Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Tuesday, October 12, 2021

Chọn lựa và các kết quả

 Mỗi một lựa chọn, đưa ra quyết định trước một vấn để có thể khiến nhân mệnh thành tựu lớn hoặc đưa đến những bế tắc xuất hiện. Có những lựa chọn được khởi phát bởi bản tính và một số do sự huân đúc những tri kiến, tích lũy những thất bại. Trên tử vi xuất hiện các tổ hợp xuất phát từ bản tính. Người ưa việc mạo hiểm, kẻ muốn sự an toàn. Điểm quan trọng là nhận định của nhân mệnh về bản chất của sự việc có thấu. Có một số nhân mệnh có chia sẻ với người viết về tiền của tích lũy mua nhà đất tuy nhiên không cẩn trọng dẫn tới bất cẩn khi lựa chọn một mảnh đất như một đương số vướng mắc khi mua đất tại Alibaba. Một số nhân mệnh khi đưa tài sản tích góp và có thể vay nợ thêm để cho vay với lãi suất cao và không thể thu lại nguồn vốn là tài sản tích lũy trong thời gian rất dài. Có những lựa chọn có thể khiến nhân mệnh trở nên giàu có, những lựa chọn dẫn tới suy tán. Một số đầu tư theo việc cầu may tới cờ bạc. Trên tử vi, có một số cách cục chủ tham muốn phấn phát là Tham Hỏa và Đào Hoa Kiếp Sát. Điểm quan trọng là các cách cục này khi thành cách có thể khiến nhân mệnh thăng phát rất lớn. Tượng cách của Đào Sát là tham muốn từ Đào Hoa, chủ động nắm lấy và thực hiện hành động Kiếp Sát. Sao Kiếp Sát thường ít luận định trong tử vi. Kiếp Sát có đặc tính chủ tranh đoạt, khởi từ niềm tin của Đào Hoa tới những điều tươi sáng kế tiếp. Đào Sát là một trong các cách cục cơ bản khi xét nhóm sao an theo Địa Chi. Khi xét bốn cách cục cơ bản Tuế Hổ Phù, Tang Hư Mã Khách, Đào Kiếp Sát và Hồng Hỉ. Thường phú luận "Mệnh trung Hồng ngộ Kiếp Không mạc đàm phú quý". Với cách Hồng Kiếp có giá trị tác họa lớn hơn bố cục Đào Sát. Do thực tế Hồng Loan thường tại vị thế bị động khi hội Kiếp Không. Do Thiên Hỉ luôn bên ngoài kích phát khiến Hồng Loan ở thế bị động trước niềm vui Thiên Hỉ tại đối cung. Niềm vui đắc tài lộc, tình duyên, do vậy thường luận "Niềm vui ngắn chẳng tày gang". Bên trong còn mối họa Không Kiếp thường trực không được chế hóa. Cách cục Đào Sát chứa Sát tính, trong trường hợp đơn thủ không hội Hồng Loan, khi hội cách Đào Sát Kiếp Không, tính hung có thể bị Kiếp Sát hóa. Phát ngoài thực tế là những kẻ chiếm đoạt, như việc lừa đảo về đất đai thu lợi cho người bất chính. Nhóm sao Đào Hồng Hỉ được gọi là Tam Minh, do những niềm tin về điều tốt đẹp tới mệnh cách. 



Trong thời điểm khó khăn, bế tắc lớn, nhân mệnh xuất hiện niềm tin là động lực để có thể vượt qua. Chờ đợi thời cơ khác tính chất của trễ nải. Quan trọng là trong nội tâm phân biệt hai tính chất này rất khó khăn. Dẫn tới việc có người chờ thời vận tới tuy nhiên thời gian luôn dịch chuyển theo chiều hướng tới, không xuất hiện quyết định trong thời gian dài, lưỡng lự trong những lựa chọn được gọi là do dự. Thời cơ tức Thiên Cơ có thể tới do sự khai phá triệt để của Phá Quân, phá cũ làm mới, đôi khi việc cũ tốt đẹp, Phá Quân vẫn phá bỏ để tiến lên. 




Thiên địa tuần hoàn, vận bĩ tới thái, nhật nguyệt hối lại minh trong các thời kỳ là thuận lý tự nhiên. Đời người cũng vậy, khi thuận nước xuôi dòng, nghịch nước gặp cản cần quyết tâm vượt qua. Ý nghĩa của cách Đào Hồng Hỉ mang lại sự lạc quan tới nhân mệnh. Điểm cách của Đào Hồng Hỉ đắc cách thường được luận tối hỉ với Thái Dương, do Thái Dương là ngày mới, gặp Tam Minh là cách cục hay, nếu đủ cách Âm Dương không gặp Sát Kỵ là ngày tháng hưởng thụ vui vẻ. Việc niềm vui có thể xuất phát từ nhiều nguyên do, tai hại là niềm vui giải trí do những thứ gây nghiện, niềm vui sắc dục quá đà. Xét về tham muốn, cách cục mang lại vui vẻ của đời người khi đạt được danh vọng, tiền bạc, hoặc lý tưởng được thực hiện. Có những niềm vui do giúp đỡ người yếu thế, có niềm vui do tự chủ chính cuộc đời bản thân, niềm vui được tự do. Cũng vậy, Đào Sát và Hồng Hỉ phát triển tham muốn. Hồng Hỉ còn tượng là sắc diện, người có ngoại hình tốt cũng là niềm vui, cũng như gặp người bần cùng sa lỡ, hay hình thương bệnh tật phát sinh tâm thương xót. Trong cuộc chiến trường kỳ, nếu có niềm tin thắng lợi sẽ tạo động lực mạnh để hành động, như năng lượng để khởi phát những ý tưởng, giải pháp vượt qua tình thế. Thực tế bốn nhóm sao Tuế Hổ Phù, Tang Hư Mã Khách, Đào Sát và Hồng Hỉ là bốn nhóm sao đại diện đặc trưng về tính cách của nhân mệnh. Trên tử vi cũng gặp cách Tam Ám, tức Diêu Đà Kỵ. Hội vận Âm Dương gặp Diêu Đà Kỵ, hay cách Cự Môn hội Tam Ám hành vận trải qua ắt như mây dông kéo đến, mệnh cách vững có thể hóa làm trợ dụng với khả năng cơ biến. Cũng do Tam Ám hay Diêu Đà Kỵ thực tế còn tồn tại cách Kỵ Hình chủ dễ sai phạm, vượt quá những quy định. Trong các nhóm sao chính an theo Địa Chi, bố cục Tang Hư Mã Khách thường gặp đánh giá khó khăn hơn. Tang Môn, Thiên Hư là sự hư hao, còn chủ tang tóc, biến đoạn. Lý âm có dương, dương chứa âm, trong thế bĩ là nơi rèn dũi khả năng cơ biến tại Thiên Mã nghị lực. Tuế Hổ Phù là lý tưởng, quan điểm của bản thân, được đắc chữ chính khi có chữ Thái tại Tuế, có Bạch Hổ ứng chữ liêm chính, gặp Long Trì, gặp Hoa Cái, một số địa chi năm gặp thêm Phượng Các là bộ tứ linh Cái Hổ Phượng Long. Thiên Địa tuần hoàn bất phân chính, bất chính. Cũng vậy không phân xét người tụ tài, tán tài, do sở tác của lòng nhân phân định. Cũng vậy, sinh thời người thể trạng tốt, kẻ sức yếu, người bệnh tật nan y, kẻ vô lo vô bệnh. 




Người tư chất thông minh, người trí kém. Lá số tử vi phân định vậy, chỉ xét nguyên cục gặp cách Tang Hư Mã là khởi phát khó khăn so với cách Tuế Hổ Phù. Địa lý cũng vậy, nơi gặp hiểm nguy cận kề, nơi có những cơ hội phát triển tốt hơn tới nhân mệnh. Sự lựa chọn trong cuộc đời mỗi nhân mệnh có tính cá nhân, kết quả trực tiếp tới cuộc đời của nhân mệnh. Việc từ bỏ những hướng đi sai lầm là khó khăn, cần tới quyết chí đoạn tuyệt, phân định sai lầm và tri kiến của nhân mệnh. Chỉ yếu tố lựa chọn, cơ bản, là quá trình tư duy, tri kiến của mệnh số. Phàm như vật được thuần hóa như giống chó mèo nuôi nhốt, khó có thể có sự nhạy bén như loài hoang dã, nơi tồn tại giữa các nguy hiểm, sinh mạng. Tuy nhiên, nếu được huấn luyện có thể trở nên sắc bén, khả năng kích phát năng lực lớn, như huấn luyện nghiệp vụ. Cũng vậy, mỗi thế mạnh không hẳn đặt ở vị trí nguy khốn có thể tạo thành tựu đột biến, có những sự tích lũy an toàn nhờ vào năng lực nội tại. Điều quan trọng như nội tại được phát triển theo đúng khuynh hướng. Nhân mệnh khi khởi phát tính cách, có người tính cách ưa cương trấn, có người nhu nhược, có người gan góc. Có cách cục gặp nguy khốn rèn luyện được bản lĩnh, năng lực phát sinh mạnh. Có cách cục cần sự khích lệ, hướng dẫn đúng phương hướng nếu không sẽ dẫn tới suy bại, thất bại cuộc đời. Như một nữ mệnh có người con sa vào nghiện chất ma túy, muốn thoát ra tuy nhiên rất khó khăn. Nếu sa vào tham cầu về tài danh, theo con đường kinh thương nhân mệnh có thể đã được sự ngưỡng mộ. Điều quan trọng đặt sự tham muốn ở vị trí nào. Vấn đề nghiện về chất kích thích, hay ma túy ắt liên quan tới điều cấm, vượt quá hành vi cho phép, là trái pháp luật. Trên tử vi hình thành các nhóm sao mô tả bố cục này. Thế Ám hình thành, cũng là chất kích thích tuy nhiên thuốc lá được xã hội chấp thuận, bản chất của ma túy sẽ khởi phát khí Ám, tức phát sinh từ bóng tối, tượng cách âm. Cũng như bố cục Kỵ Hình, là nòng cốt của Nhị Ám. Kỵ Hình tam hợp có thêm Thiên Diêu, tức tượng cách Thiên Hình là pháp, luật, Kỵ Diêu là điều ám, chủ trong tối, việc ám muội, không công khai. Có thể Kỵ Diêu tác hóa hóa thành tính dục, tuy nhiên cũng có thể hóa thành việc mờ ám. Liên quan tới bộ Kỵ Hình là một cách cục lớn trong tử vi. Địa Kiếp khởi bởi cuồng. Kỵ Hình khởi từ phạm. 




Thiên Cơ hội Kỵ Hình tức Cơ Diêu có thể là hay, do chính yếu ý nghĩa là sự tiếp xúc âm ám với cơ thể. Cách Cơ Kỵ Hình và Đồng Kỵ Hình được đánh giá tốt hơn bố cục Sát Phá Kỵ Hình. Hoặc thí như cách Vũ Kỵ Hình là khả năng lách trước luật khi hội Song Lộc là bố cục có tính hoạch phát mạnh, Vũ Khúc là tài tinh, có năng lực linh hoạt, tuy nhiên khi hội vận Sát Kỵ cũng sẽ mang tính hình pháp dễ bị tai họa. Tính chất của Kỵ Hình trên lá số tử vi động tương ứng bên ngoài thực tế xã hội. Khi phát sinh những điều cấm mới bởi luật pháp, Kỵ Hình cũng biến dịch thay đổi tính chất. Cách cục là nguyên gốc, phản ánh ra bên ngoài và tác động nghịch lại với bố cục. Với một quốc gia được xét việc mại dâm là hợp pháp, tức bố cục Kỵ Hình biến chuyển khiến một số cách cục trở thành không vi phạm. Một số quốc gia, việc phụ nữ gặp những bất lợi trước quyền cơ bản, được coi phạm pháp luật ở một số quốc gia. Việc luật định thay đổi cũng hóa cách Kỵ Hình thay đổi. Tác động của lá số tử vi mỗi nhân mệnh là hoàn cảnh và nội tư tưởng của mệnh cách. Mối liên kết giữa lá số tử vi với vận làng, vận nước xuất phát từ hóa khí bên ngoài. Không có thế vững bền trường tồn, ngay cả sự ổn định của một quốc gia thịnh vượng, vạn vật đều tuần hoàn biến dịch, đời người cũng vậy, lấy chấp để cầu thành tựu, chấp niệm quy căn nguyên về tham muốn khởi như Tham Lang, hay sâu hơn là sao Tử Vi, khi hóa thành hành khí, ắt có biến dịch, thăng trầm, điều thay đổi là cần thiết để tiến lên phía trước.

Saturday, October 9, 2021

Phá Quân đắc lệnh uy trấn biên ải

 Khi luận định về nhân mệnh Phá Quân độc tọa hay các cách cục Thất Sát, Vũ Sát, Vũ Phá, Tử Phá, Tử Sát của mệnh nữ định cách cục thường gặp lá số của nhân mệnh có thành tựu lớn trong sự nghiệp. Khởi sinh của nữ là âm. Thế Sát Phá khi thành cách kích phát. Trong kinh thương và chính trị, nữ mệnh thành tựu lớn trong sự nghiệp thường thuộc cách nữ cường. Khởi phát tính chất chế hóa của mệnh nữ phức tạp hơn nam mệnh tương đối nhiều. Thường gặp các cách cục nghiên cứu khoa học với tổ hợp Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham đắc cách và khuynh hướng chính trị với hai tinh đẩu Phá Quân và Thất Sát đắc cách. Luận định trong bài xét về cách cục tạo bởi Sát Phá Tham cách. Tại Phần Lan xuất hiện nữ thủ tướng khi chỉ 34 tuổi. Khi xét về diện tướng, nhân mệnh nữ cường đảm nhiệm vị trí tương ứng xét tới điểm quan trọng là khí Sát đắc dụng. Giải quyết công việc cần sự quyết đoán và khởi tạo những quyết định, chính sách phù hợp. Một lá số Phá Quân từng giữ vị trí trọng yếu trong chính trường. Trong các tinh hệ trên lá số tử vi, tinh hệ Tử Tướng cư Thìn Tuất là vị trí thường đắc cách với các lá số nhân mệnh hơn các tổ hợp còn lại. Xét nghiệm lý về mệnh cách thành tựu xuất hiện tinh hệ Tử Tướng cư Thìn Tuất nhiều hơn các tổ hợp khác, khi chưa xét tới các tổ hợp bàng tinh và hóa khí giao hội. Với tinh hệ Tử Tướng, thế cân bằng tại 12 cung độ xuất hiện rất rõ. Bố cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm và Sát Phá Tham đều đắc cách. Đặc biệt 4 tổ hợp Tử Tướng cư Thìn Tuất, Vũ Phủ đồng độ, Thất Sát Tí Ngọ và Cự Cơ Mão Dậu là bốn tổ hợp định cách cho toàn bộ tinh hệ này. Với tinh hệ Tử Vi độc tọa cư Tí Ngọ, bố cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm đắc khí hóa điểm cao nhất, tức Sát Phá Tham ở vị trí lạc hãm, thế Âm Dương rất mạnh khi Tử Vi cư Ngọ. Tuy nhiên nếu trong tổ hợp Tử Phủ Vũ Tướng Liêm phá cách, ắt nhân mệnh tuy lý tưởng cao viễn vẫn có khuyết điểm. Đặc biệt khi tinh hệ Tử Vi cư Tí không mạnh như Tử Vi cư Ngọ. Điểm còn lại của tinh hệ Tử Vi cư Ngọ được đánh giá hay nhất, khi hai tổ hợp Tử Phủ Vũ Tướng Liêm và Âm Dương Lương thành cách, hoặc một trong hai tổ hợp đắc cách khi xét các cách cục Chính Tinh. Thứ tới, tinh hệ Tử Phủ cư Thân được đánh giá hay hơn tại Dần do Âm Dương nhập miếu, nhóm Sát Phá Tham đắc lệnh tuy nhiên nhóm Cự Cơ Đồng có khuyết điểm. Khi xét bố cục Chính Tinh không đóng vai trò tất yếu để định cách, xét điểm quan trọng là bàng tinh và hóa khí, trợ tinh giao hội. 





Trong các tinh hệ khi Sát Kỵ xâm phạm, bố cục Tử Tướng cư Thìn Tuất có thể thành tựu ứng hợp tốt hơn các tinh hệ khác. Tinh hệ Tử Vi cư Ngọ mệnh cách nếu đắc lệnh thường vị trí khởi sinh tương đối lớn, tức xuất thân từ vị trí xã hội cao do thế đứng của Âm Dương đều nhập miếu, tượng cách Nhật Xuất Phù Tang và Nguyệt Lãng Thiên Môn.   Cách cục Tử Tướng cư Thìn Tuất đặc trưng bởi Cự Cơ và đối cung, Vũ Phủ và đối cung tức Thất Sát đều rất mạnh. Tử Tướng và Phá Quân xung chiếu, tính chất lưỡng Sát cường vượng. Nhìn chung hạn hành Cự Cơ đắc cách hội trợ tinh Xương Khúc Tả Hữu Khôi Việt và hóa khí Khoa Quyền Lộc, nhóm sao an theo Thiên Can là Kình Hao hoặc Thanh Phi Phục, nhóm sao an theo Địa Chi là Tuế Hổ Phù đắc Phượng Khốc là cách cục cao viễn, mệnh cách nhập tại bất kể cung độ, khi hạn hành đại vận qua cung độ này đều hoạch phát, do đắc thời cơ lớn từ Cự Cơ. Xét Lục Sát Kỵ Hình còn lại phân bố phù hợp, nếu Không Kiếp tại Dần Thân phù hợp hơn tại Tị Hợi. Do cách Tham Lang xung chiếu Liêm Trinh hỉ được Không Kiếp tại đây. Với cách cục nữ mệnh trên, Phá Quân độc tọa cư Tuất ngộ Lộc hội Kiếp Kỵ Thanh Hà, thuộc cách cục Long Kỵ Hà là bố cục phù hợp Phá Quân, Kiếp Kỵ ngộ Tham là đặt kế hoạch lớn cho cuộc đời. Hạn hành Cự Cơ Khôi Quyền Tuế Mã Khốc Khách hội Xương Khúc Long Phượng Phụ Bật và Song Hao cư Mão Dậu. Thực chất là cách cục thường phú luận " Cự Cơ chính hướng, hạnh ngộ Song Hao, uy quyền quán thế ". Đây là chính cách của bố cục này, ắt có sự thay đổi lớn hoạch phát lớn về công danh. Điểm quan trọng của luận tử vi là đắc hợp và bất hợp. Khi xét định lá số, bất kể nhân mệnh xuất thân ở hoàn cảnh hay tại thời điểm khó khăn, nếu hình thành tổ hợp cung trọng điểm mạnh, nhập vận xuất tướng nhập tướng, bạo phát lớn. Cũng như việc người gặp thời, gặp may mắn bên ngoài rất nhiều. Với mệnh cách Phá Quân, không gặp Lộc Tồn là điểm mạnh của bố cục. Ngày nay, người nghiên cứu tử vi, mệnh lý cũng nhiều, phần kinh sách hiển thị trên mạng toàn cầu cũng xuất hiện nhiều. Tuy nhiên về giá trị sâu học thuật cần người nghiên cứu tự bản thân nghiệm chứng với các cách cục tổ hợp lý tính. Thí như khi xét cách cục mệnh tạo trên với bố cục Kiếp Kỵ, sẽ thường trang mạng luận giải là cách cục hung, do Địa Kiếp là tối hung thần, đóng đâu tại đó mười phần hiểm nguy. Khi ngộ Hóa Kỵ càng tăng tính hung. Tuy nhiên độc giả cần lưu ý và nguồn gốc và sức dụng của hóa khí và sát tinh này. 




Địa Kiếp khi giao hội với các chính tinh tinh dị biệt sai khác rất mạnh. Phá Quân chế ngự Kiếp Kỵ, tượng cách có thể luận như Sát Phá có tính dương mạnh, tính phản kháng tương đối lớn, trái với Cơ Nguyệt Đồng Lương hiền hòa. Sát Phá Tham có tính động, tính hung, và bất nhẫn lớn. Thí như dụng 12 con vật biểu thị Địa Chi. Vật định ngoài tự nhiên, động vật ăn thịt và có độc chiếm ưu thế. Sự phát triển của Sát và Kỵ tức Ám hợp hóa thành cách là tượng của vật này. Rắn độc khó có vật khác xâm phạm, hổ dữ đứng đầu trong rừng. Điểm cốt yếu có người bị họa nạn lớn do Kỵ Kiếp, có người đắc cách lớn do cách cục này. Điểm hóa của bố cục khi phát khí hình ra ngoài là diện tướng, hay nhân tướng có thể khiến người nghiên cứu dễ phân biệt do xuất khí thành sắc tướng. Khi xét định diện tướng, hoặc hành vi của nhân mệnh có thể định được phần về vị trí xã hội. Thí như một số diện tướng chủ yểu họa, hay sát khí của nhân mệnh hình tù là khí loạn, tính ám và sát diện khởi phát ra bên ngoài hiện rõ. Cũng vậy, khí sắc này được mô tả trong tử vi bởi khí hóa tác động hợp hóa trong các cách Mệnh Thân Hạn. Điểm này một số phái tử vi khi định số không xét Khán Hạn Quá Khứ, định trực tiếp bởi diện tướng để luận hành khí của các tổ hợp và khả năng chế hóa của nhân mệnh trước các tổ hợp. Thí như loài vật có tính hung, sát tính trong nội khí của thức ấm, biểu trưng tại nhãn tướng tức ánh mắt phát lộ thần ra bên ngoài. Như loài rắn độc hóa Sát từ khí ám trong nội thức, ứng với thân hóa bên ngoài, cũng ứng với tập tính săn mồi ban đêm là mắt tròng đen nhỏ, dẹt, loài thường không có độc lòng đen lớn. Loài săn mồi khí hung hiển lộ. Loài hổ, báo, sư tử đứng đầu trong chuỗi tự nhiên khí phát khác với loài trâu, bò, lợn thỏ,... Nhân mệnh cũng vậy, diện tướng mắt tam bạch đản, tứ bạch đản, hoặc thần khí hôn ám, lộ hung quang là điểm phản ánh từ thức ra bên ngoài về khí. Diện tướng lông mày chữ Bát dễ nhận biết so với các cách khác có đặc trưng về tính cách riêng, tượng cách thường gặp Thiên Cơ thủ mệnh. Trí tuệ hay mưu cơ của nhân mệnh là điểm chế hóa thượng cách của Sát tinh. Sát tinh ứng hợp với nhân mệnh cũng vậy, khi Kình Dương đắc cách là sự tinh anh, tinh tường và quyết đoán tấn công đúng thời điểm, thời cơ để thay đổi. Khi Đà La đắc địa là mưu cơ tính toán tài giỏi. 





Phá Quân nếu gặp Lộc Tồn tại vị trí đồng độ hay tam hợp chiếu có thể luận hung cách, thí như bố cục Cự Tồn cũng vậy, có thể phát triển lên cao cũng là phù vân nếu theo nghiệp quan cách. Cần lưu ý, Phá Quân tối hỉ gặp Hóa Lộc, là một trong cách cục hay trong tử vi, hoặc Phá Quân hóa thành Quyền. Thảy đều rất cần thiết với Sát Phá để tránh rơi vào hạ cách. Phá Quân nhập Mệnh diện tướng thường xương góc hàm không kéo dài, tưởng trán cao, cằm lộ, đắc cách như Thiên Phủ, tướng gương mặt tròn, xương lộ. Tính cách cương liệt, có tính khai phá, tìm tòi lớn. Do vậy khi hội cách Tồn Phá theo khuynh hướng nghiên cứu khoa học có lợi, do tránh được hành động thực tiễn khi cầu tài danh bên ngoài. Việc thử nghiệm khoa học có thể sai, tuy nhiên nếu kinh thương là tài sản, khi phá sản dẫn tới hậu quả lớn. Mệnh đắc cách, tướng mắt lộ, thần khí sắc bén, có tính ưa động, biến chuyển, thay đổi cao. Phá Quân cũng chủ có tính chất ưa sự chỉ huy, lãnh đạo của bản thân thực hiện một kế hoạch, đường lối. Phá Quân lưu vận tới bố cục Tử Tướng hay Cự Môn đểu có tính khởi tạo, tham muốn khai tạo cái mới, đứng đầu. Phá Quân nhập mệnh, khi đắc cách là phá vỡ những cản trở trên sự nghiệp. Tính chất tại Mệnh cách của Phá Quân rất mạnh. Trái biệt với các tinh hệ của Tham Lang, Thất Sát. Trong trường hợp cách cục tổ hợp Tử Phủ Vũ Tướng Liêm giao hội Sát Phá Tham khiến nhóm Phủ Tướng đơn thủ, hình thành rất nhiều bố cục giao hội bởi Tử Vũ Liêm và Sát Phá Tham. Phân định cuộc đời sẽ gặp nhiều biến cố về tình cảm. Khi xét diện tướng, một số cách cục mang ý nghĩa quan trọng như Cự Kỵ miệng méo, năm Mậu Tuất cũng phát khởi một lá số cách cục thượng cách, cách cục Cự Cơ Đồng. Can Mậu thực tế xuất hiện nhiều cách cục phản tắc rất mạnh. Tứ hóa Tham Nguyệt Bật Cơ ứng Lộc Quyền Khoa Kỵ. Với Mậu thuộc dương thổ, Lộc Tướng Ấn lưu về cung độ Tị Dậu Sửu. Tức cung độ Hợi Mão Mùi gặp cách Thanh Phi Phục thuộc nhóm sao an theo Thiên Can. Xét địa chi cách, do dương thổ, chỉ gặp các can Thân Tí Thìn, Dần Ngọ Tuất đắc Tuế Hổ Phù hoặc nhóm sao Tang Hư Mã. Đồng thời các cung độ này gặp Kình Hao và Đà Hao. Đào Hồng Hỉ tại đây sẽ hội cùng nhóm Lộc Tướng Ấn và Thanh Phi Phục. Do vậy nhóm sao an theo Địa Chi phối định cách sẽ gặp nhóm sao an theo Thiên Can theo thứ tự sau. 




Kình Hao và Đà Hao hội Tuế Hổ Phù, Tang Hư Mã Khách. Lộc Tướng Ấn và Thanh Phi Phục hội Đào Hồng Hỉ. Khôi cư Mùi, Việt tại Sửu. Mệnh cách tại vị trí Tị Dậu Sửu và Hợi Mão Mùi đắc Lộc Tướng Ấn hội Đào Hồng Khôi hoặc Việt và trường hợp ngược lại với nhóm Thanh Phi Phục. Tại đây xét tới mỗi tinh hệ Tử Vi lưu chuyển tới các cung sẽ hình thành đắc tính riêng. Một điểm quan trọng khi Tử Vũ Liêm luôn giao hội Sát Phá Tham tại các cung độ Tị Dậu Sửu và Hợi Mão Mùi sẽ hình thành hai khuynh hướng đặc biệt với nhân mệnh, sa vào Đào Hoa cách, hoặc vươn lên khó khăn bởi Khôi Việt Hóa Lộc. Bố cục Song Lộc hình thành, có thể khiến Phá Quân tăng mạnh tính chất do Lộc Tồn xung Phá chủ hung mang lại. Thế Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật hội nhóm Kình Đà và Tuế Hổ Phù, Tang Hư Mã có phần ổn định hơn. Thực tế nếu Xương Khúc Tả Hữu lưu về các cung Tị Dậu Sửu và Hợi Mão Mùi sẽ thành bộ sao, đặc biệt trường hợp đồng độ tại Sửu Mùi và Hữu Bật hóa thành Khoa là cách cục mạnh. Tính chất của Khôi Việt Đào Hồng hội cùng Lộc Tướng Ấn và Thanh Phi Phục và có thể thành bộ đầy đủ với các trợ tinh, hoặc Không Kiếp Tị Hợi khiến cách cục có tính phát mạnh, có năng lực đứng đầu lớn, trừ trường hợp Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham tại đây tương đối phức tạp, bố cục Âm Dương Lương với cách Nhật Lương cư Mão và Thái Âm cư Hợi, hay cách Cự Cơ Mão Dậu được đánh giá tốt tại đây. Tứ hóa Tham Nguyệt Bật Cơ, điểm quan trọng tại Tham Lang hóa Lộc và Thiên Cơ hóa Kỵ, không thể hình thành đủ cách cục Tam Hóa như can Đinh với Nguyệt Đồng Cơ Cự. Phân bố của hóa khí trung tính, giải cách Sát Phá Tham do Tham Lộc hình thành, Cơ Kỵ khi đắc cách Cơ Kỵ Thanh là vận hội tới, ngay cả cách Cơ Kỵ Hình cũng không gặp khó khăn trắc trở như cách Cự Kỵ. Can Mậu khi phát sẽ dễ ở vị trí đứng đầu, do đặc tính hội cách của Khôi Việt ứng Đào Hồng Lộc Tướng Ấn và Thanh Phi Phục, cũng ứng thế đứng đầy đủ bộ của trợ tinh Xương Khúc, Tả Hữu. Mỗi can chi của năm sẽ hình thành các tổ hợp định sẵn bởi nhóm sao an theo Thiên Can và Địa Chi thành các đặc trưng. Với can Đinh, nhóm sao Cơ Nguyệt Đồng Lương chỉ xuất hiện tại Dần Ngọ Tuất và Thân Tí Thìn sẽ đắc Khoa Quyền Lộc và Lộc Tướng Ấn hoặc Thanh Phi Phục. 




Nhóm Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham và cách Phủ Tướng đơn thủ. Bố cục này hóa khí do nhóm Văn đoàn không gặp Khôi Việt, nếu hội Xương Khúc và Tả Hữu không đủ bộ. Tuy nhiên bộ Không Kiếp nếu lưu tại đây cũng sẽ không đầy đủ, trường hợp có thể gặp là xung chiếu nhau tại Dần Thân, các cung Thìn Tuất, Tí Ngọ đơn thủ. Khi xét hai can Mậu và Đinh, phân định sai biệt rất lớn tại thế đứng có thể hình thành của tinh đẩu. Tại thế của can Mậu, tính kích phát do thêm Khôi Việt và Không Kiếp, Xương Khúc, Tả Hữu có thể hội thành sao đôi, tức đủ bộ sẽ tăng mạnh tính tác hóa. Khí hóa của Chính Tinh và trợ tinh cũng sai biệt, khởi đặc trưng riêng của từng can chi năm tuổi. Với 6 cung Tị Dậu Sửu, Hợi Mão Mùi sẽ tương đối bất lợi với nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm và Sát Phá Tham do hình thành cách giao Tử Phá, Tử Sát, Tử Tham, Vũ Sát, Vũ Phá, Liêm Phá. Tại 6 cung này, cách Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham với can Giáp luôn đầy đủ Tam Hóa, do an Liêm Phá Vũ Dương ứng Lộc Quyền Khoa Kỵ, đắc thêm Khôi Việt tại Sửu Mùi, tuy nhiên không gặp Lộc Tướng Ấn và Thanh Phi Phục tại đây do Lộc Tồn tại Dần. Tại can Giáp, các nhóm sao Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật hoàn chỉnh khi an tại Dần Ngọ Tuất và Thân Tí Thìn sẽ đắc vòng Lộc Tồn hoặc gặp Thanh Phi Phục, không có hóa khí và khi hội Xương Khúc, Tả Hữu hay Không Kiếp không đủ bộ. Nhìn chung, khởi phát từng can chi năm tuổi như bản đồ trên thiên bàn bởi một số nét vẽ đặc trưng, việc an cung Mệnh tại các vị trí sẽ hình thành các nhóm sao theo quy luật. Xét tới các nhóm sao an theo Tháng, Ngày, Giờ luận định số. 

Friday, October 8, 2021

Quá trình phấn đấu của mỗi nhân mệnh

 Nhân mệnh thai sinh, trưởng thành và theo guồng quay của nghề nghiệp công việc đang làm, để mục đích kiếm ra nguồn thu nhập, nguồn tiền lương cho cuộc sống, thụ hưởng của mỗi người. Một số nhân mệnh muốn thoát ra những vòng tròn lặp lại để tạo nên đổi mới trong cuộc đời, khi ngành nghề không phù hợp, hoặc hướng tới công việc tốt hơn, thay đổi số phận thường như đã được lập định để tìm kiếm tự do về kinh tế, đáp ứng nhu cầu về vật chất hoặc tinh thần. Một loạt các quy tắc chuẩn mực của xã hội, trong công việc khiến mệnh cách có những áp lực tới chính bản thân. Điều này cần xét về tính chất thông minh và xoay chuyển tình thế của nhân mệnh. Trong chuỗi ngày nghề nghiệp tác động ngược lại bản thân do kết quả là lương tiền Thiên Lương tới nhân số. Liên quan tới tử vi đẩu số, là phương pháp toán mệnh trên khí hóa của mệnh tạo khi thai sinh. Phàm thời khắc khai tạo một nhân mệnh là thời điểm cốt gieo nhân quả tới thiên địa. Khi thai sinh, nhân mệnh chịu sự tác động tương tục của xã hội tới nhân mệnh. Chính tinh chủ nghiệp nối tiếp quá trình nhân quả sẽ theo nhân mệnh tới khi hết chu kỳ sinh lão bệnh tử. Do vậy, luận cách cục tối quan trọng là Chính tinh thủ mệnh và các tinh đẩu tại bản cung mệnh. 12 chính tinh và giao hội, VCD khắc họa bản tính nguyên thủy của nhân mệnh. Điểm trọng chính là điểm xét cách cục tạo tại mệnh nguyên để xét năng lực, khả năng, thiên tính của nhân mệnh. Cuộc đời gắn với tinh đẩu là tính cách tồn tại của nhân mệnh phản ánh từ vô thức, gắn với cát hung thịnh suy khi luận đoán. Cũng vậy, xuất hiện nhiều tổ hợp Mệnh có thể khiến đương số khó có thể vực dậy sau những sai lầm biến cố cuộc đời. Dự đoán vận cát hung là vấn để cơ bản khi nghiên cứu tử vi, là điều nhập môn người nghiên cứu có thể nắm rõ. Vận sinh tử là phần tương đối phức tạp để định cách. Dựa vào cát vận hoặc đại hung vận cách không đủ xét định số phận tuyệt khí của mệnh tạo. Phàm vạn vật theo lý đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Khí linh ứng cảm giao tương ứng là tất yếu khi khí hóa của bố cục phát ra bên ngoài. Cách cục vận hạn đại hung ứng hóa với hoàn cảnh bên ngoài sẽ tạo nên tính chất hung hiểm tai kiếp nặng nề, tuy nhiên chưa xét tới họa sát thân. Sự thay đổi diễn ra có thể khiến nhân mệnh mất đi chỗ dựa của bản thân về chính công việc, thứ tạo ra nguồn thu nhập của mỗi mệnh tạo. Nghề nghiệp, chức vụ là quá trình khởi phát của công danh, tính chất của Hóa Kỵ là nỗi sợ, trong vòng Tang Hư Khách Mã là nhóm sao có tính chất khởi phát sự đương đầu của nhân mệnh trước những quyết định lớn trong cuộc đời. Nỗi sợ hiển hiện rất nhiều đặc trưng bởi đánh mất, mất mát của nhóm Sát Phá Tham, hay của mâu thuẫn, đè nén bởi Cự Cơ Đồng. Tại đây, có nhân mệnh chịu đựng để nghĩ tới ổn định trong cuộc sống, có nhân mệnh lựa chọn thay đổi để tìm phương hướng khác, chưa xét tới quá trình thành hay bại khi lựa chọn của chính bản thân đương số tới những điểm tác động của cuộc đời. Tuy nhiên dây buộc lại chính là việc lo sợ mất việc làm, lo sợ về không có lương tiền để duy trì cuộc sống. Đặc biệt với những nhân mệnh có những khoản nợ được trả bởi lương tiền hàng tháng. Điều này dẫn tới việc quan trọng là sự lựa chọn, quá trình lựa chọn của nhân mệnh trước những biến động của thời cuộc có sự tác động của chính tư tưởng, hay bản tính, tính cách của mệnh tạo tới. Trong nhiều thời điểm, xét mệnh cách gặp Khôi Việt Khoa Quyền Lộc Tả Hữu Xương Khúc hội cách cục cát hóa mạnh, khi bản thân có thời gian ngẫm về tử vi giai đoạn còn thanh niên và sau này khi thời gian lập lại hòa bình của đất nước, khó để suy xét mệnh cách quý hiển bằng các tổ hợp sao cát trợ tinh, nhược lại có rất nhiều cách cục gặp bố cục trên khiến cuộc sống nhàn hạ, nhân mệnh bình thường không gặp các biến động lớn của thời thế tác động tới duy trì cuộc sống của nhân mệnh. Lương tiền, lương bổng là điểm cốt yếu có thể ảnh hưởng tới các quyết định cuộc đời của nhân mệnh. Có người do nghĩ tới gia đình, bản thân và nhiều lý do khác. Tính chất lo sợ, áp lực của những hoàn cảnh mang lại khiến nhiều đương số không thể phát triển thêm những tư duy, tư tưởng mới, khi vừa xuất hiện đã bị loại bỏ. Và có những tư tưởng đáng lý sẽ thay đổi toàn bộ cuộc đời của nhân mệnh. Trong quá trình chịu áp lực lớn, cũng là thời điểm kích phát của cục số. Tính chất này do tính chất phát tác của hung sát và cách cục tới nhân mệnh. 





Những nhân mệnh thành tựu sẽ đưa ra các quyết định mang tính quan trọng trong một số lần trong cuộc đời sau những thử nghiệm, cố gắng tồn tại trong chính tính cách của mệnh tạo. Điều này dẫn tới các tín hiệu của hành vận tạo bởi một số sự kiện do nhân mệnh đưa ra quyết định tiên quyết. Thí như một trường hợp người viết có luận với lá số một thanh niên có sự nghiệp ổn định tại ngân hàng nhà nước và khi thời điểm Lộc Kỵ Kiếp Tướng bỏ công việc và khởi đầu với kinh thương qua mạng internet. Sau gần một năm loay hoay với những khoản tiết kiệm đã dùng hết và lương tiền không còn được bảo lãnh bởi công việc làm. Nhân mệnh rơi vào thế áp lực khủng kiến, vay mượn của gia đình người thân. Gặp thời cuộc đã có tài sản rất lớn, có thể bằng đời người tích lũy. Sự thay đổi mang tính mạo hiểm và quyết định có thể khiến nhân mệnh bế tắc trong cuộc sống hoặc khiến cuộc đời mở ra bước ngoặt mới. Phàm quá trình xây dựng sự nghiệp của mỗi nhân mệnh có đích tới nằm tại quyết định những thời điểm quan trọng của nhân mệnh. Như việc đặt cược sự thay đổi có thể dẫn tới thành tựu hay trượt dài trên những quyết định hối hận. Quá trình phấn đấu của mỗi người chịu tác động bởi cả hoàn cảnh vận làng, vận nước. Trong giai đoạn dịch bệnh này có thể khiến nhiều đương số rơi vào tình cảnh nợ nần, khủng hoảng về tư tưởng do áp lực của tài sản hao hụt hay không thể kinh doanh buôn bán. Thời điểm này thương nghiệp chịu ảnh hưởng nặng, quan lộc cách có thể ít gặp biến động hơn. Phép luận định khi hoàn cảnh vận nước sẽ thay đổi thích nghi với dịch bệnh để khôi phục phát triển kinh tế, tạo ra nguồn tài sản từ những thiệt hại do ngưng trệ giao thương. Nhiều nhân mệnh sẽ rơi vào tình trạng khó khăn, cũng như mỗi thời trong giai đoạn chiến loạn mệnh cách đắc sẽ bạo phát. Giai đoạn này là thời điểm của thay đổi thích nghi. Như trong tự nhiên việc sinh tồn dựa vào quá trình thích nghi liên quan tới tính mệnh. Trong thời kỳ vận bĩ, khai thông, lật đổ bĩ sẽ tới giai đoạn thái. Trong thời điểm này, sẽ có nhiều nhân mệnh đánh mất toàn bộ tích góp của cuộc đời tính tới giai đoạn này, lâm vào cảnh nợ nần bế tắc. Một số kẻ tiếc nuối về những quyết định của bản thân. Rất nhiều mệnh cách quý hiển rơi vào thế khó khăn, cũng là thời cơ cho sự thay thế của trật tự xã hội. Trong quá trình phấn đấu này, thành bại nằm tại tính cương cường, vững chắc. Tuy nhiên điểm cốt yếu là khả năng linh hoạt xoay sở, khi dồn vào thế chân tường. 





Mất mát là cách cục thường hiện diện trên lá số tử vi, vào các hạn hành hung sát trùng phùng, hội họp cách cục phá tán. Đánh mất gia nghiệp là việc khổ tâm của mệnh cách, đặc biệt nếu nhân mệnh đã trải qua quá bốn hạn hành tức vào thời trung niên. Việc gây dựng lại sẽ khó khăn, bĩ cực thái lai, phàm sự thoái lui là quá trình sai giảm để hướng tới cơ hội mới của vạn vật, nếu không nhanh thay đổi ắt sẽ tụt hậu hoặc phá tán mạnh như quá trình từ Đà La tới Lộc Tồn, tới Kình Dương. Con người gặp giới hạn bởi thời gian, tức mỗi giai đoạn sống phân định hữu hạn về quá trình phấn đấu. Nếu chậm trễ khi chuyển vận về sau càng suy giảm thời gian sống. Thực tế, khó có thể luận định được cơ hội sống của mỗi người trong thời gian cuộc đời, chỉ xét tới tính chất bệnh tật, yếu tố tai nạn, họa hoạn đã tạo nên những mối nhân quả sai biệt giữa các mệnh cách. Người viết thường thấy rõ việc nhân mệnh thành tựu sự nghiệp quý trọng thời gian hơn những vấn đề lo nghĩ, lo sợ về quá trình thực hiện công việc hay nghề nghiệp. Điều này là sự tinh tường rất lớn của những nhân mệnh này. Mối quan hệ chặt chẽ này gắn với tính khởi phát quan trọng nhất trên lá số tử vi mà thường người luận định không chú trọng tới, chỉ tập trung vào luận đoán bố cục và tính chất của tinh đẩu. Thời gian là điều kiện tiên quyết của mệnh cách để xét định toàn bộ lá số tử vi. Thời và vận là những điều cần nhìn rõ để xác định khả năng và tiến trình vận cuộc đời của một người. Thí như nghiệp quan gắn với thời gian đắc lệnh thường tầm trung niên. Theo nghiệp kinh thương xét tới tính chất hoạch phát lớn hơn tức giai đoạn nhân mệnh bước vào tiền vận đã có thể tạo nên sự nghiệp kinh doanh lớn. Tuy nhiên khi xét yếu tố thời gian, mục tiêu của nhân mệnh đạt được cuộc sống chính là giai đoạn tiền vận và khởi đầu của trung vận. Mười năm thiếu niên đắc thời không bằng 1 năm trung niên đắc vận. Quá trình sinh phát tương kiến của vật theo khuynh hướng phát triển sẽ hội tụ điểm kích phát cần chú trọng tại thời gian sau. Do giai đoạn tiền vận thường tích lũy kinh nghiệm sống, nguồn lực không mạnh như giai đoạn về sau. Tuy nhiên tại giai đoạn trung vận sẽ ảnh hưởng thêm tác động tật bệnh và suy yếu của thể trạng. Nhân mệnh cách được thừa hưởng, kế tục từ phụ mẫu là điểm cát khi thời gian phát triển rút ngắn. Tính chất này cũng khiến nhân mệnh nếu khởi sự từ bạch thủ hưng gia, tay trắng nên nghiệp bắt buộc khuynh hướng rất táo bạo, đánh đổi, đánh cược với những tư tưởng đổi mới khác. Cũng vậy, quá trình biến động của vật chất không như quá trình suy giảm của sinh lực.  Tài vận có thể thăng giáng, ở mức âm do nợ tài sản, tuy nhiên sức khỏe chỉ theo chiều hướng suy yếu theo thời gian và ngưỡng số Không tức Vong.  




Sức tác hóa của thời gian và hiểu rõ tính chất quan trọng của thời gian tạo ra các thời vận, cơ hội là điều mệnh cách thành tựu đại nghiệp nắm rất rõ. Phân phối và lược bỏ những vấn đề tác động không cần thiết là nguyên tắc cho quá trình phát triển mạnh về sau. Điều này thường không nhiều đương số xét tới, do vậy mệnh cách thành tựu không nhiều trên tổng thể. Vận trinh của cuộc đời là các giai đoạn trải qua, càng về giai đoạn sau cuộc đời nhân mệnh sẽ có khuynh hướng sự an toàn, ổn trọng, do vậy nếu tích lũy năng lực và khả năng thay đổi nắm thời thế nằm tại giai đoạn hành vận thứ 3,4. Hai đại vận này có tính chất quan trọng do chịu tác động của thời gian tại lá số tử vi. Nếu hai hành vận này phối hợp Mệnh tốt đẹp, lá số luận cát. Sát tinh sẽ chế hóa điểm chủ tại hai đại vận này. Rất nhiều lá số nhân mạng khởi sự lại từ đầu khi giai đoạn trung niên, có những mệnh cách còn nợ số tài sản lớn tại giai đoạn này. Thứ cần thiết của mệnh tạo lúc này là thời gian gây dựng lại. Do vậy những điều tiêu hao như sức khỏe và thời gian ứng quy luật vòng Trường Sinh khởi phát sẽ tác động phần lớn tới độ số của mọi mệnh cách. Tri kiến và tích lũy kinh nghiệm từ giai đoạn tiền vận là điểm quan trọng để mệnh cách có thể phát triển tương đối an toàn về sau. Có thể đánh đổi tức Thất Sát, trao đổi bằng thời gian giải trí Vũ Khúc, Đào Hồng, Diêu Y, hay thậm chí thời gian sinh hoạt của mỗi nhân mệnh để lấy tri kiến trong giai đoạn này. Người viết có luận giải những mệnh số giai đoạn khó khăn trong cuộc sống, phân định thời gian dành cho giải trí hay thú vui nhiều hơn dẫn tới tích lũy về kinh nghiệm có phần khuyết. Khi Sát Kỵ tác động nhập vận tác hóa tới gặp biến động như bị lừa đảo, hay kinh thương thất bại, hoặc gặp biến cố trong công việc, hoặc mắc vào tệ nạn, cờ bạc... dẫn tới khủng hoảng của bản thân và gia đình. Khi lập thế vững chắc của tri kiến tức Xương Khúc có thể khắc phục vấn đề này. Lựa chọn tạo bởi chính nhân mệnh, về việc tạo sự chuẩn bị trước những biến cố là điều cần thiết. Lựa chọn cũng chính là Đào Hoa. Tinh đẩu biến hóa theo đích là chủ thể tức nguyên mệnh. Phần phân định này là khán hạn sẽ phân định được rất nhiều cách cục chính yếu gắn với độ số của mệnh tạo. Khi suy xét về khả năng tham muốn về tri kiến, học thuật ở phương diện sách vở và kinh nghiệm, có giá trị hơn thời điểm giải trí, hoặc thí như đặt quá nhiều thời gian cho những mối quan hệ và chịu tác động của các tư tưởng hưởng thụ khi thế của nhân mệnh chưa thực mạnh. 




Phòng vệ, lường trước những biến cố cuộc đời là điều cần thiết, ở mức cao hơn là lập định kế hoạch tức Tham Lang để hướng tới, như Tham Lang cần có Hỏa Tinh tức nhiệt huyết là cách cục quý. Kế đến là sức khai phá, làm chủ của Phá Quân, Tử Vi và Cự Môn tới cuộc đời nhân mệnh. Một lá thư của một đương số bắt đầu tới giai đoạn hành vận trung niên đề cập tới người viết về sự khó khăn đột biến khi dịch bệnh xảy ra khiến đương số trở về số không khi thời kỳ trước có một doanh nghiệp tương đối lớn về dịch vụ. Cũng rơi vào trong điểm vận Phá Không Tồn Kiếp Ấn Đào ứng với hai thời kỳ hành vận của nhân mệnh và thời vận của vận thiên hạ bất lợi với một số ngành nghề liên quan tới dịch vụ. Thực tế nhân mệnh có thể khởi phát cơ nghiệp khi nhập vận Khoa Quyền Lộc hội trợ tinh mạnh trong thế đứng của Chính Tinh vững hợp cách mệnh. Tuy nhiên khi lưu chuyển trên 12 cung độ ắt sẽ có giai đoạn gặp Sát Kỵ dẫn tới bại cách. Điều này cũng thường gặp tại nhiều lá số trên kinh thương và các quan trường. Tới giai đoạn hậu vận, có thể gặp phá tán nặng nề. Phân định ngày tháng ý nghĩa là một trong những yếu tố để định số trong tử vi. Tạo bởi tổ hợp Âm Dương khi định cách. Nếu trên thiên bàn, bộ Âm Dương nhập miếu gia cát là cách thời gian sử dụng tốt. Sự tác động của khí hóa khiến nhân mệnh lo sợ rất nhiều vấn đề, là lo lắng đánh mất sự ổn định tuy nhiên thực tế vạn vật luôn vận hành, biến chuyển không ngừng, những ý tưởng, tư tưởng hay bị phá bỏ bởi hoàn cảnh trước khi được khởi tạo là thường gặp. Vì vậy mới thường ca ngợi cách cục Cự Cơ chính hướng hạnh ngộ Song Hao uy quyền quán thế, là sự thay đổi của Cự Môn khi bất mãn. Hay cách cục Sát Phá Kình Đại sẵn sàng phá lề lói cũ đổi mới. Tử Phủ Lộc Tồn với hệ tư tưởng vững chắc trước thời cuộc, có tính tích lũy lớn và linh hoạt của Vũ Khúc. Nhân mệnh hành trình của cuộc đời là tìm lại cuộc sống của bản thân, hướng tới điều hoan hỉ, an ổn, thỏa được vật dục và sắc thọ ấm. Số và phận gắn liền với nhau, mệnh cách an phận thì số không biến động mạnh, mệnh cách hướng lên trên, không an phận thì số biến động, có thể thành bại thăng trầm. Có lẽ cuộc đời nên thử một vài lần. Cổ nhân luận định, mệnh quý là mệnh hoan hỉ trước những khó khăn và lo lắng khi đạt được thành tựu lớn. Việc tư tưởng và hoàn cảnh tác động mạnh tới khuynh hướng nghề nghiệp, hai lá số cùng tứ trụ, khởi sinh cùng thời điểm, một thăng vận Sát Kình Tuế Phượng Khôi Quyền Kiếp, giữ vị trí quan trọng trong quốc phòng, một theo nghiệp kinh thương xuất ngoại đạt được sự nghiệp lớn trong ngành công nghiệp bên Hoa Kỳ, cả hai đều nhập đại vận phát dã như lôi. Phàm nhân mệnh, xét thời là quan trọng, vận bĩ mệnh quý là thời khắc thử thách vận bĩ là trui rèn cho năng lực của mệnh tạo. Cả hai lá số một người phụ thân mất sớm khi thiếu niên, một người mồ côi, cũng là điểm tác họa của Sát tinh. Nhiều lá số khác tại vị trí cao trong xã hội trong trích lục của Tử Vi Đông A, khởi phát khi hoàn cảnh thế cùng cực, thắp lên ý chí cao viễn để có thành tựu về sau. Cũng ở mệnh lý của nhân mệnh đương nhiệm, Tử Vi Đông A chỉ bàn luận về cách cục, không xét về cụ thể. Điều nghiệm lý nhiều mệnh cách gốc mệnh bình hòa, toàn bộ tổ hợp đắc chế hóa lưu tại hành vận trung niên, nhập vận bất ngờ đắc thời trong giai đoạn rất ngắn giữ vị trí quan trọng trong xã hội. Đây là điểm huyền nghiệm của mệnh lý. Ứng tiền nhân luận "Mệnh hảo bất như Thân hảo, Thân hảo bất như Hạn hảo". 




Mệnh quý cũng có thể luận là mệnh tri kiến sâu rộng, năng lực suy xét nhạy bén, giải quyết vấn đề. Cuộc đời nhân mệnh có thể dài hoặc ngắn, trường đoạn có người rời khỏi nhân thế khi đầu xanh, có mệnh số vừa chào đời đã không thể tiếp tục sinh mệnh. Vật vô thường vậy khiến suy xét về tính phát khởi của nhân mệnh cần chú tâm. Người bệnh tật, hình pháp, tới thương tật chỉ tham cầu sự sống hay tham cầu đầy đủ tứ chi, vô bệnh tật. Việc bế tắc, áp lực tồn tại do vấn đề khác là tác hóa dư khí của Sát Kỵ tới nhân mệnh. Rất nhiều nhân mệnh có khả năng nắm bắt thời cơ để tạo ra khối tài sản khổng lồ trong thời gian ngắn, cũng có nhân mệnh biến hóa, linh hoạt tìm ra những bí mật, sơ hở của luật pháp các quốc gia để tạo nên cơ nghiệp của bản thân. Tuy nhiên nếu có Kỵ Hình Phi thì cẩn thận bị bắt, nếu có Khôi Hình Kỵ Hổ khó có thể thoát nạn. Nhiều trường hợp ở vị trí cao trong xã hội cũng khó thoát ách nạn này. Giai đoạn từ khi thai sinh tới lão bệnh là quá trình tiếp nối của thời gian, không thể quay lại và càng về vận trình sau của cuộc đời sẽ có cảm nhận rõ về thay đổi của thời khắc, điều cần lưu tâm là chế ngự được hung sát tinh tác động tạo áp lực, đè nén, xung đột tới mệnh cách. Thiên Cơ tương kiến là linh động, chủ dùng trí phân tích. Phá Quân dùng lực và tính khai phá. Thiên Phủ dùng tình cảm. Thiên Lương dùng đạo. Thất Sát dùng dũng. Tử Vi dùng lý tưởng. Thiên Đồng dùng cộng. Cự Môn dùng khẩu. Tinh đẩu khi đạt khí hóa cao nhất như việc nhân mệnh học hỏi ở mức độ tinh thông. Đại diện cho các vị trí tài giỏi, nổi danh. Phàm tử vi không có tinh đẩu đại hung, chỉ có bất hợp. Như thuyết ngũ hành, năm hành đều quý, miễn là tương hợp chế hóa hữu tình. Tử Vi xét chính tinh chủ mệnh là bản thể, khi xét cách hóa ra bên ngoài tượng nghĩa, là bản thân nhân mệnh, tú khí thì thành tựu. Kể hung sát ám tinh, tú khí là nhân mệnh tài giỏi, như Tào Tháo đa nghi cũng là mệnh vương. Tần Thủy Hoàng thường bị người đời luận định ác nhân lưu truyền tài trong sử ghi. Một cung đường cuộc đời, tới trăm năm cũng thành cổ nhân, hà tất lo sợ việc thay đổi có thể phần mạo hiểm để mưu cầu điều tốt hơn cho năm tháng còn lại.