn tam hợp, tức thế khó khăn để Thiên Mã vượt qua bởi nghị lực, luôn tồn tại Thiên Hư tức cái linh hoạt trong biến hóa tìm hướng đi, luôn tồn tại Điếu Khách tức tính xã giao trong cộng đồng. 





Trong mỗi cách cục thành tựu luôn ẩn tàng thế cục chế ngự lẫn nhau của tinh đầu mang ý nghĩa hữu tình. Mã Khốc Khách hay do Thiên Khốc trong bộ Phượng Khốc tức được kẻ khác ngưỡng mộ về khả năng vượt qua khó khăn của bản thân. Binh Hình Tướng Ấn tốt do cách cục Hình Ấn chính là Quyền, tín ấn có giá trị đảm nhiệm trọng trách, trong các vị trí quan trọng luôn cần chữ ký, đóng dấu chính là Hình Ấn. Cách Cự Tồn và Phá Tồn hay Tồn Kiếp thường bị đánh giá sai nhiều đặc biệt là cách Đào Hồng Không Kiếp luận yểu cách. Với cách cục của Không Kiếp rất cẩn trọng khi luận, tất cả bố cục Không Kiếp đều thăng trầm biến loạn mạnh, tuy nhiên cần xét bên mất và bên được. Cách cục Không Kiếp nhập mệnh cũng không phải cách cục yểu tử. Mặt khác, Không Kiếp có tính chất khai sáng đứng đầu vượt các tổ hợp Chính Tinh. Tuy nhiên Không Kiếp là thế thiên khô, mang tính chất thăng giáng như Kình Đà tuy nhiên ở cường độ lớn hơn. Do Thiên Không là bất ngờ, Địa Kiếp là bộc phát. Không Kiếp thường tác động khởi phát ở bất kể cách cục, không tự ở thế cùng tắc biến như tổ hợp Sát cách, do đó tính chất tác động của Không Kiếp luận phức tạp. Nếu coi khí hóa của Sát là tai họa, tai kiếp là đúng thì cũng chấp nhận việc bộc phát của cách cục Sát dẫn tới khuynh hướng thành tựu rất lớn tới mệnh tạo. 





Phần dưới đây người viết luận về một đồng đạo thân thiết, tuy trẻ tuổi nỗ lực là một tổng giám đốc tập đoàn lớn, có lý tưởng lớn, ý chí cầu tiến, tuy bố cục thăng trầm cuộc đời sẽ khó ổn định, thế cục Cự Đồng hội Tam Không cách cục Cơ Không Kiếp Việt Tả Mã Sinh tại Tị cung. Như nghiệm lý về rất nhiều lá số mệnh cách Cự Môn đã từng luận phân định chế hóa Sát tổ hợp rất khác nhau, tính chất biến hóa khi giao hội cũng sai khác. Thường khi luận tử vi người nghiên cứu gặp cách VCD có Cự Cơ xung, Cự Cơ Tí Ngọ, Cự Cơ Mão Dậu, Cự Nhật Dần Thân được đánh giá cách cục tốt . Tuy nhiên Cự Đồng khi chế hóa bởi Không Kiếp cũng chính là cách cục tốt đẹp, khi nhiều cách cục tốt đẹp man thư luận khi nhìn vào Sát cách luận bố cục yểu tử. Tổ hợp Cự Cơ Đồng hội Tam Không Tả Hữu Kình Quyền Tang Sinh Vượng. Qua mỗi lần bế tắc,  Cự Môn bởi nhạy bén sẽ rút được nhiều kinh nghiệm để khai tạo và tính thực sâu sắc trong các mối quan hệ xã hội. Như một ván cờ, thời cơ luôn xuất hiện qua mỗi nước, nếu không còn thế cục là thế bí. Miễn là còn nước thì cơ hội vẫn phát sinh. Thế bí ở cuộc đời không phải là bế tắc trong công việc, trong tình cảm, chỉ đơn giản là bệnh tật nan y, tai nạn tuyệt mạng. Còn lại nếu vẫn còn sinh mệnh thì nước cờ vẫn tiếp tục khởi tạo, khó khăn bế tắc sinh tiếp tục cơ hội. Một lần hoạch phát có thể khiến kẻ khốn cùng mạt kiếp trở nên đại thành tựu, đứng đầu xã hội. Không chỉ danh nhân lịch sử, ngoài đồ thực xã hội nhân mệnh thay đổi tầng lớp hoạch phát rất nhiều. Tuy nhiên cái để xét thành bại chính là lý tưởng, nếu nhân mệnh không còn lý tưởng thì nước cờ không bước đi tiếp, tuy không tàn cuộc mà như tàn. Nếu tạp loạn thì thua, thế chủ động trước Sát vẫn vững thì ắt thành. Cái cần thiết là khả năng khai phá tâm của mỗi nhân mệnh luôn phát triển theo thời gian. Trong giai đoạn hiện nay ở ngay chính trong nội cách tiểu vận trùng phùng Cự Đồng Tang Kình Quyền Vượng hội Mã Sinh Không Kiếp. Can Kỷ hóa Vũ Khúc thành Lộc. Xung đột khi mệnh vận lưu tới Cự Cơ Đồng qua đó kích phát bố cục Không Kiếp Kình Mã. Cách cục Tam Không đã hình thành, thế cục rất rõ nét về việc biến động mạnh có thể thay đổi về nội cách cục. Tuy nhiên nên lưu ý việc Liêm Phủ lưu vận tới Tam Không chủ không bảo trợ, soi xét, điều tra gây nên loạn trong nội bộ. Thực tế cách cục sứ mạng của cháu là khởi tạo, khai tạo, không mang tính thừa tự. Tuy nhiên Cự Đồng có một khuyết điểm tối kỵ mắc phải, đó là việc phân tán. Trợ giúp của cháu tới từ Tả Hữu Không Kiếp, tức từ những kẻ cùng chung lợi ích, có thể chế hóa được Không Kiếp hay thực tế ở đây là Tam Không là do tự thân. Lưu vận tới tiểu vận tại đây chính là khí hội của Sát cách. Nơi có thể hoạch phát rất lớn, hoặc hoạch phá. Không Kiếp tại đây ở thế Trường Sinh, có Tả Hữu Sinh Vượng không phải thế tuyệt. Mạnh dạn khởi tạo theo tham muốn của bản thân. Còn cả một đại vận sau lại hội Không Kiếp, nếu tiểu vận năm nay chỉ tác hóa mức yếu không chế ngự nổi huống gì tới vận sau đại tiểu vận trùng phùng Tam Không. Trong tiểu vận năm này, đừng lê bước theo khuynh hướng hay cách làm của người khác nếu trong kinh thương nhà đất, lấy cái khai sáng mới làm đầu, Tam Không là cách cục đứng đầu tử vi, tuy nhiên để được tư tưởng chuyên nhất hướng tới một vấn đề là cần thiết. Cự Kình là khai mở, chắc chắn năm này không nhập Tuyệt lộ, cứ theo đuổi lý tưởng của bản thân, đừng tính toán quá kỹ lượng, kỳ vọng do năm nay sẽ còn nhiều bất ngờ. Cách cục sẽ tự hóa. Tam Không được hóa bởi khai phá dẫn bằng lý tưởng, thời cơ sẽ tự phát sinh. Qua lần bất ngờ thứ nhất sẽ thay đổi cách nhìn của cháu toàn diện, như bước tiến về tâm thức và tình cảm đúng như cách Tam Không luôn tác hóa. Cự Môn có thể dụng Tam Không nhưng Thiên Đồng không thể.

Friday, March 1, 2019

Lá số Cự Cơ xung của một mệnh cách tốt.





Cách cục VCD nội Âm Dương Lương, ngoại Cự Cơ xung thường được luận thượng cách khi đắc cách. Thực tế bố cục do khắc chế khuyết điểm của Cự Cơ so với mệnh Cự Cơ Mão Dậu tuy tài năng nhưng có phần xét lợi ích và thế xung đột của Cự Cơ Đồng gây khó khăn trong bố cục. Với nội cách Âm Dương Lương tăng tính chất chính nghĩa, chủ ổn định không xung đột mạnh trong nội cách, ngoại Cự Cơ xung là mặt bên ngoài, tức khả năng hiểu biết sâu, tài năng của mệnh tạo. Nghiệm lý với các cách mệnh VCD nội Âm Dương Lương, ngoại Cự Cơ nếu phá cách cũng là cách cục chủ có độ số cao. Khi đắc cách là cách cục thường đứng đầu một tổ chức. Khi xét bố cục mệnh cách của một vụ phó thành tựu khá sớm bởi tài năng. Nam mệnh ngũ hành Mộc. Cục thuộc Mộc cục tức tương trợ. Hành vận phối hợp Mệnh cách theo khuynh hướng bố trợ. Cách cục mệnh thuộc VCD nội Âm Dương Lương ngoại Cự Cơ với mệnh cung an tại Mão. Đây là cách cục được đánh giá tốt do hội giữa khả năng chuyên môn của bản thân và khả năng xã giao, bày tỏ mối quan hệ xã hội ra bên ngoài tốt. Mệnh cách VCD nội Âm Dương Lương ngoại Cự Cơ nếu đắc cách ắt là mệnh đứng đầu một tổ chức, do khắc phục được tính chất tự lực không ưa quan hệ xã hội của Cự Cơ mà thành. Thế cục Âm Dương Lương nội và Cự Cơ ngoại là thế cục bổ trợ khuyết thiếu. Cách cục này có khả năng dung hòa giữa hai cách cục, tuy mang thị phi và ắt có bất lợi về mặt tình cảm gia đình nhưng định Tài Danh luận tốt. Mệnh cách VCD cư Mão bản cung có Hư Phá Phi Tả hội Âm Dương Quyền Thanh Thai Tọa và Lương Mã Sinh Bật. Mệnh cách đắc vòng Trường Sinh ở nội cách lại hội Mã hội Thanh Phi Phục trong cách cục Âm Dương Lương chủ khả năng tạo mối quan hệ, được trợ giúp do có Phụ Bật hội Tang Mã, có khả năng linh hoạt là Mã Sinh Vượng đắc cách. Mệnh cách có Hư Phi tại cách cục Âm Dương hỉ được Thanh Long có Thiên Hư là những vấn đề giao tiếp xã giao. Thiên Hư nhập mệnh trong cung độ VCD mang tính hư vọng, trái với Thái Tuế ưa việc bày tỏ quan điểm lập trường của bản thân. Tang Hư Mã về thể cách linh hoạt, có thể tùy biến. Mã Sinh là cách cục cường vượng, tính động thay đổi tuy nhiên Mã nhập Hợi cung có phần không mấy hay, được Mã Thai Tọa tăng tốt đẹp tuy nhiên cũng không thích hợp thay đổi nhiều dẫn tới phù động. Thiên Hư tại Mệnh có dụng và bất dụng, tốt do Thiên Hư hợp với Âm Dương Lương tại việc xã giao, có thể dụng trong giao tiếp. Tuy nhiên Thiên Hư có khuyết điểm ở tính chất bất thực, ở vị trí Tang Môn hay Thiên Mã phù hợp với Âm Dương hơn Thiên Hư. Thiên Hư trong bố cục Phi Liêm ngộ Thiên Hư có ảnh hưởng một phần tới Tài cách. 





Mệnh cách thuộc cục Cự Cơ xung là mệnh tạo có tính chất phù hợp với việc quảng giao, tạo mối quan hệ, có thể đứng đầu xã hội hoặc một tổ chức bên trong hoặc bên ngoài nhà nước. Tuy nhiên nên lưu ý trong cách cục này có hàm chứa bố cục đa nghi, nghi kỵ của Cự Cơ đối cung. Mặt tốt là khả năng nhìn nhận về sâu bên trong các mối quan hệ, cũng là cách tránh tự gặp tai họa do tin tưởng của bản thân. Khi thái quá hay trong bố cục tác hóa của Sát cách chủ ở thái cực khuynh hướng bất mãn, tạo mâu thuẫn trong nội bộ khi Cự Môn đinh chủ thị phi, cách cục này có đặc điểm quan trọng là tư tưởng có tính biến động, lấy thay đổi để thành tựu, không phải bố cục ổn định như cách Tử Phủ Vũ Tướng Liêm hoàn chỉnh khi Tử Vi nhập mệnh. Ba sao Tử Vi, Phá Quân, Cự Môn có khuynh hướng lãnh đạo khác nhau. Với Cự Môn là khả năng nhìn nhận sâu về sự việc, khuynh hướng ngôn luận. Dẫn tới mệnh cách Cự Môn thường hướng tới luật sư hoặc chính trị theo khuynh hướng bày tỏ quan điểm chính trị bằng khả năng thuyết phục. Phá Quân chủ tranh đoạt, Phá Quân phá bỏ tạo đột phá, hàm chứa Sát cách cường vượng là cách cục bạo lực rất khó đắc cách, thường ở trường hợp trong xã hội xung đột, mâu thuẫn hay chiến loạn. Tử Vi chủ đứng đầu do ưa gánh vác trách nhiệm, chủ ưa ẩn, ổn trọng, suy tính sâu xa. Cự Môn chủ lộ, tính âm ám, quyền biến thuộc âm quyền không lớn, chủ mạnh do khả năng tạo lý tưởng dẫn dắt quần chúng do quan điểm phù hợp. Bố cục VCD nội Âm Dương Lương, ngoại Cự Cơ thuộc thế cục này. Mệnh cách VCD man thư thường luận là cách cục xấu, mang ý nghĩa thăng trầm biến loạn, thực tế do không rõ lý giao hội hợp hoá của các cách cục. VCD tại đây chịu tác động bổ trợ của hành vận khá lớn. Cung an Thân nhập Hợi cung phối hợp luận cách cục Lương ngộ Trường Sinh có Bật Mã Tang Binh. Trong nội tâm nam mệnh thường khi chịu ảnh hưởng của suy nghĩ, tức bản thân làm chủ tư tưởng hướng tới tự kiểm điểm bản thân, đánh giá bản thân sau mỗi hành động tác động tới đạo đức, lương tính. 




Thiên Lương ngộ Trường Sinh là thể khí có sức cát hóa rất mạnh. Nhập bất cứ cung độ không phá cách đều hóa sinh khí, tức gặp họa và cứu giải lớn. Khi nhập Phúc cung hóa " Lương ngộ Trường Sinh cư phúc địa thân thượng hữu kỳ tài" tức trong dòng họ có nhiều người hiển hách. Nhập Tài cung là cách phát tài, gặp may mắn về tiền bạc. Cung an Thân cư tại đây rất quan trọng, chủ về thân thể hay thân phận được sự may mắn, còn mang hàm ý thọ, tránh được tai kiếp thương tích, trừ việc nhập vận Tuyệt khí. Thiên Lương có Phụ Bật càng tăng mạnh tính chất này. Trong giai đoạn chiến tranh trước đây, với cách cục Thiên Lương cư Ngọ hội Khoa là cách cục mệnh tạo thoát được nhiều tai kiếp binh đao, thứ tới là bố cục Đồng Lương đắc cách. " Lương xung tọa thủ kiêm thọ toán". Tuy nhiên Thiên Lương cư Hợi ắt có họa mới được phúc, không ổn định như bố cục Cơ Nguyệt Đồng Lương. Thiên Lương cư tại đây luôn có thế khó khăn trước khi được cứu giải. Đây là mệnh cách may mắn về quan hệ xã hội, tức Âm Dương Lương cách. Có năng lực lãnh đạo, khả năng dẫn chứng lý lẽ, tọa lợi ích cho người khác do tính chất cơ biến của sao Thiên Cơ. Tuy nhiên bản cung Cự Cơ Lưỡng Lộc có Tuế Kiếp Khốc bản cung hội Thiên Không thành cách cục Lộc Đảo Tuế Đào kỵ hội Không Kiếp ám cục. Chủ việc tai họa tới bất ngờ có tính tai kiếp do Lộc Tồn hội Không Kiếp. Cự Môn có thể chế hóa Không Kiếp trong trường hợp không có Lộc Tồn. Tại đây Lộc Tồn đứng đồng độ ngay tại bản cung là cách cục cần lưu ý. Thái Tuế là quan điểm, tại đây quan điểm của Cự Môn ắt tạo thị phi, cũng ồn ào từ bên ngoài mang lại ảnh hưởng tới tư tưởng của mệnh cách. Thiên Lương tại cung an Thân có thể hóa nguy thành an tuy nhiên nhiều giai đoạn chịu tổn thất. Thiên Lương cư cung an Thân nếu có khuynh hướng tôn giáo, lấy tư cách làm trọng là phù hợp cách cục. Mệnh Thân gặp Thiên Lương không phá cách thường được đánh giá cao do tính chất có phần nông nổi, không thâm sâu khó đoán như Thiên Đồng. Thiên Đồng tượng là đứa trẻ, bụng dạ. Thiên Lương tượng là người già, đỉnh đầu. Do tư tưởng thông suốt khi hướng tới phẩm chất, cái tâm của bản thân dẫn tới Sát cách có thể chế dụng, tuy nhiên tối kỵ Không Kiếp. 




Tại đây tuy có Tồn Kiếp xung khi nhìn tại Mệnh không quá xấu do chịu ảnh hưởng từ bên ngoài cách Cự Cơ thị phi. Thiên Mã nhập Trường Sinh tọa thủ tại bản cung Tài Bạch khi phát ắt sức cường vượng chủ được lâu dài. Thiên Mã tại Hợi cung là thế bí, khi tích lũy tài sản ắt gặp nhiều lần phải sử dụng tới hao hụt nếu không họa tác động ắt tới các mặt khác như bệnh tật. Phối hợp Mệnh cách xét định khả năng tạo ra tài sản của mệnh tạo. Với cách cục này tiền bạc cần nên lưu chuyển thì có lợi hơn do Lưỡng Lộc xung gặp Cự Tồn ở thế rất bất lợi khi tiền bạc giữ trong kho, tức gửi tiết kiệm. Nên sử dụng cách kinh thương chỉ giữ một phần nhỏ ổn định. Lưỡng Lộc cách là bố cục mạnh nhất về Tài trong tử vi, khi hội Hỏa Tham thì phát đứng đầu thiên hạ, khi ngộ Cự Cơ hóa thành phù động, đặc biệt là trong thế đồng độ có khuyết điểm lớn khi gặp Tồn Kiếp. Xét toàn cục không hình thành bố cục treo trọng điểm Sát cách, trừ cung độ của tổ hợp Cự Cơ Đồng có phần bất lợi với Tài cách khi là cách cục bế tắc vì tiền, gặp họa về tài sản, tuy có hoạch phát bất ngờ nhưng cũng gắn với nguy hiểm khi Tồn Kiếp cùng cư Dậu cung. Cự Cơ Đồng là thế bế tắc phá vỡ thế cục mạnh của Song Lộc đồng cung. Khi định Tài cách lấy Tài cung làm gốc do củng chiếu cách Lộc Mã giao trì. Cách cục Lộc Mã khi Thiên Mã cư Tài hội Thiên Di chiếu về là cách cục Lộc trùng điệp, Mã dịch lộc thì hoạch phát. Tài cách có khuyếm khuyết của Cự Tồn dụng cách hóa tư tưởng thành việc luôn bất mãn về tình trạng tiền bạc, tham muốn tích lũy ngày càng lớn so với kẻ khác bên ngoài là phù hợp. Cự Tồn sinh ra khuynh hướng đố kỵ, bất mãn ưa vượt lên về Tài cách tức Mã luôn ở thế động sẽ kích phát cách Lộc Mã bội Ấn. Địa Kiếp tại bản cung tăng thêm tính Sát hóa, biến tham vọng theo khuynh hướng cực đoan, với bố cục bình thường ắt xấu, tuy nhiên ở đây là cách Cự Cơ Lưỡng Lộc có Kiếp Tuế tham vọng lớn, tuy nhiên hành động lại cần chờ thời, do Cự Tồn trong cách Cự Đồng Cơ phá thế bất mãn cần Thiên Mã tức dụng từ Tài cách. 




Thiên Lương nhập Tài cung lại ưa bộc trực, bộc phát sẽ gặp tai họa khi kinh thương, đầu tư. Lưu ý một việc, khi cơ hội phát sinh, thường là cơ hội dẫn tới kết quả sau cùng là phá tán. Do thế cục của thiên bàn ứng hợp. Thiên Lương cứu giải do may mắn tuy nhiên sẽ mất đi các giai đoạn tích lũy do phải phá vỡ thế bế tắc. Tài cách không nên làm cách cục chính, chỉ phù hợp dẫn hóa cho Quan Cách. Tức Quan Cách làm gốc, Tài cách làm dụng. Quan Cách định hình do toàn tổ hợp Âm Dương Lương và Cư Cơ xung. Tại đây cần tinh đẩu đóng góp công trạng và tài năng của bản thân, thứ tới là khả năng lãnh đạo. Với cách cục Cự Cơ đứng đầu do khả năng khai sáng theo một khuynh hướng dị biệt của sao này. Có thể định hình tướng của Cự Môn sức cát hóa do tính hiệu triệu bằng khẩu ngữ. Tử Vi tính chất chủ ngầm, ở trong tổ chức xây dựng bằng tình cảm, lý tưởng xây dựng của bản thân. Phá Quân lấy thế chính nghĩa, khai phá xung đột bên ngoài. Cự Môn tượng có thể hình dung như trong tư tưởng hành động của tổng thống Mỹ hiện tại. Tuy nhiên tại đây Cự Môn ở vị trí đối cung tức chịu ảnh hưởng tác động tới bên ngoài, được đánh giá tốt hơn tại bản cung do không nhiều thị phi như cách cục Cự tại bản cung Mệnh, với tính bất mãn bộc trực cũng không lớn như tại Mệnh. Cự Môn bên ngoài tức lấy ngôn ngữ làm trọng, để định Quan cách. Một lãnh đạo ở Đảng đối lập nổi lên gần do phản đối, nhìn nhận lại so với Đảng chính để lôi kéo quần chúng là cách cục của Cự Môn. Cự Môn là cách nhìn trái nghịch, sâu bên trong tuy nhiên để tìm khuyết thiếu, phần sai sót khác với Tử Vi hướng tới lý tưởng khai sáng ban đầu, gánh vác trách nhiệm. Phá Quân khi xung đột lấy chính nghĩa để khởi binh. Cách cục nội Âm Dương Lương là cách cục tình cảm, giảm tính xung đột của Cự Môn bên ngoài. Quan cách hình tượng của cách cục như trên là định cách sơ khởi. Cách cục do Cự Cơ Tuế Khốc Tồn Lộc ngay bản cung có khuynh hướng ứng với chữ bất đồng quan điểm rất rõ. Khi Cự Cơ Đồng ở thế Tồn Tuế Kiếp Hỏa tức xung đột tới từ bên ngoài. 






Cách cục Quan Cách tại đây không thâm sâu, tuy có thể lấy Thiên Lương làm gốc tức chính nghĩa để xét khuynh hướng đứng đầu do bản thân của tổ chức hướng tới. Tuy nhiên Quan cách tại đây ở tính chất tham mưu hơn việc gánh vác trách nhiệm ắt sẽ có thị phi tác động trong hành vận. Cách cục này có thể hoạch phát đứng đầu tổ chức lớn do Tài cách trợ dụng, tuy nhiên cũng sẽ hoạch phá do thị phi. Nếu đứng đầu ở tổ chức kinh thương có phần phù hợp hơn. Trong nội bộ của tổ chức mệnh tạo gánh vác ắt luôn gặp trường hợp xung đột, mâu thuẫn về lợi ích, hướng tới cái chung phục vụ ứng Đồng Tang là cần thiết. Cách cục Cự Cơ hội Kình Song Hao là thay đổi phá bỏ cái tồn tại bất mãn, Cự Cơ hội Tồn Kiếp là việc luôn tồn tại bế tắc. Thành hay bại cũng do  biến hóa của cách cục Cự Cơ tác động. Cách cục này lưu ý không phải bố cục hướng tới Văn cách chuyên môn sâu về một lĩnh vực, là cách cục chủ tổng thể. Âm Dương Quyền Thanh là tiếng nói, có ý nghĩa như việc uy tín, được sự tín nhiệm của kẻ khác. Thanh Long tại đây hội Thiên Mã là hai nhóm sao phù hợp nhất với Âm Dương Lương. Tuy thiếu Xương Khúc được Thai Tọa hội họp, đồng độ tại Mùi cung thành cách Mã ngộ Tam Thai anh hùng do Bát Tọa ưa ngẩng cao đầu, có khả năng linh hoạt theo thời cuộc. Hiềm nỗi Sát Phá Tham phá cách nếu không ắt có địa vị đứng đầu xã hội sớm. Cách cục này phù hợp về tham vấn, nếu khởi tư tưởng đứng đầu tới vận Tử Tướng sẽ gặp thời vận. Thiên Lương cư tại Hợi có chữ Ấm thiếu Phúc, tức được ngắn không được dài. Thiên Đồng là hưởng phúc lâu bền, Thiên Lương có giá trị cứu giải khi nguy khốn. Âm Dương Lương tại đây hóa cách cục hành sự có phần chưa thực cẩn trọng, cũng là cách phấn đấu thất thường, tùy sở định của Cự Môn tác động. May mắn là điểm mạnh của cách Âm Dương Lương do trợ lực rất mạnh. Bản thân nếu không tự dụng Cự Cơ ắt được một giai đoạn cũng phải hoạch phá.