Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Thursday, August 31, 2017

Tử Vi với cách cục tử vong bệnh tật




Tử Vi với cách cục tử vong bệnh tật


Chu kỳ Sinh Lão Bệnh Tử từ thời xa xưa tới nay vẫn đúng trong đa phần các trường hợp. Cơ thể có bệnh nặng tác động do thương tích hay già yếu tới khi tim ngừng đập, não ngừng hoạt động thì lúc đó luận tuyệt mệnh. Xem từ vi tránh được cách cục yểu mệnh trên lá số là thành tựu của mỗi người dành tâm huyết cả cuộc đời với môn toán mệnh này muốn hướng tới. Người viết cũng không nằm ngoài những ước muốn như vậy nhưng thực tế nghiệm lý bao nhiêu lá số tuyệt mệnh vẫn khó có thể tránh được thiên cơ. Tuy nhiên vẫn còn có một số trường hợp cách cục phá cách nặng nề, lá số ở mức độ rất xấu nhưng đương số vẫn bình an với tính mạng. Các cách cục này có liên quan mật thiết với việc chế hóa các Sát Tinh tuy nhiên vẫn khó khăn để tìm được các trường hợp này. Người viết qua các bài viết cũng cố gắng đưa ra những cách cục hóa Sát giảm cách cục tai họa mang tới cho đương số. Đa phần các cách chế hóa được là do sự cảnh giác, biến đổi tính chất hợp hóa khi chiêu cảm ra bên ngoài thực tế không đi theo hướng đi tổ hợp xấu cũng may mắn là cũng có những ý nghia theo hướng xu cát tị hung nhất định. Lưu ý cách cục kiến Sát Kỵ tác họa ở cung an Thân rất lớn tùy trường hợp nhưng đa phần không kém tại Mệnh. Tử Vi khi có trợ cách tức sử dụng cách trợ lực cho cách cục để dụng được sát tinh là khó khăn vì đa phần trên lá số tử vi tổ hợp mang tính chất bản tính và hành vi tự phát động khó có thể cảnh giác để nhận ra việc đi theo số mệnh khiến khó có thể chế hóa Sát Tinh. Đặc biệt là bố cục Sát Tinh quyết định gây ra cách cục yểu mệnh hay tử vong do bệnh tật. Cần hiểu rõ rằng đa phần các bệnh tật sẽ biểu hiện trước ở các lối sống và trong tưởng thức mà xuất hiện thành những hành vi. Các dòng khí phát động luôn chuyển động khi việc bản thân đương số không nhận ra.



Vì vậy Sát Tinh tác họa mang tính chất khó ngăn cản và cát hóa. Thời nay chết vì binh đao trận mạc là khó khăn vì đang thời bình không có chiến tranh, cách cục phải tử mạng do tù tội hay chữ Sát do gây thương tích cho kẻ khác cũng không ở mức gượng khí. Cái mà tính Sát tác họa ở hiện đại đa phần biểu hiện ở bệnh tật. Sở dĩ như vậy vì Sát Tinh tác họa ở mọi lá số tử vi, mọi tầng lớp địa vị cao nhất hay thấp nhất, người được bảo vệ an toàn nhất tới người bình thường để Sát Tinh tác họa lớn tới toàn bộ như vậy thì bệnh tật là điều tất yếu. Khí Sát chiêu cảm ra bên ngoài thực tế bằng bệnh tật nặng nề, các mức thể hiện rất đa dạng và biến hóa ở nhiều loại bệnh có thể khiến đương số vong mạng. Trong đó các bệnh nan y như ung thư, HIV, bệnh mãn tính,.. Các bệnh này phát sinh ngày càng nhiều vì đơn giản ngay bản thân mỗi người đều hàm chứa tính Sát nhưng mỗi cách biểu hiện khác nhau. Có một số người dù tiếp xúc với rất nhiều thứ độc hại nhưng cả đời ít gặp bệnh tật nặng nề liên quan tới tính mạng. Thế giới vẫn bàng hoàng về trường hợp lạ đã kiểm nghiệm xác thực cụ ông gần 80 năm không ăn tại Ấn Độ. Ở nơi Ấn Độ hay Tây Tạng có những điều kỳ lạ về con người mà đặc biệt có liên quan tới môn Du Già tức Yoga có thể khiến cơ thể phát ra nhiệt lớn hay một số khả năng khác. Trên thế giới vẫn còn những chuyện ngược đời, việc chế hóa Sát Tinh không có gì là khó hiểu với những người đã nghiệm lý nhiều lá số và phát hiện ra có một số mệnh tạo tầm thường, sát kỵ kiến trùng nhưng tạo nên thành tựu rất lớn, có những mệnh Sát Kỵ Hình  có mặt tại cả mệnh thân hạn đương số gặp ung thư giai đoạn cuối nhưng lại trở về từ cõi chết và hồi phục bình thường. Những trường hợp chế hóa được cách cục tuyệt mệnh tuy khó tìm thấy nhưng vẫn còn xuất hiện. Tử Vi Đông A sử dụng phần Trợ Cách để toán mệnh dụng sát cũng vì lý do này. Bệnh nan y đặc biệt là ung thư là do cách cục Sát Tinh loạn động, cách cục mệnh tạo gặp phải tai kiếp, có mặt cặp Không Kiếp Kỵ Hình.




Trường hợp hay gặp nhất là mệnh tạo có cách Tử Phủ Vũ Tướng Liêm ngộ Không Kiếp Hỏa Linh đi với Tang Kỵ. Bố cục trên tùy tăng giảm tính Sát mà mức độ tác họa gây bệnh khác nhau. Với cách cục Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham kiến Sát Kỵ Hình cũng mang ý nghĩa trên. Đặc biệt ở vị trí của Liêm Trinh hoặc Vũ Khúc hay Thiên Phủ đồng độ Không Kiếp cần thiết lưu ý. Ở đây các sao mang tính chất tăng và bộc phát như Khôi Việt, Tuần, Lộc Tồn, Bệnh Phù và các sao chủ ám như Hóa Kỵ, Tang Môn, Phi Liêm, Đà La,... tác động lớn tới việc đương số biết mức độ khi bệnh phát tác. Đặc biệt bệnh ung thư sẽ có dấu hiệu nhưng các cách cục trên mang ý nghĩa bỏ qua, không xem trọng. Với cách cục Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật hoàn chỉnh hay giao hội cũng tạo thành cách cục này khi kiến Sát Kỵ. Lúc này vòng Trường Sinh phát huy tác động rất lớn vì chế hóa được các cách cục biến hóa cực đoan bởi Sát Tinh. Các sao thuộc văn tinh dễ gặp tai họa với các Sát Tinh vì sức tác dụng biến đổi theo chiều hướng tốt không lớn. Người viết có gặp một số trường hợp khá ly kỳ khi mệnh tạo tốt đáo hạn ngộ Không Kiếp Kỵ Hình Tang Tuần đương số gặp nạn nhưng bất tuyệt mạng, với cách cục trên thì luận trợ cách để chế hóa được bố cục trúng phải tai kiếp, tai họa do chính bản thân hay trời hành gây ra như vậy thì nếu sinh khắc hữu tình mệnh thường tọa đắc cách tốt đẹp và cư tại vị trí Sinh Vượng nhưng chế hóa được cũng khó khăn vì bố cục sát tinh khủng kiến hội họp tạo thành rất nhiều cách cục xấu theo chiều hướng tăng nhanh chóng nên đương số không gặp nguy hiểm tính mạng thì tai họa hình khắc lớn. Nhìn chung tất nhiên trong cuộc sống ta phải gặp nhiều trường hợp mà khiến con người phải tự tử vì không chịu nổi áp lực hay vấn đề tình cảm. Quan trọng là ai vượt qua được khó khăn vì đa phần mọi người sẽ nhận ra ngay cả trong xây dựng sự nghiệp thì sau giai đoạn khó khăn nhất vượt qua sẽ dẫn tới bộc phát khiến sự nghiệp phát triển vào mức độ nhanh , điều này nghiệm ra thấy rất đúng đắn. Như một cơ hội dành cho tất cả mọi người thường là sự cố gắng tới mức độ rất lớn, tức chữ bám giữ, nắm giữ về lý tưởng sẽ tạo nên thành công vĩ đại, tùy vào tham vọng của mỗi người. Ngày nay báo chí đang tải những người thành công gây dựng cơ nghiệp mà khởi đầu từ con số rất nhỏ đa phần đều theo một con đường phẩm chất tương tự nhau. Đặc tính của Sát chế hóa đi liền với sự mạnh dạo, quyết đoán, quyết tâm thực chất cũng chỉ là việc chế hóa ngũ hành, đặc biệt hành Hỏa trở nên đắc dụng. Bài sau sẽ luận về việc trí tuệ, khả năng đầu óc, mưu kế trong cách cục tử vi.

Sunday, August 27, 2017

Mức sinh tuyệt của dòng khí cơ bản



Mức sinh tuyệt của dòng khí cơ bản



Sống và chết là chuyện tất nhiên ai cũng sẽ gặp phải. Tuy nhiên thường nhắc tới từ Chết là bản thân bất kỳ ai khó có thể không cảm thấy xa lánh từ này đặc biệt khi với bản thân, chữ sắp chết còn khó khăn để chấp nhận hơn từ chết. Trong tử vi và các môn toán mệnh khác khi nhìn ra sự kỳ dị của cuộc sống với những điều khó có thể tin là sự thật, khi ngay cả thứ ban đầu khó có thể chấp nhận theo lối suy nghĩ thông thường là việc chỉ đung một số thông tin để dự đoán vận mệnh của mỗi người. Và lại mang tới một sự thật hơn hết là chính bản thân mỗi người, có thể tự lập lá số tử vi của mình và chiêm nghiệm tính đúng đắn, khi tiểu hạn xấu kết hợp đại vận là mệnh thân xấu là hạn chết thì với người bình thường việc này còn kỳ lạ hơn cả chuyện khó tin mà khoa học viễn tưởng tạo ra. Bản thân người viết không phải là người dễ dàng tin vào những điều hoang đường, nghe người khác đồn thổi vì quá rõ những việc này đa phần còn do cả sự thêm thắt của mỗi người vào như tính chất Cự Môn là bất ngờ, vì vậy những việc không tin tưởng được sẽ quan trọng là mắt nhìn, tay sờ và sử dụng trí tuệ mới có thể chấp nhận. Bản thân mỗi người sống thường sẽ có một thời điểm trong đời đặc biệt khi gặp việc buồn thương hay tang tóc với người thân trong gia đình. Trong cuộc sống chỉ có những điều bản thân suy nghĩ tin tưởng trong khi quyết định tư duy thực tế mang lại sự chắn chắn hơn so với việc tin vào một thứ mang tính tâm linh. Nhưng số phận là như vậy khi không muốn thì thường gặp ngay tức thời. Càng sống lâu thì những sự việc khó tin lại diễn biến ngay trước mắt sau này khi nghiên cứu sâu tử vi cũng rõ chỉ bởi vì sao Thiên Lương gắn liền với cung an Thân cư ở tại Phúc Đức và một chữ Thiên Đồng trong bộ Cự Cơ Đồng gặp cách Linh Dị tức Kỵ Linh đi với Việt Đồng. Việc lạ trong thiên hạ thì nhiều, đồn thổi cũng nhiều đặc biệt vào thời nay việc mê tín dị đoan, buôn thần bán thánh để tư lợi gặp nhiều hơn, mặc dù trong đó có thể có sự thật những thứ có thật nhưng nếu chưa kiểm nghiệm được, mà ngay mắt nhìn không thì chưa đủ để xác định đúng sai.



Ở nước ta khi bản thân luận nhiều trường hợp thì nhận ra các cách cục sao có sự biến thiên khá hay ngay ở những địa phương khác nhau đã tồn tại điều như vậy
Cũng là Phượng Các thay vì ở đây được ngưỡng mộ về tài năng, ở nơi khác bản thân lại là người trông giữ nơi nhà thờ tổ, có nơi khác lại là kẻ phải chết đi trong sự nuối tiếc của mọi người khác, được thờ cúng, phúng viếng cũng là Phượng Khốc. Vong là chết, Sát là chết, bệnh là chết là những cách cục chính của các cách tuyệt mệnh. Đây là các tổ bợp tính chất chính, còn một số trường hợp đặc biệt khác. Trong tử vi có các sao thường được gọi là cát tinh như Xương Khúc, Phượng Khốc, Lộc Ấn Bệnh lại là các sao dễ khiến bản thân đương số phải tử mạng khi đáo hạn xấu có kết hợp tổ hợp Sát Tinh với các sao trên. Đến ngay Sát Tinh được luận là xấu nhưng chế hóa được các sát tinh này sẽ khiến bản thân không những tránh được tai họa mà dụng được cả Sát. Trường hợp thường gặp hay được biểu hiện ở câu " Khẩu xà tâm phật". Cái dụng chế hóa của Sát Tinh ở cái quyết tâm, nghị lực, không bỏ cuộc, trầm tĩnh làm nên những phẩm chất quý để thành tựu, khi xấu thì tất nhiên thành họa sát thân. Ở đây xét tới chữ Chết khi tuyệt mạng chỉ có như vậy. Khi sống thì khí dương, khi chết thì khí âm dần tăng trưởng. Tiền nhân rất rõ về những dòng khí, phân biệt rõ ràng như tử khí, âm khí, tà khí. Cái khí như vậy mô tả như một điều mang tính chất hư vô,  dùng linh tính, đôi khi có thêm dấu hiệu như việc nhìn tay chân lạnh, người cứng là dương khí tan rã dần, âm khí tăng trưởng. Người học tử vi cần nắm bắt dòng khí thì luận giải theo dòng khí luôn luân chuyển giao hội tác động tới tính cách. Trong cuộc sống thì còn tồn tại sát khí, hỉ khí, tài khí, phúc khí. Cái sát khí dễ nhận ra đặc biệt khi gặp nguy hiểm vì đa phần linh tính nhạy với sự nguy hiểm hơn các dòng khí khác. Nếu khả năng tùy mỗi người khá nhạy bén thì với ánh nhìn sát khí từ phía khuất hay phía sau người kia sẽ cảm thấy được mặc dù không sử dụng mắt nhìn. Dòng khí không chỉ đung trong tử vi mà các môn huyền học khác và đặc biệt phong thủy rất cần thiết sử dụng khí hóa.


 Ở bài viết này đề cập tới sống và chết nên hai dòng khí gồm Sinh Khí và Tử Khí là hai dòng khí quan trọng trong việc luận đoán. Hai dòng khí này lại có mật thiết với một khí hóa rất quan trọng là Linh Khí. Nếu nghiên cứu tử vi sâu hơn sẽ cần thiết nghiên cứu thêm các dòng khí này để nhìn rõ bố cục tuyệt mệnh hay sinh mệnh, tức mệnh tạo đã nhập cửa tử khi ba nẻo Mệnh, Thân, Hạn đều rất xấu hay được cách như cách cục " Tuyệt xứ phùng sinh". Ở đây có liên quan nhiều tới Linh Khí tức đong khí dựa vào sự linh tính, một phần của Linh Khí liên quan tới Phúc Khí cũng như vậy. Trong Tử Bình thì luận khí hình của ngũ hành để đánh giá sinh vượng tử tuyệt, sự chế hóa hay hợp hóa ngũ hành dẫn tới dòng khí biến đổi hữu tình hay vô tình vì mỗi hành trong ngũ hành là một phần bản tính. Mệnh xấu là khi ngũ hành vô tình gây họa tới Nhật Chủ hoặc khí bổ trợ từ vận tác động. Trong tử vi thì luận đơn giản hơn vì dòng khí được biểu thị dưới ý nghĩa các sao. Khí ở mức độ bên ngoài tác động tới bản thân đương số,  đa phần tiếp thu dựa vào tư tưởng. Việc vận nước khí suy như thời phong kiến tức bắt đầu xuất hiện rối loạn trong quốc gia, giặc ngoại bang khí Sát vượng tác động tới tất cả mọi người dân trong một quốc gia như vậy. Phàm tất cả vạn vật có thịnh phải có suy, đến ngay như trường tồn như các ngôi sao khoa học cũng chứng minh sau khoảng thời gian rất lâu sẽ phải chết, tức bị loạn động và tan rã. Chữ trường tồn là tồn lại lâu dài. Vì vậy loạn là gốc của sự tàn yếu, loạn cũng là giai đoạn của sự phát triển. Người biết tử vi thì biết điểm yếu mà dụng từng dòng khí trong tư tưởng, để khiến bản thân có thể dụng được bố cục hợp cách. Khi khí hình của vận nước như việc chiến tranh xuất hiện,  có yếu tố loạn xuất hiện tức đã qua giai đoạn thịnh, tới giai đoạn suy, mang ý nghĩa bệnh hoạn, ở các nước như Philipin do khủng bố thì khả năng bản thân riêng rẽ từng người phải chịu tác động lớn của Sát tức cách cục này sẽ cao hơn, các Sát Tinh hóa khí Sát có ở những người mệnh thân hạn đang có đúng cách cục chiêu cảm về, mệnh chịu Sát sẽ dễ gặp nguy hiểm tới tính mạng do cách cục này, tùy thuộc vào mức độ Sát vượng, tức vị trí địa lý hoàn cảnh sống có gần nơi chiến loạn hay không, trong khi thời bình đa phần chỉ chịu áp lực.


Trong cuộc sống thì quan trọng nhất chưa phải là tài danh mà phải tránh được tai họa, đặc biệt là họa sát thân. Cần biết sức vượng của từng dòng khí của bản thân, khí vượng như Sát vượng sẽ có kẻ chế hóa được mà thành tựu như tướng lĩnh trong chiến tranh, những người kinh doanh thành công, lấy tĩnh chế loạn động đa phần là cách chế hóa tốt đối với Sát Tinh, nhưng việc như vậy là khó khăn về phẩm chất. Còn lại đa phần sẽ phải chịu kết cục là tai nạn này khác cho tới vong mạng. Linh Khí mang tới sự nhanh nhạy, nhanh trí, đây thuộc tính động phản ứng, trái với loạn, thuộc cách cục mang tính tìm giải pháp xử trí tình huống, có thể do may mắn hoặc do bản thân tự xử trí. Thường nghe tới việc cách cái chết trong gang tấc là trường hợp linh tính hoặc may mắn tác động lớn khi gặp nguy hiểm tới tính mạng. Mọi vật sống đều có tính Linh, tức gọi là Sinh Linh, nhưng thứ liên quan tới Linh khó dùng lời nói mà đa phần do kinh nghiệm để nhận ra. Như một trường hợp như bình thường có thể nhận biết ở những người có linh khí mạnh, mà biểu hiện ở tướng học thường là do tướng mắt, tướng mặt hay khí phát ra trong hành vi. Từ đó phân biệt ra mắt rồng, tướng mắt phượng,...Cũng một lời nói phát ra nhưng lời nói chứa sức nặng vô hình khiến bản thân nghe theo, có lời nói mang tính như lời đùa. Khí độ tôn quý là một đặc trưng của Thần khí, ở đây Thần khí tức khí độ của tinh thần. Bên Trung Quốc họ rất giỏi về việc nắm khí hình để luận cát hung, các môn Tướng Số và Phong Thủy đều dụng khí hình để đoán mệnh. Nếu mệnh tạo trong tử vi có Sát Tinh độc thủ kiến Kỵ Hình thì chắc chắn dòng khí này sẽ phát sinh ra, biểu hiện ra bên ngoài như chủ động sẽ hiện ra sát khí trên khuôn mặt, có thể nhận ra ở những kẻ sát nhân, hoặc khí cực loạn ở những kẻ tâm thần. Trường hợp còn lại ở thể bị động thì bản thân sẽ hiện ra tướng suy, tướng mạo có thể không có chữ Sát thể hiện mà đây là người bị chịu tai họa, tức bị giết hay gây thường tích. Trường hợp còn lại là kết hợp cả hai và đa phần là trường hợp này. Vì vậy bằng lòng nói thực ra rằng ở hiền chưa chắc gặp lành là đúng vậy. Quan trọng hơn phải tự bảo vệ, tạo ra một mức phòng vệ bên ngoài để tránh tai họa do Sát mặc dù bản thân là người lương thiện. Thực chất điều này do khí Sát của toàn thiên hạ phát động ra, tức ở mức độ Địa Kiếp, họa do toàn bộ trái đất. Kẻ ác thường lấy những người có vẻ bề ngoài yếu đuối như việc bọn buôn nội tạng bắt người để phục vụ mục đích táng tận.

Friday, August 25, 2017

Lá số Thiên Lương cư Hợi khá tốt




Lá số Thiên Lương cư Hợi khá tốt


Mệnh Hỏa vượng ngũ hành thuộc tính Âm có Thiên Lương thuộc bố cục Âm Dương Lương với cách Âm Lương hội Thái Dương. Bố cục này rất quan trọng sức sáng của Âm Dương ảnh hưởng toàn bộ bố cục. Cặp Âm Dương ở đây nhập cung Mùi ở vị trí không mấy hay, cát tinh hay trợ tinh gia hội cũng gặp phải nhiều khó khăn cản trở mới có thể thành tựu. Mệnh tạo có Âm Dương ngộ Kỵ thì tinh thần khá bất ổn định, được cách Lộc Tướng Ấn giảm khuyết điểm nhưng ở đây chữ cố gắng với điều kiện xấu của Âm Dương vẫn không phát huy được, tức đương số có cách chế hóa Sát Tinh biến thành lực kích phát không lớn. Mệnh Thiên Lương gặp Lộc Tướng Ấn tức Tướng Bệnh là cách chăm sóc cho người khác, xưa là lương y, nay là bác sĩ. Ngay cách vận hướng đi khí hình nếu bác sĩ đa khoa về Tây y khác với lương y thiên về y học cổ truyền hay đông y vì ở đây ảnh hưởng tới cách dụng Hóa Kỵ. Nếu theo Tây Y sẽ gặp phải cản trở về chữ bệnh tật ngay ở chính bản thân, là cách cục vướng thị phi do Hỏa Kỵ. Nếu theo nghề lương y thì cách cục dụng được Kỵ dễ biết được những y lý mang tính truyền thụ kinh nghiệm, có khuynh hướng thiên về các bài thuốc bì truyền hay cách chữa bệnh không chỉ mang tính khoa học. Mệnh Lương Quyền có Ấn ngộ Tuế Phượng thì ngay bản thân đã có cách cục nổi danh do sao Thiên Lương này. Đây là một trong các cách cục khá hay, còn được gọi là Quyền Khốc. Tuy nhiên do Âm Dương tính cát hóa bất vượng nên khó thành công lớn, tuy nhiên nếu đại vận tốt có thể nhờ đại vận mà kích phát. Mệnh Thiên Lương này khả măng bộc bạch, bộc lộ những quan điểm của bản thân khá lớn. Trong khi bên ngoài cái ta tiếp xúc có tính thâm trầm, sâu xa vì vậy ra ngoài đường dễ bị cảnh gặp nhiều những điều không được như ý với cách của mệnh. Chữ nông nổi không hắn đã mô tả tính cách vì còn cách Lộc Tướng nhưng đa phần có chuyện sẽ đưa ra mà không giữ trong bụng. Lương xung hay tọa thủ thì kiêm Thọ Ấm. Mệnh tạo như vậy trong ba chữ Phúc, Lộc, Thọ được chữ Thọ, trong điều kiện đại vận không quá xấu và vận nước không đột nhiên thay đổi. Tuy vậy nếu có tai họa tới thì mệnh tạo đa phần vẫn là người may mắn hơn người khác. Cái may của Thiên Lương khi nhập cách ở mức độ khó có thể tin là sự thật. Như việc " Phúc Ấm tọa mệnh bất phạ tai ương",cái may ấy lại đến từ yêu tố ngoài ta hay gọi là tâm linh khi mà Thái Âm luôn đi với Thiên Lương thành bộ tam hợp chiếu vĩnh viễn.


Năm 2021 tức 27 tuổi nhập cung đại vận Cự Cơ tại Dậu trong tổ hợp Đồng Cự Cơ. Gốc đại vận phối hợp với mệnh cho ra tính chất và tiểu vận năm này cho ra kết quả. Ở đây mệnh tạo luôn gắn liền với bày tỏ, may mắn hay không may. Thiên Lương tại đây hàm chứa bố cục xấu là Tồn Hỏa Kỵ. Đại vận Cự Cơ cư Dậu ngộ Không Kiếp Mã Phi là cách cục có tính động rất lớn. Hơn nữa ở đây Không Kiếp tính cực vượng, hóa sát bất cứ lúc nào biến Thiên Lương thành người gặp tai họa không may nhất. Đại vận Cự Cơ cư Dậu cho biết một chữ bất ổn và không tốt đẹp, đây là đại vận khó khăn với mệnh tạo, có thể dụng để tránh họa sát thân vào các tiểu vận xấu. Ở đây tiểu vận 2021 gặp bố cục VCD có Âm Dương Lương cũng khá tốt, năm này là năm may mắn hơn trong các năm của đại vận này. Ở đây vẫn tồn tại cách cát xứ tàng hung do bản cung đại vận là Cự Cơ rất kỵ có tính ổn định, thu giữ của Lộc Tồn. Sự thay đổi và bất mãn sẽ luôn tồn tại ở đây, năm này cũng gặp tai họa liên quan tới Lộc Tồn tuy nhiên không lớn, nếu luận về đường học vấn sẽ khả quan nhưng liên quan tới tiền bạc dễ thất bại, công danh cũng thăng trầm. Năm này may được sự ngưỡng mộ, và chữ may mắn của Thiên Lương sẽ cứu giúp lúc hoạn nạn. Cung Phụ Mẫu ở tử vi cái sai lầm của nhiều người nghiên cứu mà người viết đã nhắc nhiều ở các bài viết là nhìn cung đoán cát hung. Ở đây cái cung Phụ Mẫu phải nhìn với mệnh, thân, hạn. Và nếu có kinh nghiệm thì không ai xem phụ mẫu bằng cung này mà nhìn bằng cung đại tiểu vận mới đúng. Việc cha mẹ mất sớm thì khá khó xảy ra khi nhìn tại mệnh, tuy nhiên nhập đại vận Cự Cơ Đồng thì cách cục này biến đổi đa đoan, cần cẩn thận sức khỏe của cha mẹ trong vận này. Với bố cục tại Mệnh và vận 25 thì có thể đoàn tụ được nhưng cái mâu thuẫn,  sự không cùng chung tư tưởng, tức cự cãi sẽ xảy ra khi sống chung, việc này tùy đương số hướng đi, có khí dẫn theo cách cục đoàn nhưng khuyết điểm nhìn rõ là sự bất ổn, để tùy duyên thì tốt hơn.


Đại vận Cự Cơ này vào 25 tới 34 rất thất thường và chắc chắn sẽ gặp hoạch phát hoạch phá rất mạnh, bố cục này lại liên quan theo lệnh tức Thiên Lương. Sao này theo đường y học thì sẽ lên cao, tất nhiên đại vận này tuy thăng trầm thất thường, khi lên sẽ được uy tín lớn, tức cái danh sẽ có. Không thể xem năm mà nhìn ra được kết quả mà phải nhìn cái quá trình và nguyên khởi. Tức việc lên thạc sĩ khởi phát từ khi nào và trong thời gian nghiên cứu nhập cung đại vận nào. Như vậy sẽ năm trọn trong đại vận Cự Cơ này khả năng thành công cũng khá lớn vì cơ hội hoạch phát và may mắn đều có.
Chữ người thầy đã có mặt ở mệnh tạo, chữ được trọng vọng, ngưỡng mộ cũng có không sớm thì muộn, theo chiều hướng làm thầy giảng viên hay nghiên cứu tư nhân bên ngoài đều có tiếng tăm. Ở đây cần lưu ý về cách cục tâm linh, cần có một phần trong cuộc sống liên quan tới điều này thì Hóa Kỵ hay cách Hỏa Kỵ tác họa giam thiệt mà chuyển hóa ý nghĩa xuất ra về cách cục này, có thể nghiên cứu huyền học, tôn giáo, y học cổ, là cần thiết. Tiền có được nhờ công việc là thứ nhất, kế đến là do tài sản về điền sản cũng mang lại kết quả tốt, nếu kiếm tiền thêm bằng cách này thì nên cho thuê điền sản hoặc mua đi bán lại thay đổi nhanh chóng thì tốt hơn cứ ôm giữ vì cách cục ở đây rất động. Nếu không muốn theo cách trên thì biến cái nhà thành chỗ ồn ảo, nơi những người bị tai nạn ưa tới, tức là phòng khám, chữa bệnh là một yếu tố dụng cách cục. Hậu vận người viết sẽ luận ở phần luận sơ lược đại vận. Luận cung Phối như vậy cái cần luận là phối hợp mệnh thân với đại vận đi qua cung Phối tức đại vận thứ 3. Đại vận này hơi mang ý nghĩa bất ổn định, đường tình duyên không thông, việc xem vợ chồng dựa ngoại hình vào tử vi thì có phần thái quá, đơn giản nhìn được mối quan hệ và đặc điểm chính của phối ngẫu. Ở đây dễ thấu việc phối cung có khả năng quản lý chồng, khả năng cự cãi, tức cãi lý dẫn tới mâu thuẫn trong cuộc sống hôn nhân, tuy vậy Thiên Lương dù nông nổi cũng nên kiềm chế vì Cự bao giờ cũng thắng Lương.

Wednesday, August 16, 2017

Sát nhân với tính trái đạo của Không Kiếp




Sát nhân với tính trái đạo của Không Kiếp


Vào các bài viết gần đây thường đề cập tới Sát Tinh vì khí Sát hiện nay rất vượng do những bất mãn trong xã hội, tiếp xúc bạo lực từ thông tin mạng hay lợi ích đồng tiền nặng hơn đạo đức vì vậy những kẻ chịu tác động của sát tinh theo chiều hướng xấu ngày càng nhiều, chỉ một số cách cục là chế hóa được Sát Tinh tuy nhiên với Không Kiếp việc chế hóa không thể hoàn toàn. Cặp Không Kiếp được người viết luận qua nhiều bài viết vì đây là cặp đại sát tinh trong Tử Vi với sự tàn bạo và nghịch đạo đức của cặp sao này, tai họa hay những việc làm mang tới cho đương số là rất lớn, trong đó từ địa vị thấp nhất xã hội tới cao nhất là những vị vua, hoàng đế mệnh tạo sinh có cặp sao này cũng phải chịu những tai họa táng mạng. Một số kẻ thì chế hóa được cặp sao Không Kiếp này theo chiều hướng tàn ác, và cũng bộ sao mang tính chất của đại sát tinh này mang tính sát phạt và phản cục rất nặng, đương số chế hóa được cặp Không Kiếp cũng phải chịu tai họa không thể tránh khỏi. Vì vậy mới luận khi Không Kiếp ở vị trí tốt nhất là đồng độ tại cung Tị Hợi với câu phú " Không Kiếp Tị Hợi miếu vì hoạch phát hoạch phá tựa thì sấm ran". Tính hoạch phát hoạch phá của Không Kiếp tồn tại trong mọi trường hợp. Ở đây thường luận Phá Quân, Thất Sát, Thiên Tướng, Cự Môn có thể chế hóa được cặp sao này nhưng việc thăng trầm vô độ khi sự bất ngờ nằm ở tính chất của cặp sao này rất mạnh khiến tất cả các tổ hợp đều bị tác động theo chiều hướng xấu. Không Kiếp trường hợp tốt nhất là mất ít được nhiều, những việc không ngờ, chữ Không trong từ bất diệt, chữ bất này tốt xấu thay đổi liên tục vì mang tính phủ định cái xấu và tốt. Người viết đã nghiệm lý rất nhiều lá số có Không Kiếp đơn thủ hay hội họp thủ mệnh. Đọc trên các bài báo cũng tìm được một số người nổi tiếng theo nghĩa tốt hoặc xấu cũng có cặp sao này ở mệnh, đơn giản chỉ cần sinh tháng Hợi âm lịch nơi ngũ hành rối loạn sẽ có sao Thiên Không hay một số nơi gọi là Địa Không thủ mệnh và rất dễ đi với Địa Kiếp thành cặp Không Kiếp. Một trường hợp có lá số Không Kiếp thể hiện rõ tính chất của bộ sao này là kẻ sát nhân Armin Meiwes.


 Armin sinh vào ngày 1 tháng 12 năm 1961 tức ngày 24 tháng Hợi năm Tân Sửu. Là một kẻ sát nhân người Đức, nổi tiếng khắp thế giới vì đoạn phim ghi lại cảnh giết người đồng tính và ăn thịt đồng loại một cách bệnh hoạn. Cách Armin giết người đàn ông đồng tính kia lại nhận được sự đồng tình của ông ta. Tức ban đầu hắn lên trên mạng để thuyết phục tìm kiếm những kẻ đồng ý trên internet. Meiwes đưa ra một quảng cáo trên trang web “The Cannibal Cafe” với nội dung như sau: tìm một cá nhân có thể hình đẹp, tuổi từ 18 đến 30 để giết và sau đó ăn thịt…” . Bernd Jürgen Brandes đã trả lời mẩu quảng cáo này, cùng một số người khác nhưng sau đó họ đều rút lui lại những lời đồng ý để tên sát nhân ăn thịt. Quan trọng hơn là sau này khi xét xử hắn ta thì không thể khép vào tội giết người vì nạn nhân tự nguyện để hắn ta giết. Người mà nạn nhân trong vụ việc này là Bernd Brandes, một người đồng tính nam. Cả hai đã thực hiện đoạn phim này và nạn nhân cho phép tên này thực hiện hành vi giết hại vào năm 2001, khi đó tên này cắt dương vật của nạn nhân sau đó chờ cho chảy hết máu thản nhiên đọc sách và cuối cùng xẻ thịt nạn nhân để ăn dần. Đoạn phim được lưu trên mạng sau 10 tháng và cảnh sát tìm ra. Khi bị đưa ra xét xử thì ban đầu tên này chỉ bị mức án là 8 năm tù vì nạn nhân tự nguyện để bị giết. Sau đó vấp phải làn sóng phản đối từ dư luận nên cuối cùng tòa phải tuyên án chung thân. Xét trên việc hoàn cảnh bên ngoài thực tế thì hoàn cảnh gia đình của hắn tác động rất lớn tới việc gây ra tội ác này. Về công việc nghề nghiệp cách cục liên quan tới tin học máy tính tức hệ thống ảo có nhiều sự khám phá, sáng tạo là đắc dụng với cách cục Không Kiếp. Cách cục thuộc tin học rất ứng hợp với bộ sao Không Kiếp đi với Sát Phá Tham hoặc Thiên Cơ vì đây là cách mang ý nghĩa sự khám phá, đi theo lối mới hoặc cần liên quan tới máy móc, tính toán, dữ liệu là Thiên Coe. Tuy nhiên tên này lại chịu sự tác họa của Không Kiếp tới tâm thần rất lớn. Đây là tên sát nhân giết người nghiêm trọng bởi tính man rợn và kinh dị, có thể luận ra không phải việc này gây ra cái chết của kẻ khác như trong cách trường hợp bình thường là hỏa tính, các việc lợi ích tranh giành, tranh đấu vì tình cảm như thường lệ mà cách cục sát hại người này vì một lý do rất quái đản. Trong các sao trong tử vi thì việc ứng với các cách cục lý do khó hiểu mang tính dị thường về việc giết người hay tin tưởng một điều phi lý thường hướng tới gặp bởi cách cục của sao Thiên Cơ.  Ở đây đương số chịu tác động của gia đình, khi nghiệm lý các cách cục có sao Thiên Cơ thì nếu cách cục kiến ác sát đương số chịu rất nhiều khó khăn tác động tới tâm lý thời ấu thơ từ Thiên Cơ.


Thực chất vì sao Thiên Cơ luôn giao hội với Cự Đồng hoặc Âm Lương, khi xấu thì các cách cục này đều liên quan tới tình cảm gia đình, khi có Cự Đồng tức thuở nhỏ mâu thuẫn gia đình, khi có Âm Lương xấu thì sự không may, mất mát luôn thường trực. Cũng thường hay nghe việc những kẻ bệnh hoạn với đầu óc tâm thần thường có hoàn cảnh gia đình đầy rối loạn, với cảnh cha mẹ ly biệt chính là với các cục của Thiên Cơ xấu là bất ổn về tính cách, tâm lý. Trong cơ thể sao này chỉ bộ não, suy nghĩ vì vậy nếu cách cục phá cách gây ra tai họa rất lớn. Chỉ Thiên Cơ gặp Hỏa Tinh hay Linh Tinh đồng độ đã khiến cách cục biến đổi theo chiều hướng xấu, nếu gặp thêm Kỵ Hình tai họa không ở mức độ như vậy, đặc biệt cách Thiên Cơ ngộ Sát Tinh rất kỵ thêm Hỏa Tinh hoặc đại vận lưu tới sao này, hai sao Thiên Cơ và Thiên Lương rất kỵ Hỏa Tinh dù nhập miếu. Cách gây ra cách cục Sát của sao này cũng khác biệt như đã luận ở trên. Thiên Cơ giỏi việc tính toán, suy nghĩ thuộc ngũ hành Mộc, không hành động mang tính bộc phát như Sát Phá mà có chủ ý và suy nghĩ. Tên này đăng tải trên mạng việc cần thiết tìm một người tình nguyện hiến cơ thể để hắn ta ăn thịt. Vì vậy nên khi kết tội đoạn phim của hắn ta thì có việc nạn nhân đồng ý để hắn giết hại. Vì vậy ban đầu xét xử chỉ có thể buộc tội cho hắn ta 8 năm tù giam, sau đó do dự luận nên đề nghị mức án chung thân. Cách suy nghĩ và tư tưởng quái đản thường gặp ở bố cục của Tham Lang phá cách và Thiên Cơ phá cách. Nếu mệnh tạo có sao Thiên Lương ngộ Sát Tinh đặc biệt là Hỏa Linh cũng mang ý nghĩa dễ bị ảnh hưởng tâm thần nhưng theo chiều hướng tâm linh tức thấy những hình ảnh thánh thần, hay vong nhập, ảo giác khác với Thiên Cơ. Sao Thiên Lương có lương tính, tức tính thiện lương không phá cách nặng nề khó có thể làm việc tàn nhẫn, trừ trường hợp bị hoang tưởng dẫn tới như vậy thánh thần phán giết người hay gây thương tích cho kẻ này người khác, tuy nhiên trường hợp này nghiệm lý ít xảy ra vì vậy Thiên Lương thường chịu tai họa với bộ sao này.  Với cách Không Kiếp có thể được các Chính Tinh dụng được nhưng phá cách cũng rất lớn. Như cách cục trên nếu giết người ở trường hợp bình thường ý nghĩa khác hoàn toàn với những tư tưởng bệnh hoạn  tới mức phải lưu lại như một trường hợp nổi tiếng khắp thế giới. Ngay ở nước ta nhờ thông tin trên mạng hay tivi bằng hình ảnh cũng lộ diện những hung thủ tàn ác có khuôn mặt thư sinh, ẩn sau là những đầu óc quái đản. Vì vậy, mệnh có Thiên Cơ đặc biệt trong bộ Cự Đồng Cơ ngộ Sát Kỵ cần thiết cẩn thận với đại vận xấu, sao này rất dễ phá cách khi gặp Không Kiếp. Và mệnh có bộ Không Kiếp chữ khác thường trong tư tưởng dễ dẫn tới phúc hoặc họa liên tục xen lẫn. Điều này là quan trọng để nhận định việc nguy hiểm khi tiếp xúc với một kẻ có bề ngoài dễ gần nhưng bên trong bản tính là một kẻ bệnh hoạn trong xã hội để phòng tránh cho bản thân.

Sunday, August 13, 2017

Cái ác với cách cục sát tinh thực tế



Cái ác với cách cục sát tinh thực tế


Người viết đưa ra nhiều bài viết về Sát Tinh vì nghiệm lý thời nay thấy các cách cục chế hóa được Sát Tinh thành tựu rất lớn và có đặc điểm chung về tính chất, các sao gọi là cát tinh bổ trợ cách cục hóa Sát và đóng vai trò ổn định cách cục cũng rất cần thiết. Cách cục của chữ gian ác, việc bất lương không nằm ngoài bố cục của lá số tử vi có thể dự đoán được cũng như xem tướng hay tử bình có thể luận tính cách sát vốn có ở bản tính hay do một nguyên nhân của mỗi người. Sao Tham Lang luôn có Thiên Đồng nhị hợp. Vì lòng tham có nhiều kẻ bất chấp làm việc ác. Tuy nhiên con người bình thường đều khó có thể tự bản thân làm việc xấu vì lý do chữ lương của đa phần những đứa trẻ khi tuổi ấu thơ được dạy, vì vậy thường mọi việc làm xấu  có sự đồng lòng với nhau, vì một lý do chung được sự thông cảm là sao Thiên Đồng, tất nhiên vẫn còn các trường hợp làm việc tàn ác luận ở các tổ hợp khác nhưng cái ta hay gặp nhất là việc do lòng tham, ham muốn, tức vì một người khác hoặc có sự tham gia của nhóm người. Chữ Đồng luôn nhị hợp với chữ Tham như vậy suy ra thực tế ngoài xã hội không hề sai sót. Chữ Sát luôn tồn tại tiềm ẩn trong mỗi người đặc biệt là khi bị đe dọa, áp bức và trả thù, các lý do như vậy là nguyên do lớn của những việc tàn bạo. Người viết đọc tin tức gần đây vì những lợi ích của một đoàn thể nhóm người, hay lớn hơn là vì mang lợi ích của quốc gia mà các nước sẵn sàng sử dụng chiến tranh để tranh giành lợi ích đằng sau việc bảo hộ chính nghĩa như chống khủng bố, lý do trái phép xâm nhập quốc gia khác, cái kết là những sự chết chóc của dân thường, ngày nay phương tiện thông tin cho ta thấy cả hình ảnh của một đất nước đang bị tàn phá. Cổ nhân thường luận việc ác phải có phe, nếu mình bản thân gây ra việc ác thì là do tâm loạn mà tạo nên. Sự đồng lòng khiến một việc tàn nhẫn được thực hiện nhanh chóng hơn. Tử vi cũng phân việc này thành sự tác động của một lý do hoặc không có lý do.



Việc làm những hành vi như gây thương tích, tàn sát với người khác không có lý do thời hiện đại thường luận ở những kẻ sát nhân tâm thần. Trong tử vi có cách cục này nhưng chủ yếu do bị tác động lớn ở tâm lý rất lớn từ trước đó hoặc thuở nhỏ dẫn tới tính vô cảm bất ổn khiến đương số rất có những hành vi tội ác mà không ghê tay. Tướng học nhìn khuôn mặt mà luận ở tính Sát, rất dễ nhìn ở việc hung quang ở thần khí của mắt, hoặc kiểu mắt tam bạch đản, tứ bạch đản đều thuộc dạng này. Sát tinh do có sẵn ở bản tính thuộc dạng như vậy thuở nhỏ lại có thể phân thành hai dạng. Một dạng là quân tử và một dạng là sát nhân do bị chữ Sát ngay từ bản cung mệnh. Với dạng quân tử là cách dụng thuộc võ nghiệp cách đắc tùy theo mức độ dụng được Sát hóa Quyền mà luận bậc thượng, trung, hạ. Phần này chiếm số ít vì do hoàn cảnh và khả năng chính nghĩa mà hóa cái lợi ích nhỏ của sát tinh trở thành lợi ích lớn. Ở đây dụng Sát Tinh chứa chữ nhân trong chữ sát, lấy chính không tà vạy thì gọi là sở dụng, hạng người này tướng số cũng không giống như phần ở trên luận mà thường dung mạo phương viễn, khí độ quân tử, tướng mạo đoan chính thuộc cách cục này, tất nhiên vẫn có những trường hợp ngoại lệ nhưng đa phần khí Sát thể hiện rõ qua sắc diện. Thường cách cục này mang lý tưởng cao viễn mà lấy làm động lực, tuy nhiên dễ gặp tai họa do bị ám hại. Đặc biệt thường gặp ở mệnh Sát Phá đắc cách tuy phẩm chất tốt nhưng dễ bị mưu hại do chữ tình cảm và tính thâm sâu không được thể hiện ở cách cục này. Thực chất con người sống vì chữ danh và chữ lợi. Mệnh tạo dụng Sát thì chữ danh được chính vì vậy luận chính danh quân tử, những việc báo thù, tiêu diệt quân địch vì chính nghĩa do lý tưởng của đương số được luận vào cách cục này.



Trường hợp thứ hai là cách cục Sát do bản thân bị chịu áp lực tâm khiến Hỏa loạn cuồng động, cách cục này thường gặp ở những kẻ sát nhân ưa Sát. Ở đây có thể do quá khứ bị bạo hành tức mệnh dễ có Thất Sát hoặc do suy nghĩ có vấn đề tức bộ não, trí óc là Thiên Cơ gặp Sát Kỵ là cách cục này. Với trường hợp này do tính chất hỏa loạn động là gốc của Sát. Hỏa và Kim là hai hành quan trọng của Sát Tinh. Kim chứa tính Sát, chủ sắc nhọn, kim khí. Hỏa chứa tính cuồng, hóa loạn sinh ra làm việc không tự chủ. Trường hợp sát nhân thường ở trong trường hợp này mà ra. Trường hợp kẻ tàn ác vì lợi thuộc cách do Đồng nhị hợp Tham xấu ở trên. Các cách cục này thì cách cục Đồng Tham và cách dụng Sát hóa Quyền tượng quân tử có thể giành được thành công vì không bị đào thải do pháp luật, hoặc được quần chúng ủng hộ. Như việc buôn bán thực phẩm bẩn vì lợi ích riêng bản thân, buôn bán nội tạng người, buôn bán thuốc lá, bia rượu giả, bác sĩ thất đức đòi phong bì làm chết người,... rất nhiều được mạng truyền thông đưa tới thông tin nhanh để được biết về những hành vi này. Thời vận cũng rất cần thiết để luận một cách cục tốt xấu, ở thời này cách cục trên không gặp nguy hiểm do luật pháp chưa xử lý nhưng tới thời gian sau sẽ bị tù. Thời cơ do vận nước quyết định. Cái chuẩn so với đạo đức thay đổi liên tục qua những thời kỳ của xã hội. Người viết nghiệm lý qua các lá số thì cần thiết phải có cách cục luồn lách, giỏi việc linh hoat, mưu mẹo sẽ có được công danh. Chữ quân tử dường như đã mất đi một phần cách cục tốt đẹp khi dụng Sát Tinh mà dễ chịu bàn thua do tính chất thẳng không cong. Sát Tinh đã phần hóa về cách cục chữ Tài, tiền chi phối rất lớn và xuất phần cách cục ra thực tế khiến ý nghĩa thiên về tiền tài. Ngay phần bác sĩ trước kia mệnh Thiên Lương tốt đẹp, có từ tâm gọi là lương y cũng biến đổi tính chất vì chữ Tài. Vì vậy, các cách cục Sát Tinh dụng tài cách và hoạch phát dễ có được thành tựu nhờ nắm các cơ hội ở thời vận.

Sao Thiên Diêu trong bộ Hình Diêu



Sao Thiên Diêu trong bộ Hình Diêu


Sao Thiên Diêu được luận là một trong các bại tinh vì tính chất sa ngã về sắc dục của sao này. Thiên Diêu nằm trong bố cục Hình Diêu xét về tính chất của sao này thường dễ theo chiều hướng xấu, đặc biệt trong một số cách cục chủ đào hoa. Sao Thiên Diêu đồng cung với Thiên Y thành cặp Diêu Y. Hai sao này tính chất tương hỗ chủ về việc dễ gặp sai lầm khi thực hiện các công việc. Bộ Diêu Y là một trong ba sao thuộc Tam Ám gồm Diêu Đà Kỵ với Thiên Diêu là sao sai lầm, nhầm lẫn, cũng là sao ưa việc sắc dục nên mang hàm chứa tính Ám. Đặc tính cơ bản của sao này là sự nhầm lẫn, quá tin tưởng vào quyết định của bản thân mà không suy xét ở những việc làm dẫn tới tai họa do sao Đà La mang tính bị động và Hóa Kỵ là sự cản trợ, thất bại, tai họa. Nhìn chung cách cục Tam ám gồm Diêu Đà Kỵ là sự phối hợp tính chất của cả ba sao với Thiên Diêu là suy xét, Đà La là sự nghe theo và Hóa Kỵ là sự ngăn cản, thất bại dẫn tới cuộc sống thường gặp màu u tối do bản thân nghe theo những lời xúi giục mang tính tai họa. Sao Thiên Diêu trong các sao thuộc nhóm bại tinh là ngôi sao khó đắc cách nhưng tai họa cũng không lớn khi đóng tại bản cung mệnh.



Tai họa khi kiến Sát tinh nằm ở vị trí của Thiên Hình là luận bố cục. Thiên Diêu khi cư tại cung Mệnh đặc biệt là gặp Hóa Kỵ đồng độ tính tình thường cầu thả dễ gặp sai sót trong các công việc do nhầm lẫn dễ dẫn tới cách cục trở nên thất bại. Bộ Diêu Kỵ cũng chính là cách Kỵ Hình khi xét chung tổ hợp nhóm Hình Diêu Y giao hội với Hóa Kỵ. Ở đây do việc tính cách suy nghĩ qua loa lấy lợi ích để làm việc nên dễ gặp trường hợp vi phạm pháp luật. Sao Thiên Diêu có tính ham muốn rất mạnh, đặc biệt trong một số trường hợp cách cục giao hội theo chiều hướng xấu dẫn tới sự ham muốn về sắc dục rất lớn, thêm cả một số những thứ gây nghiện để thỏa mãn ham muốn nên việc công danh trễ mãi dẫn tới thời trẻ không xây dựng sự nghiệp nên thất bại. Tất nhiên sao Thiên Diêu có trường hợp đắc cách biến ham muốn sắc dục trở thành tham vọng về tiền bạc hay quyền lực. Thiên Diêu gặp Không Tinh tức hay gọi là cách Không Hình, đặc biệt là cách Tham Triệt hay Tam Không sao Thiên Diêu tính chất biến hóa tượng hoa sen. Cách cục này thường được luận với Thiên Diêu cư Mão Dậu có Phượng Các hội họp nhưng nghiệm lý các vị trí khác đều thể hiện tính chất này. Không Vong biến đổi tính chất sa ngã của Thiên Diêu trở thành cách cục tin tưởng một sự cao quý khi có Phượng Các, sao Thiên Hình là khuôn mẫu, Diêu Y biến đổi ý nghĩa thành thanh khiết, tuy nhiên cách cục vẫn phá vỡ nếu dâm tinh hội họp, đặc biệt là cách Cơ Diêu khiến toàn cục theo chiều hướng sắc dục rất mạnh trên cơ thể khác phái.


Ngay đại hay tiểu hạn ngộ Cơ Diêu cũng là cách dâm tình tự phát khởi, cách cục này ý nghĩa là mê đắm thân thể, cũngang ý nghĩa sự khởi dục của bản thân đương số khiến cách cục hay trong đại vận biến đổi theo chiều hướng mạnh này. Ngày nay việc tìm kiếm trên mạng những văn hóa phẩm đồi trụy và việc để những khái niệm về tính dục rất phát triển nên đa phần có thêt nhìn thấy sự chi phối của người bình thường về những thứ này. Sát Tinh chứa chữ Sát không mang tính chiến tranh như thời kỳ trước mà đặc biệt đóng vai trò của việc kích phát cách cục thoát khỏi những thứ dục vọng hay việc dành thời gian rất lớn sử dụng mạng để lên mạng xã hội hay đọc các báo chí, những bộ phim. Người viết nghiệm lý từ trước khi có việc xuất hiện phổ biến của các thiết bị kết nối là ở những năm khoảng 2008 trở về trước và trong những năm gần đây tính chất của Sát Tinh trở nên biến hóa, thay đổi. Nhiều cách cục kinh thương vẫn có thể ứng ở việc sử dụng công cụ thông tin lan truyền trên mạng để thực hiện kinh thương, tuy nhiên nghiệm lý cát tinh khó có thể thành tựu nếu không được Lục Sát và cách cục ham muốn lớn hỗ trợ. Đặc biệt với cách cục Hình Diêu, bản cung là Thiên Diêu chịu tác động rất lớn của thông tin trên mạng. Rất nhiều thông tin không chính xác để nghe và làm theo gây ra tai họa lớn. Thiên Diêu cũng chịu tác động của dục vọng rất lớn từ các trang mạng này, đặc biệt nếu sao này tọa mệnh hay ở cung độ đại vận thứ hai khiến việc khuyết thiếu kinh nghiệm có được từ đại vận khiến đa phần khuynh hướng tham vọng, lý tưởng không thành lập theo đúng hướng. Việc khuyết thiếu này có thể mô tả như việc thuở nhỏ không được giáo dục về các vi phạm pháp luật khi trưởng thành do không hiểu luật dẫn tới những vi phạm này.



Cách cục bị phá cách do sao Thiên Diêu rất lớn, tuy các sách thường luận đây là sao nhỏ tác động không gây ra biến đổi cách cục nhưng thực tế là khác do hiện tại việc tồn tại những thứ đồi trụy luôn chiếm một phần ở mức độ ngày với các hình ảnh quảng cáo hay những mạng xã hội. Sát Tinh dụng được cách Thiên Diêu đứng đầu là cách cục Hỏa Tham và Tham Linh. Lực cát hóa của hai cách cục này rất lớn, đặc biệt khi nhập cách không bị phá biến dục tính của Thiên Diêu trở thành khả năng hoạch phát về tài với Hỏa Tham và về danh với Tham Linh, tất nhiên ở cách cục này dùng dục để chế hóa dục. Nghiệm lý thực tế sao Thiên Diêu và tất cả các cách cục của Tử Vi hiện nay là cần thiết để tránh việc luận theo các câu phú hay sách mô tả xã hội xưa sẽ có khuyết điểm tại một số cách cục thay đổi. Ở cách cục Mão Dậu Hình Diêu tối cát cách này Thiên Diêu minh mẫn khi cư tại Hợi. Cặp Hình Diêu tính chất tổ hợp thường mang yếu tố hình khắc, đặc biệt khi hội Sát Kỵ nhưng đây cũng là cách cục hướng bản thân tới kỷ luật trong công việc là một yếu tố lớn để thành tựu. Đứng ở Thiên Diêu bãi nãi do sai lầm, vị trí Thiên Hình chủ hình khắc do tính chất. Với Thiên Diêu khi cách cục biến đổi trở thành sự tin tưởng, đức tin mang ý nghĩa tốt như tin vào thành công, tức yếu tố lạc quan khi đắc cách và có phương hướng là Thiên Hình để thực hiện, xấu là tin tưởng vào chữ thắng trong trò đỏ đen, không có phương hướng và đặt mọi sự vào may mắn. Thiên Diêu ở vị trí chủ động đắc cách khi hình thành bộ Tướng Ấn là cách Binh Hình Tường Ấn. Bộ Hình Diêu giao hội với nhóm sao này mang ý nghĩa cẩn trọng, chế hóa khuyết điểm của Thiên Diêu và ở đây cũng mang ý nghĩa về biểu tượng của một tổ chức nên được luận là hay. Tính chất khi giao hội nếu luận rõ thì việc gặp thêm Sát Tinh hay Tuần Triệt khiến biến đổi cách cục sẽ đưa ra phương hướng kết quả để tiến hành nghiệm lý được có gốc, không bị loạn.

Saturday, August 12, 2017

Luận bàng tinh phần tổ hợp cách cục



Luận bàng tinh phần tổ hợp cách cục



Người luận tử vi hay mắc phải khó khăn trong phần luận đoán các tổ hợp sao. Các tổ hợp sao vĩnh viễn tam hợp có tính chất đặc trưng riêng biệt cho từng nhóm sao, và quan trọng hơn việc biến hóa các tính chất do giao hội khiến các cách cục trở nên nhiều ý nghĩa khi giao hội chúng gồm các Chính Tinh và Bàng Tinh khác. Ngay trong phần nội tính chất của tổ hợp đã tồn tại các tính chất ý nghĩa của bản cung với các sao tọa thủ trái ngược nhau, như phần luận cung mệnh có nhiều tổ hợp sao và các Chính Tinh ở bản cung mệnh hoặc tam hợp. Các Chính Tinh dẫn đầu này không chỉ bản tính chịu tác động bởi Chính Tinh bản cung mà còn chịu tác động bởi Chính Tinh tam hợp, rất nhiều tính cách ẩn chỉ chờ vận và hoàn cảnh bên ngoài để lưu xuất ra. Vì vậy thường có khái niệm luận về mệnh tạo ăn vào Chính Tinh nào thì chịu tác động lớn bởi Chính Tinh ấy dù bản cung hay tam hợp, tuy nhiên cách này vẫn có thiếu sót, cũng chính vì lý do này khiến việc luận tổ hợp các Chính Tinh kết hợp Bàng Tinh giao hội có phần phức tạp hơn và rất dễ sai lầm so với việc xét riêng. Ở đây xét phần giao hội hoàn toàn do thế đứng bắt buộc của các Chính Tinh riêng, hay của Bàng Tinh riêng. Các tổ hợp sao tam hợp gồm cả Chính Tinh và Bàng Tinh với phần Chính Tinh là các cách cục như Sát Phá Tham, Tử Vũ Liêm, Phủ Tướng, Cơ Đồng, Âm Lương. Phần bàng tinh bao gồm như các cách cục sau Tuế Hổ Long Phù, Tang Hư Mã Khách, Phượng Khốc, Lộc Tướng Ấn Bệnh, Thanh Phi Phục, Hình Diêu. Cách tổ hợp này có đặc điểm chung là ngay bản thân mỗi cách cục đều có phần  khi xét tính chất riêng như mâu thuẫn ở tính chất mỗi sao, tuy nhiên khi xét chung tính cách toàn bộ tổ hợp lại mang ý nghĩa thống nhất biểu thị tính chất chung. Tất nhiên có trường hợp bổ sung tính chất lẫn nhau do tương đồng.



Xét ở ngay các tổ hợp sao có hai bàng tinh hay hai Chính Tinh như tồ hợp Chính Tinh gồm Âm Lương, Cơ Đồng và Phủ Tướng. Ở phần bàng tinh gồm Phượng Khốc, Hình Diêu. Thực chất ở tổ hợp Hình Diêu đầy đủ là Hình Diêu Y nhưng có thể lấy hai sao Hình Diêu vì Thiên Y đồng cung Thiên Diêu và có ý nghĩa cơ bản bổ trợ cho Thiên Diêu, luận Diêu Y như một sao có tính chất chung bổ trợ của hai sao. Cách cục Cơ Đồng gồm tính chất của hai sao là Thiên Cơ và Thiên Đồng, trong đó Thiên Cơ có tính chất đặc trưng là cơ hội, tính toán riêng, suy nghĩ lợi ích về cá nhân, lợi ích ngắn mang tính thời cơ. Với sao Thiên Đồng có tính chất làm việc chung, phúc hậu, lợi ích cộng đồng, xã hội chung, toan tính thâm sâu, lợi ích lâu dài. Hai sao này có nhiều tính chất khác biệt đối lập nhau và cùng ở trong một tam hợp chiếu là cách Cơ Đồng. Đây là phần xét riêng về bản cung của Thiên Cơ hoặc Thiên Đồng. Tới phần xét chung tổ hợp của hai sao này tức giao hội tính chất của hai sao thì nhóm Cơ Đồng có ý nghĩa về mô tả lợi ích bên trong một tổ chức xã hội, Cơ Đồng cũng là cơ hội tới chung với tất cả, là việc tìm kiếm những điều phúc thiện trong cái lợi ích riêng tư của mỗi người. Các tính chất khi giao hội chịu sự tác động của hai sao này. Trong trường hợp bộc lộ rõ nét là khi chịu tác động bởi Lưu Phi Tinh hay đại vận. Tức như khi giao hội Không Kiếp thì vì mục đích riền có thể bỏ mặc cái phúc thiện vì tập thể xã hội. Một trường hợp khác là vì đại nghĩa diệt thân, hy sinh cái bản thân để cứu giúp phần còn lại rất nhiều người. Cách Cơ Đồng luận quan trọng nhất là khi giao hội với ngay Chính Tịn bộc lộ tính chất cốt lõi, gồm hai trường hợp khi giao hội với Âm Lương hoặc với Cự Môn hình thành bộ Cơ Đồng Âm Lương hay Cơ Nguyệt Đồng Lương. Trường hợp thứ hai giao hội với Cự Môn hình thành cách Cự Cơ Đồng.



Với hai cách cục này rất đặc trưng cho tính cách vì liên quan tới Chính Tinh, tạo thành hai tổ hợp sao tách biệt, ở các vị trí chịu tác động khác của phần dịch đại vận bộc lộ tính chất ngay bố cục của các vị trí trong Cự Cơ Đồng việc Cự Cơ đồng độ hay Cự Đồng đồng cung mang tới tính chấy khác nhau của tổ hợp. Không phải là do vị trí này ngũ hành hợp như Cự Cơ cư Mão do nhập cung Mộc nên Cự Môn hành Thủy, Thiên Cơ là Mộc thuộc Thủy sinh Mộc gặp nơi Mộc nên phát, cư ở Dậu xấu hơn là cách giải thích khiên cưỡng, mang sở học giải thích ngũ hành dụng cả cung độ ngũ hành mà sai lý cơ bản của Tử Vi khiến việc truyền đời tử vi trở nên khó khăn do sở học lại đa năng thêm hiểu biết thêm các cách giải thích mới lạ sử dụng không liên quan tới tử vi, và đơn giản nhất để trừ bỏ các cách luận này là phần nghiệm lý là tối quan trọng. Ngay cả khi nhờ người có kiến thức tử vi luận cũng luôn cần tự xem xét với kiến thức bản thân đã có về môn này và tự suy diễn xem việc luận như vậy là đúng hay sai, không phải tất cả những người nghiên cứu tử vi đều có khả năng luận giải được lá số. Tiếp đến sau cách cục Cơ Đồng tới nhóm sao Âm Lương. Hai sao Thái Âm và Thiên Lương luôn tam hợp tạo thành cách Âm Lương. Cách cục này tính chất riêng của Thái Âm và Thiên Lương có một số phần đối lập với nhau. Thái Âm là ẩn, chù âm nhu. Thiên Lương là lộ, chủ sự bày biện. Hai sao này chịu tác động trở thành cách cục được sự che chở mang tính chất giúp đỡ âm thầm. Đây là một tính chất cơ bản trong nhiều tính chất của nhóm  sao này khi giao hội. Ở đây Âm Lương giao hội với Cơ Đồng như trên hoặc Thái Dương của nhóm Cự Nhật thành cách cục Cơ Nguyệt Đồng Lương hoặc Âm Dương Lương.

Friday, August 11, 2017

Sát tinh và cách cục biến hóa




Sát tinh và cách cục biến hóa



Sát Tinh trong tử vi là các sao hàm chứa tính sát, gây ra các tai họa liên quan tới những tinh chất đặc biệt của các sao này. Thường luận trong tử vi dùng tới Lục Sát Tinh, các cách cục này tổ hợp lại với các bàng tinh khác mà tăng cường hay biến đổi tính chất Sát. Đối với Chinh Tinh thì các sao Thất Sát, Phá Quân, Vũ Khúc đều có tính chất này. Chữ Sát nghĩa thực là gây thương tích, tổn hại nặng, đặc biệt là họa sát thân do các cách cục này mang lại. Xét về khả năng tác họa thì cặp Không Kiếp có khả năng đóng góp lớn nhất cho các bố cục của hạn chết, thứ tới là cặp Hỏa Linh, tiếp đến là Kỵ Hình và Kình Đà. Thực chất cặp Kình Đà không bao giờ hoàn chỉnh và ý nghĩa của cặp sao này không xấu như các sách luận, trừ khi cách cục biến hóa cực đoan do sự phối hợp với nhiều Sát Tinh khác. Trung bình thì mỗi người đều có ít nhất một Sát Tinh thủ mệnh hoặc tam hợp mệnh. Lưu ý việc thủ mệnh tức ở bản cung mệnh tính chất khác hoàn toàn với vị trí tam hợp mệnh. Với Sát Tinh thủ mệnh tính chất tác động rất lớn tới toàn bộ tính cách hay tai họa phải chịu của đương số, việc này rất cần chủ ý để phân biệt tác động trọng yếu trong bố cục lá số tử vi. Khi xét riêng là như vậy, xét chung ra toàn tổ hợp thì ý nghĩa khác.




 Trong một tổ hợp sao luôn có các sao mang tính chất được gọi là tốt đẹp và các sao mang tính chất xấu, việc cần là phải phối hợp về các sao để đưa ra ý nghĩa của toàn bộ cách cục. Phần này có thể dùng sự tác động các tính chất riêng biệt lẫn nhau của các bộ sao, tuy nhiên với các việc này cần nghiệm lý rõ ràng các trường hợp đắc cách và phá cách của các bố cục này để đưa ra điểm luận cát hung cho lá số. Sự tác động của trên lá số mang ý nghĩa khác và ngoài thực tế lá số lại dụng các cách cục này vào những hoàn cảnh tức mức độ dụng khí hình khác nhau. Điều này mô tả cho việc những nhiệm vụ, công việc được tư tưởng, lý tưởng của mỗi người trong xã hội tạo ra. Cho biết ra mệnh ở vị trí nào với mức độ khí hình sẽ gây ra ý nghĩa các bố cục trên lá số khi ra bên ngoài hoàn toàn khác nhau. Khí hình chính là mức độ tư tưởng hiện hữu, ở đây dòng khí trong tử vi dẫn dắt sự chiêu cảm bên ngoài và thành hình tùy theo mức độ lớn nhỏ của tư tưởng. Dễ nhận ra và hiểu rõ hơn như khí hình của hai người sinh đôi khi gốc ban đầu tiên thiên đa phần giống nhau khi bẩm sinh hấp thụ khí từ trong bụng, tới khi sinh ra và trưởng thành lên thì khí hình khác nhau do suy nghĩa khác nhau của mỗi người, càng lớn càng khác nhau cho dù ban đầu gốc tương đương nhau vì chữ hoàn cảnh tác động tới mỗi người khác nhau và tùy hoàn cảnh mỗi người đều dụng cách cục khác nhau. Cái đúng sẽ là nhịp đời tức ở mức độ rộng hơn sẽ đúng. Như người viết đã từng luận và chỉ ra sự giống nhau ban đầu của lá số song sinh, khi lớn lên do nhu cầu gia đình nghèo cân một người vào quân đội và điểm đỗ nên người anh vào trong quân đội, một người làm bên ngoài dân sự học về bưu chính khiến bố cục tách rời hoàn toàn tại đây do sự tác động của hoàn cảnh. Còn rất nhiều trường hợp khác và việc đơn giản khi xét một lá số phải nhìn mức độ khí hình tức tư tưởng của đương số, được nhận biết bằng tham vọng của đương số dù ban đầu sinh ở gia đình địa vị thấp, khả năng dùng tưởng thức để có thể nắm rõ được ước muốn tham vọng để thực hiện, hoặc mức độ khí hình tăng theo thời gian do tham vọng của bản thân tăng dần khi đạt được thành quả.




Tất nhiên đây là yếu tố của bản thân, còn yếu tố về bên ngoài như việc may mắn được một khoản tiền rất lớn khiến khí hình thay đổi dẫn tới dụng lưu xuất ra ngoài của bố cục trên lá số thay đổi về tính chất. Vì vậy thường xét khi luận là trường hợp bình thường ít gặp phải những tác động quá lớn, và nếu có sự kiện như vậy thì luận ở mức độ cao hơn. Người đứng đầu thiên hạ là vua cũng như vậy, gốc thụ khí hình ban đầu rất lớn, tư tưởng khác hoàn toàn người thường vì bản thân sinh ra đã có quyền lực cao, trên lá số tử vi khi luận sẽ ứng với mức độ khí hình ở hiện tại như vậy. Các chính sách an dân hay mở rộng đánh chiếm hoặc tính cách cư xử thường ngày việc nhìn trên lá số tử vi cũng ra. Viêc như câu chuyện bầy ong của vua và người nuôi ong biểu hiện cho bố cục trên. Dụng được Sát Tinh trở thành anh hùng và bị tính chất xấu của Sát Tinh tác động cho cùng một bố cục là điều hay gặp. Sát Tinh là bố cục rất cần thiết để luận lá số có khả năng vượt tới địa vị cao khi xuất thân bình thường. Ở đây Sát Tinh mang lại tính chất quan trọng nhất để tăng cường mức khí hình, là sự cạnh tranh. Vì vậy ta hay nghe thấy việc một người vươn lên vị trí cao hơn đơn giản là khi nhìn xung quanh ở các mức độ để phát triển.



Thường thì mệnh có Sát Tinh thì nhìn vào những người địa vị cao hơn và Cát Tinh nhìn vào những người địa vị thấp hơn. Sát Tinh có tính động tức sự hành động, tính nhanh nhạy và khả năng bạo phát, thiên về tính động và các Cát Tinh thiên về sự ổn định. Quan trọng hơn là mệnh chứa nhiều Cát Tinh khi nhập hạn hung hiểm tức chứa nhiều Sát Tinh sẽ gặp nhiều tai họa lớn, trong khi mệnh có Sát Tinh tới hạn Cát Tinh sẽ thành tựu vượt qua khó khăn. Một thí dụ dễ hiểu như các nhà chuyên sử học thường luận chiến tranh là công cụ để phát triển, sự mâu thuẫn là công cụ để hoàn thiện. Lưu ý chỉ xét về mặt thí dụ, không xét về tính đạo đức. Việc chiến tranh sẽ gây ra khó khăn về mọi mặt cho một nơi nhưng lại là động lực để phát triển so với việc nơi đó luôn có cuộc sống thanh bình, yên ổn sẽ ít bị thay đổi do không có động lực khó khăn. Sự mâu thuẫn khi tranh luận sẽ tạo ra phát triển cho một vấn đề và đây là cách xây dựng của tính chất Cự Môn. Cũng như vậy sự phá phách, gây căng thẳng là cách xây dựng của Phá Quân trong bộ ba sao đứng đầu Tử Vi, Phá Quân và Cự Môn. Chính như vậy các Sát Tinh trong thực tế luôn biểu hiện hai mặt và rất dễ nghiệm lý rằng mệnh Kỵ Hình Không Kiếp có người yểu tử nhưng có kẻ lại thống trị được xã hội. Quan trọng trong Âm cần có Dương và ngược lại. Cái tình trong chữ Sát hóa Sát Tinh thành chữ Quý. Cái sự nhiệt tâm trong Cát Tinh hóa thành chữ Thành. Cứ nhìn trong xã hội kẻ có chữ Tình trong chữ Sát là kẻ được lệnh, thành tựu lớn vì vậy gọi là Quý. Anh hùng hi sinh bản thân vì chính nghĩa cũng cần sự quyết tâm rất lớn.

Thursday, August 10, 2017

Bộ sao Âm Dương Lương và chữ tang tóc





Bộ sao Âm Dương Lương và chữ tang tóc



Bộ sao này như đã đề cập ở nhiều bài viết thuộc cách Âm Lương thuộc nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương giao hội với sao Thái Dương thuộc nhóm Cự Nhật, ở bên tam hợp cung xung chiếu còn lại ta gặp bộ Cự Cơ Đồng. Nhóm Âm Dương Lương này mang rất nhiều ý nghĩa, trong đó là cách may mắn người viết đã luận về tính chất, là sự kiện về ngày và đêm, về nam và nữ, tinh thần tình cảm. Tuy nhiên một tính chất quan trọng của cách cục này mà ít khi được ghi trong các sách nghiên cứu về tử vi là tính chất liên quan tới Phụ Mẫu của cách cục này. Lưu ý việc có bộ Âm Dương Lương khác với gặp bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương hay Cự Nhật, đặc biệt là khi Âm Dương Lương do xung chiếu mà tạo thành không thuộc cách này. Bộ Âm Dương Lương thường gặp ở cách Âm Dương Lương với cách Nhật Nguyệt cư Sửu Mùi tức với Thiên Lương cư Tị Hợi. Cách cục Thái Âm cư Mão Dậu, Thái Dương cư Tị Hợi khi đó Thiên Lương cư Sửu Mùi. Cách còn lại là cách Dương Lương cư Mão Dậu , Thái Âm cư Tị Hợi. Các cách cục này đều tập trung ba sao Thái Âm, Thái Dương và Thiên Lương tại các cung Tị Dậu Sửu và Hợi Mão Mùi vì các cung còn lại thì cách cục Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật đầy đủ. Bài viết muốn nêu tính chất liên quan tới phụ mẫu của bộ Âm Dương Lương, ở đây là cách cục chỉ việc cha mẹ khi tuổi đã già.



Thiên Lương là ngôi sao chủ già, tuổi thọ cao vì vậy nên sao này thường có ý nghĩa lương tâm, lương thiện vì người già cả cao tuổi thường sắp đến tuổi ra đi hiểu rõ chứ tham vọng, sự đời và chuyện đời hơn các ngôi sao khác. Cách cục Âm Dương Lương đầy đủ ở mọi vị trí trên lá số đều chỉ những người già cả như ông bà, cha mẹ mỗi người. Cái quan trọng là cách cục Âm Dương Lương trừ vị trí Dương Lương cư Mão và Thái Âm cư Hợi có tính cát hóa dụng được Sát Tinh phá cách nhẹ còn lại các cách cục khác dễ bị phá cách và tiểu hạn hay đại hạn đi qua cách cục này dễ xảy ra tai nạn cho người thân của ta  đặc biệt khi bản thân đương số càng lớn tuổi, tiểu hạn tới bộ sao này kiến Sát Tinh trùng trùng qua nghiệm lý thường gây ra cách cục tang tóc tới cho người thân, đặc biệt khi Âm Dương cư Sửu Mùi tức Thiên Lương cư Hợi. Cách cục Âm Dương Lương rất kỵ gặp hai sao Kình Hao và Đà Hao, chủ sự chia cắt, chia ly từ biệt với cách cục này khi Âm Dương đầy đủ gặp bộ Kình Đà thì tính chia rẽ rất lớn. Sao Hỏa Linh đặc biệt khi có Thiên Hình cũng đóng góp rất lớn cho cách cục này trở nên tai họa về mặt người thân, Hỏa Tinh mang tính cấp thiết, cũng chủ sự nhanh chóng, nếu có thêm Thiên Mã tức cách cục Tang Mã Khách càng rõ ràng. Cặp Không Kiếp trong cách cục này xét không tai họa bằng hai cách cục trên vì Âm Dương có thể dụng một phần Không Kiếp nhưng tối kỵ việc có thêm Hỏa Linh Kình Đà tai họa triển miên khi nhập tiểu hạn. Âm Dương Lương trên lá số tử vi có sức ảnh hưởng rất lớn tới mệnh tạo vì liên quan tới ngay họ hàng của đương số và bản thân. Nếu cách cục này tốt đẹp, vị trí Âm Dương ở nơi sáng đắc địa và tránh được các cách cục xấu thì cuộc đời sẽ tốt đẹp về mặt tinh thần, phần phụ mẫu che chở giúp đỡ bản thân được nhiều trong cuộc sống. Cũng vì vậy mà cách cục tinh hệ Tử Vi cư Ngọ là tinh hệ tốt đẹp nhất của lá số Tử Vi khi cặp Âm Dương biểu thị tính hấp thu cực vượng trên lá số. Âm Dương thể hiện hai mặt của các vấn đề và chủ sự nhiệt huyết, sự may mắn của bản thân nên rất cần ở vị trí sáng để gặp thuận lợi. Tuy nhiên không phải bộ Âm Dương tại vị trí tối là xấu, ta lại hay gặp những trường hợp vượt qua khó khăn một cách phi thường, hoặc dụng được chữ Quyền trong bóng tối hay kiếm lợi ích từ thời buổi âm dương tức trời đất đảo lộn. Việc Âm Dương ảnh hưởng tới phụ mẫu và Thái Âm trực tiếp ảnh hưởng tới cả hai trong khi Thái Dương ảnh hưởng lớn tới người đàn ông. Âm Dương Lương là biểu tượng của sự hiền hòa, khi xấu theo chiều hướng khác nhau tùy thuộc vào các cách chế hóa Sát Tinh, đôi khi ta thấy Âm Dương Lương hỗn loạn và tạo thành cách cục bất lương, tính cách thất thường. Cách cục bất lương khi Âm Dương Lương xấu cũng là một cách để dụng bộ sao này và tất nhiên đi kèm với chữ Sát luôn xác định có thêm chữ Phản. Thực chất dụng Sát Tinh giống như con rắn, có hai trường hợp mô tả độc, một là bị mắc phải độc và trường hợp còn lại con rắn chứa nọc độc để tấn công hay phòng thủ.





Việc ta hay thấy ngoài xã hội là kẻ ác lại thường ít chết hơn người hiền lành chẳng qua do cách này tạo ra. Hạn Sát bản thân chịu bị động là các chịu tai họa, nếu cách chủ động là gây tai họa cho kẻ khác. Tuy nhiên do Sát Tinh chứa chữ phản, mang tính phục phản nên ta lại hay thường nghe kẻ ác đã bị trừng phạt. Thí Như trường hợp rắn độc săn mồi các con vật khác và cũng bị những loại săn mồi khác ăn thịt. Một sự thực rằng có khá nhiều phần các trường hợp dạng theo ác được lợi ích lớn hơn chữ hiền lành và lại ở vị trí quyền cao, ít chịu tai họa lớn cho tới khi xuống huyệt. Như hổ thống trị ở rừng không ăn cỏ, khủng long thống trị thời quá khứ của thế giới, việc có nhiều vua chúa do tính thống trị lớn lại mang sự tàn ác tới dân chúng hay luôn có ý định xâm chiếm tới nơi khác bằng dụng binh để tăng quyền lực. Rõ ràng trong một sự tổ chức, một quy mô hay xã hội luôn tồn tại những dạng như vậy và các vị trí phân công cũng chính là tự kiềm chế lẫn nhau. Những vai trò như vậy là cần thiết và khi Thiên Cơ tức thời vận bỏ chúng đi sẽ biến mất sau đó. Như việc khủng long tuyệt chủng, hổ cũng không còn nhiều, chế độ phong kiến đã mất thay đổi công bằng hơn. Sự đòi công bằng, thực hiện công việc, khám phá sai lầm gồm Tử Vi, Phá Quân và Cự Môn cứ như vậy tiếp diễn. Qua nghiệm lý rất nhiều năm mới nhận ra ở tính Sát của con người là kẻ ác nào cũng có một lý do như chính đáng hướng thiện về việc làm của bản thân để không ngại thực hiện. Và kẻ có lý tưởng cao nhất cao đẹp là người đứng đầu trong xã hội, không phải người hiền lành vì người hiền lành có rất nhiều khuyết điểm, lớn nhất là tính quyết tâm, khả năng nỗ lực vượt qua khó khăn mà sát tinh mang lại và lấy lý tưởng cao viễn làm mục tiêu để thực hiện, đây là bản chất tốt nhất của cách Tử Vũ Liêm. Trong khi Âm Dương Lương thường ở mức phò tá và khó có khả năng lãnh đạo. Như lý tưởng sẵn sàng sử dụng chiến tranh để bảo vệ đất nước liên quan tới nòi giống về sau, bảo vệ tránh bị làm nô lệ nhìn có thể luận tính Sát ở đây là ác, nhưng lý tưởng là chính đáng, cao đẹp. Tất nhiên là lý tưởng có nhiều phần tốt với kẻ này, xấu với kẻ khác. Tuy nhiên, cái nhân quả thì tuần hoàn và vòng tròn trường sinh thì luôn quay biểu hiện rõ trên lá số tử vi của mỗi người. Câu hỏi là liệu có như con người hay mơ tới là nơi địa ngục để trả tội và thiên đường để hưởng phúc tích tụ hay không. Và một số ý nói địa ngục là ở đây trên thế giới sinh ra tức những kẻ chịu tội bị áp bức, thiên đường là kẻ hưởng phúc tại đây. Mệnh có một số sao tổ hợp lại sẽ thấy những điều kỳ lạ và cá biệt bản thân có khả năng ấy. Điều hay ho là sao Hóa Kỵ thường mang ý nghĩa xấu lại liên quan tới cách cục này. Ngay cả bộ Âm Dương Lương cũng cần thiết.

Wednesday, August 9, 2017

Không Kiếp tạp luận phần giao hội




Không Kiếp tạp luận phần giao hội



Bộ Không Kiếp luôn được in đậm khi luận giải trên lá số vì tính chất của cặp sao này không đơn giản mà biến hóa phức tạp. Là cặp đại sát tinh gây nên sự khác thường về mặt tính cách cho đa phần những người sinh ở tháng Hợi. Các lá số mệnh tạo có Thiên Không tọa thủ mệnh khi sinh tháng Hợi luôn phải tự hỏi về mức tác họa của Không Kiếp khi hai sao này tam hợp chiếu hoặc đồng cung với nhau. Trường hợp xung chiếu cung Dần Thân lại mang ý nghĩa khác. Đặc biệt mệnh có Thiên Không tuyệt đối không lẫn lộn với mệnh tạo có sát tinh Địa Kiếp tại bản cung mệnh. Hai sao Thiên Không và Địa Kiếp người viết đã đưa ra các tính chất khác biệt hoàn toàn khi nhập tại cung Mệnh. Và hơn hết mệnh tạo có bộ Không Kiếp các sách viết theo thiên hướng xấu tức mặt tính cách theo chiều hướng bất thiện thực chất là sai lầm khi các sách được tam sao thất bản mà không có phần luận tổ hợp. Ngay cả các câu phú các sách luận cũng thường cho Không Kiếp là cặp sát tinh mang ý nghĩa xấu về tính cách. Ở đây cần xét chỉ riêng tính chất của hai sao này chưa có bàng tinh giao hội cũng khác biệt  tại vị trí, ứng hợp với hoàn cảnh, khí hình của cách cục. Trong nhiều phần trường hợp thì Không Kiếp là người phải chịu tai họa, tai kiếp, hay bị kẻ khác gây áp lực, đè ép không phải bản thân. Tức Không Kiếp một là kẻ dụng được cặp sao này, mang tính chủ động và thứ đến bị hai đại sát tinh này gây hoạ. Thường thì ta hay gặp trường hợp xen lẫm khi chịu tai họa, khi dụng được bộ sao này gây nên tính thất thường, luận là thăng trầm vô độ. Một Không Kiếp tại mệnh đắc cách thì không phải và cũng hiếm khi gặp trường hợp luôn thành tựu, biến Không Kiếp phải phục tùng cho cách cục chính yếu, mà chỉ cần  cách cục ở thế cân bằng hoạch phát khi gặp đại hạn tốt. Cặp Không Kiếp ưa gặp nhất là vòng Trường Sinh. Ở vị trí đồng cung với Trường Sinh thì lực cát hóa trở nên lớn hơn so với bình thường. Không Kiếp Sinh Vượng hướng cách cục ít khi đổ vỡ phải gặp cách mạng vong khi có bộ sao này. Tất nhiên là trong trường hợp không phá cách nặng nề thì cách cục này là một yếu tố tốt để dụng được. Ở trường hợp này chỉ xét trên bố cục của sự giao hội trên lá số, về yếu tố liên quan tới cách cục chiêu cảm gắn với thực tế thì tùy hoàn cảnh mà luận. Nhiều Không Kiếp cách cục vững khá mạnh nhưng phải chịu cách tai họa nặng nề do thực tế bên ngoài ứng với cặp sao này mang ý nghĩa xấu. Hau gặp nhất là cách Không Kiếp Mã Hình là cách cục không mấy xấu nhưng nếu bản thân theo công việc mà hành động cần thiết phải chuyển động trên đường thì chuyện dễ gặp phải tai nạn giao thông là ứng hợp với cách cục. Cùn với tổ hợp này có người lại làm việc với những đồng tiền giữ vai trò vận chuyển tiền, làm trong ngân hàng lại mang ý nghĩa khác. Cũng với bộ sao này với người trong tù rất lâu mang ý nghĩa khác, với người tu hành ở trên núi ẩn dật lại mang một tính chất ứng riêng biệt. Vì vậy, cách ứng với mệnh gọi là khí hình là khác nhau, người may mắn gặp đúng chữ Thời, hội đủ Thiên Địa Nhân hòa là thành tựu. Lá số tử vi ứng với mỗi người khác nhau do tư tưởng khác nhau, ngay cả cách cục Không Kiếp cũng như vậy. Nhưng để dụng được hai đại sát tinh này cho phù hợp thì hiểu rõ tính chất toàn bộ bố cục và ý nghĩa bên ngoài thực tế là cần thiết. Cách Không Kiếp Mã tức khi Không Kiếp gặp bộ Tang Hư Khách mang ý nghĩa thiên về thật giả, đồng cung với Tang Môn và Thiên Hư khác hoàn toàn khi đồng cung với Thiên Mã. Với cách Không Kiếp Mã đặc biệt khi cư tại Tị là cách phối hợp đặc biệt rất hay, mang ý nghĩa sự chuyển động liên tục và đột biến, khó khăn càng lớn sức nghị lực càng mạnh và quan trọng hơn cặp Không Kiếp này mang ý nghĩa sự linh hoạt thích nghi. Không Kiếp Mã cư Tị không gặp phải Phượng Khốc vì vậy không mang ý nghĩa xấu tới  bản thân. Lưu ý việc tất cả các bàng tinh hay cát tinh khi cách cục bất hợp giao hội thêm một sao gọi là cát tinh dẫn tới tai họa, có thể dẫn tới vong mạng. Ngôi sao Phượng Các luôn nằm trong bộ Phượng Khốc thường được vinh danh bởi tính chất được ngưỡng mộ, cao quý của sao này nhưng nhiều trường hợp lại chính là Sát Tinh nặng nhất biến cách cục trở về chữ Vong theo đúng nghĩa. Nếu nắm rõ tính chất của các sao này thì thường thấy trong các cách cục chết rất nhiều trường hợp gặp bộ Phượng Khốc. Thường thì người xem hay nhìn vào vị trí Phượng Các mà ít chú ý tới Thiên Khốc. Trong nhóm sao này tồn tại hai sao tính chất khác nhau khi xét riêng nhưng khi xét ở tổ hợp thì ý nghĩa lại hoàn chỉnh nếu tốt là được kính trọng, tin cậy, ngưỡng môn. Nếu xấu là cách tiếc thương người thì thường cũng dành kính trọng cho người đã khuất. Bộ Không Kiếp đi với Phượng Khốc cần rất lưu ý. Thực chất cách Lộc đảo Mã đảo ngộ Không Kiếp xấu cần thiết có thêm Phượng Khốc, tạo nên cách cục kỷ vật, ký ức cho người sống khi Lộc Tồn gặp phải Không Kiếp và Tang Mã Khách là cách cục tang tóc có người đến phúng viếng, lưu lại ký ức xưa với người đã khuất núi. Mệnh tạo nếu có Không Kiếp đi với cặp Kình Hao, Đà Hao và Thanh Phi Phục được đánh giá tốt hơn. Đặc biệt là các Kình Hao, tuy nhiên nếu có Kình tối kỵ thêm Hỏa Hình hoặc ngay chỉ Hỏa Tinh cũng mang họa vì tăng cường tính thất thường của Không Kiếp và cách Kình Hỏa đến nhanh tai họa khó chống đỡ. Mệnh cách có Không Kiếp gặp cách Đà Hao thì dễ phải chịu đựng một tai kiếp nào đó lâu dài, cũng là cách cục thâm trầm. Cách này có khuynh hướng khó dụng cặp Không Kiếp hơn khi đi với Kình Dương. Không Kiếp nếu có Kình Mã Sinh Vượng hoặc Binh Hình Tướng Ấn là cách cục hay, phần còn lại tùy thuộc vào chủ tinh tọa thủ tại bản cung có hợp cách hay không. Mệnh có Không Kiếp thì cái bất thường gây ra ở hạn rất mạnh, thường hay xảy ra việc cung hạn khá tốt đẹp nếu chỉ xét cách cục của bản cung hạn và tam hợp, tuy nhiên khi mệnh Không Kiếp đi qua nếu bất hợp cách thì mang lại tai họa mặc dù hoàn cảnh tốt, nhưng bản thân tự gây tai họa hoặc những việc bất ngờ cho mình.

Sunday, August 6, 2017

Luận tử vi lá số sinh mổ




Luận tử vi lá số sinh mổ


Luận giải Tử Vi quan trọng nhất việc giờ, ngày, tháng, năm sinh tức tứ trụ hấp thụ khí ngũ hành qua Thiên Can và Địa Chi tới bản mệnh. Vì mức độ quan trọng của việc đúng giờ sinh sẽ lấy ra được một lá số tử vi nên xuất hiện việc sinh mổ chọn giờ sinh để có được lá số của con thật tốt số. Tất nhiên đây là việc chính đáng vì bản thân người làm phụ mẫu quan trọng tử tức hơn cả bản thân của mình, luôn muốn những điều tốt đẹp và yên ổn không gặp tai họa cho con cái. Tuy nhiên khi nghiệm lý rất nhiều lá số sinh ra theo cách sinh mổ thì thấy rõ việc các lá số có sự sai biệt khá lớn khi khán các cung hạn và thông tin trên lá số tử vi. Cách hấp thụ khí hóa ngũ hành sẽ được định lá số của con cái có liên quan tới tất cả  người thân và tác động tới xã hội xung quanh trong suốt cuộc đời của đương số. Trên thực tế lá số tử vi cũng phải tuân theo quy luật của khí hình, mà người ta hay hình dung dưới dạng phúc khí của dòng họ hay lá số của người quan trọng như con vua sẽ có vận khí ngang vận nước, tức sức tác động như vận nước. Thực chất khi xem những người giàu hay địa vị bây giờ trên mạng và trên truyền hình luôn có cả khuôn mặt và biểu hiện các hành động như một phần thông tin của những người địa vị cao gồm cả Phủ và Quý. Tất nhiên điều ta dễ nhìn ra rằng trong gần 100 triệu người sẽ có rất nhiều người có cách cục xuất chúng, tốt đẹp nhất như một trường hợp là Tử Vi cư Ngọ ngộ Khoa Quyền Lộc không sát tinh xâm phạm sẽ là lá số của thiên tử. Tuy nhiên thực tế ngoài đời thực thấy những người đứng đầu trong một quốc gia nhìn ở mức độ hình tướng không được như lá số đẹp đắc thượng cách mô tả. Cái mấu chốt ở đây không liên quan nhiều tới việc lá số tốt hay xấu mà phần quan trọng đầu tiên của một lá số ở mức độ khí hình vượng suy ban đầu gắn với hoàn cảnh thời thế. Vì vậy mới xuất hiện việc thời thế tạo ra vĩ nhân tức người đạt thành tựu lớn. Vì vậy một phần khiến các lá số xấu trở nên tốt đẹp do khí hình của bản thân tốt, tức dù lá số không đẹp, cho tới xấu nhất là yểu cách nhưng khí hình vượng thì mức độ ảnh hưởng của toàn cách cục là lớn tới xã hội, tức bản thân mệnh tạo là mệnh lớn. Cũng như việc con vua lại làm vua, có kẻ gọi là thái tử lá số sáu mệnh yểu tử hay bất tài nhưng bất luận như người thường. Phần này đa phần do bên ngoài lá số tử vi, tức bẩm sinh thụ khí được, hoặc được từ phụ mẫu với địa vị cao, điểm xuất phát ban đầu của tư tưởng sẽ lớn hơn kẻ khác. Một đại phú hộ đã bẩm sinh con sinh ra được ngưỡng mộ bởi tiền và tương lai của đứa trẻ ấy sở hữu mà không cần Khoa hay Phượng Các. Cái khí thụ này do phụ mẫu xây dựng nên, một số trường hợp khác do bẩm sinh thiên hướng xuất sắc về một vấn đề khiến mệnh tạo dụng được cách cục trên lá số. Khí hình của chính bản thân đứa trẻ là phần thứ nhất quan trọng đánh giá cuộc đời của đứa bé đó, phần này có sự khác biệt rõ ràng, mỗi địa lý và nhận thức thụ khí tư tưởng giữa các quốc gia sinh khác nhau. Khi mổ lấy lá số cũng chỉ nằm trong cái duyên khiến đứa trẻ ra theo thời khắc và các hành động và thời điểm lúc ấy sẽ tác động lên cơ thể đứa trẻ, dẫn tới tính cách sau này. Các hành động cắt dây rốn vào thời điểm cũng ảnh hưởng tới tính cách sau này vì theo khoa học là việc hấp thụ chất ban đầu cho sự phát triển não và các bộ phận. Tất nhiên xét với lá số tử vi sẽ khác với thời điểm để tự sinh ra khi đúng thời điểm.



Việc tính cách ứng với lá số vào giờ sinh mổ cũng không xác thực ở tính đúng, mà đa phần luận không chính xác so với bên ngoài của đương số. Phấn tiếp theo ở vấn đề lá số tử vi sinh mổ. Lá số tử vi sinh mổ có thể hoàn toàn tìm ra một lá số tốt đẹp về bố cục, cũng có thể tìm ra một lá số tốt đẹp nhất, thành công lớn để mong con cái được thành đat sau này. Thường nghe thấy việc sinh ba khác trứng hay sinh đôi khác trứng là sự khác nhau về mức độ của tinh khí khi được hấp thụ và dẫn tới việc hai đứa trẻ khác nhau. Người ta hay gọi là việc gien của các tinh trùng mang di truyền khác nhau. Các tinh trùng theo y học đông thì xuất phát từ việc tích lũy khí từ Thận môn, do tính hấp thụ khí nên bẩm sinh các tinh trùng chứa khí hình khác nhau. Ở mức độ khi chưa sinh đẻ thai và trong quá trình tụ thai sẽ chịu tác động của ngũ hành và âm dương tạo nên một phần của bản tính. Cuối cùng như tự nhiên khí hấp thụ các phần ngũ hành âm dương đầy đủ. Trong trời đất thì Âm Dương trước ngũ hành. Khi cái gọi là giao hợp Âm Dương dẫn tới có thai thì ngay lúc kết hợp xong đã hình thành giới tính Âm Dương cho đứa trẻ. Vì vây, lá số tử vi bắt đầu đã có biểu hiện ngay từ đây ở phần giới tính, tức chọn nữ mệnh hay nam mệnh. Lá số tử vi bắt đầu hoạt động ngay khi Âm Dương đã khởi phát. Ngày nay việc khoa học hiện đại có thể siêu âm giới tính trước khi đứa trẻ sinh ra. Sau khi Âm Dương khởi phát do giao hội, trước đó một phần nhỏ sẽ thuộc về chữ Không, ở giai đoạn Không này tính chứa đựng rất lớn. Đứa trẻ khi Âm Dương mới phát khởi từ Không thì cũng vẫn sử dụng Hành Ấm, chưa thể dụng Tưởng Ấm, Thức Ấm vì cơ thể chưa có điều kiện để dụng hai thức này. Cũng như việc một đứa trẻ ra đời đã điếc, thì sẽ dẫn tới câm, và nếu nó mù thì sẽ không thể nhận thức được thế giới xung quanh do Thức Ấm không có cái dụng, Tưởng Ấm không có cái để thu. Đứa trẻ trong bào thai cũng như vậy, chịu tác động của thân ngũ hành rất nhanh sau khi Âm Dương khởi tạo và do ngay tính chất hấp thụ của Phần Hồn, hay có thể hiểu là bộ gien của người khi nhỏ thì chỉ là một chấm nhỏ gồm tinh trùng và trứng nhưng dù hấp thụ như bình thường sẽ phát triền thành hình dạng và tính cách khi lớn lên, ngay cả bệnh tật bẩm sinh khi nhìn vào gien của một người. Từ một kích thước rất nhỏ không hình dạng ấy là bào tử, nếu bị sai lầm ở cái gọi là nhiễm sắc thể 21 sẽ bị ung thư máu khi lớn lên trưởng thành và sẽ phát bệnh khi cơ thể yếu. Âm Dương và Ngũ Hành hoàn thiện dần không phải khi sinh đẻ mà đã chịu trong quá trình hấp thụ khí từ khi thai nhi, và cái gọi là bản tính tức tính cách của đứa trẻ cũng đã phát sinh rất sớm. Khi đứa trẻ tách ra khỏi bụng mẹ thì cũng là lúc linh tính khởi phát rất mạnh, ngay khi chào đời hấp thụ ngũ hành rất nhanh chóng. Khi sinh ra thì lấy lá số tử vi dựa trên giờ sinh sẽ cho ra kết quả thiên hướng bẩm sinh. Thực chất lá số tử vi cũng chỉ là cách mô tả về âm dương và ngũ hành ở ngay tại thời điểm như vậy, và không phải yếu tố này ở bên ngoài mà là sự hấp thu của bên trong của đứa trẻ. Thực chất một lá số tử vi là mô tả về tính cách, những sự kiện quan trọng về cuộc đời nhưng người chưa nghiên cứu sâu về huyền học có thể chưa rõ bản chất của Tử Vi và rất coi trọng giờ sinh tuy nhiên lại nhầm lẫn không có hiểu biết sâu về lý số, từ đó sinh ra việc tạo ra lá số tử vi theo sinh mổ. Thực chất chỉ cần nhìn năm sinh, tới tháng sinh cũng đã cho những dự đoán ở mức độ khái quát về bản tính. Như việc sinh tháng Hợi tức tháng 10 thì mệnh bất thập toàn, khó có thể nhắc tới sự ổn định với mệnh này. Cũng như việc quả chín ép và quả tự chín, tính chất khác nhau hoàn toàn. Lá số sinh mổ khí còn chưa hấp thụ hết chưa bàn tới lá số thượng cách.

Saturday, August 5, 2017

Nhóm sao Tang Hư Mã





Nhóm sao Tang Hư Mã



Nhóm Tang Hư Mã hay Tang Hư Khách, thường nghe gồm 3 sao chính là Tang Môn, Thiên Hư và Điếu Khách. Do các sao an theo Địa Chi theo vòng nên các sao này luôn tam hợp chiếu với nhau tạo thành tổ hợp Tang Hư Mã mang ý nghĩa đặc trưng cho cách cục này. Khi mệnh tạo có nhóm sao này tại tam hợp bản cung mệnh mang các ý nghĩa tính chất khác nhau về tính chất các sao ảnh hưởng tới tính cách, tuy nhiên bố cục ý nghĩa của toàn tổ hợp không thay đổi. Các sao an theo hàng chi có vị trí trùng với Địa Chi của năm sinh trên 12 cung địa bàn. Lấy sao Thái Tuế ở chính bản cung an toàn bộ 5 sao gồm hai cách cục lớn là Tuế Hổ Phù và Tang Hư Mã. Các sao an theo hàng Chi cần thiết quan tâm tới các sao Thái Tuế, Thiên Hư, Tang Môn, Bạch Hổ và Thiên Mã và đa phần các sao này mang ý nghĩa tổ hợp tức toàn nhóm sao tác động là chủ yếu khi luận đoán lá số. Các bài viết về từng sao khi tọa thủ tại bản cung mệnh và các cách cục giao hội hợp cách của các sao này được lưu lại trong các bài viết này. Với vị trí của sai Tang Môn hay Thiên Hư trong nhóm Tang Hư Mã giao hội với các nhóm Kình Hao, Đà Hao, Lộc Tướng Ấn và Phi Thanh Phục mang các tính chất khác nhau và biểu hiện rất lớn khi tác động với Chính Tinh ở mặt tính cách bên ngoài vì các sao này. Lưu ý hai nhóm sao an theo Thiên Can và nhóm sao an theo Địa Chi sẽ tạo nên các bố cục vị trí sẵn trên mười hai cung độ tử vi và vị trí cung an Mệnh vào một trong các cung này sẽ ảnh hưởng rất lớn tới tính cách và độ số của mệnh chưa cần xét tới các sao an theo Nguyệt, Nhật, Thời. Ở các cung này quan trọng nhìn vào cách phối hợp của các sao an theo Thiên Can và Địa Chi với nhau. Tang Hư Mã giao hội với Kình Hao mang ý nghĩa về nghị lực, nỗ lực vượt qua khó khăn, mang tính chủ động, về đặc tính của tính cách trong mọi trường hợp đa phần ương ngạnh, ưa chống đối với người khác, coi trọng việc thắng thua. Bây giờ khi xét các mức độ mạnh yếu hay ưu khuyết tăng nặng, giảm tính chất của bố cục cần nhìn tới các bàng tinh an theo các thời điểm khác. Tử Vi luận cơ bản giải đoán số rất đơn giản, tự bản thân nghiệm ra khi nhìn vào các cách tổ hợp giữa các nhóm sao này. Gia giảm hay tăng cường hoặc thậm chí phản cách cục biến đổi do tính chuyển động liên tục của lá số tử vi cũng như đời người luôn trải qua thời gian thăng trầm của cuộc sống và tới lúc ta chết nhưng lá số tử vi vẫn ở đó chuyển động lưu lại cái danh hay những hình ảnh của bản thân ta tới khi khí hoàn toàn ở vị trí Tuyệt tức các nhân duyên liên quan tới bản thân đã hoàn toàn chấm dứt. Phần này thường luận trong huyền học như việc phân thành các khí ở mức độ khí vượng, suy, tuyệt. Mỗi một người sinh ra nếu bỏ đi các sao trong Tử Vi thì luận ở dạng khí ngũ hành tác động hóa hình và do phản ánh vào con người nên sinh ra tính chất của cá tính. Vì vậy dòng khí này thực chất khi người chết là nhập Tử, kế đến một thời gian sau mới nhập Tuyệt rồi đi vào vòng Thai.




Cần phân biệt vòng Trường Sinh là gốc của các môn huyền học, và vòng Trường Sinh trong môn Tử Vi cũng có hai loại là vòng Trường Sinh trên Thiên Can vì Thiên Can bản chất là khí. Kế đến là vòng Trường Sinh trên lá số Tử Vi. Nhìn chung khi ta chết thì khí chưa tận mà chuyển hóa cuối cùng khi Tuyệt mới mất hẳn. Cũng như vậy vạn vật đều có khí nên ngay cả vận nước đến một thời kỳ lâu dài cũng có người uyên thâm lý số có thể toán mệnh ra dựa vào khí vận của quốc gia. Ngay ở trên thế giới ở nước ngoài cũng có một số nhà tiên tri có khả năng này. Bản chất của Ngũ Hành khi hợp hóa lại là Không. Vì vậy thực chất khí tồn tại ở phần Không nếu chịu tác động của duyên khởi theo một ngũ hành sẽ trở thành vị trí Thai khởi phát từ vị trí Tuyệt. Cái lý của tiền nhân đã nhìn ra rằng thực chất con người không phải chết là mất hẳn. Mà dòng khí hóa tư tưởng khi chết đi một thời gian trở về Không dủ dung nạp tất cả lại xuất hiện theo chu trình vòng Trường Sinh mới. Tiền nhân dùng kiến thức này giải cho việc sự luân hồi. Trên thế giới có khá nhiều ghi chép về con người tái sinh ở cơ thể khác. Đa phần theo giải thích là do vị trí địa lý chứa đựng tính Không và có tính bất ổn Âm Dương khiến việc này xảy ra. Ở nước ta thì vị trí Hòa Bình là vị trí địa lý khá đặc biệt. Ở đây sẽ có nhiều chuyện ly kỳ và sự đầu thai cũng xuất hiện ở đây và không chỉ có một lần. Người viết từ xưa tới nay quan trọng nhất ở tính nghiệm lý nên nếu người đọc bài viết này đã có tuổi thì nên kiểm nghiệm các trường hợp này vì nếu đúng thì tuổi tác không là ý nghĩa. Thực chất xét ở phần khoa học về bên ngoài phương tây hơn ta rất nhiều tuy nhiên ở việc tự quán chiếu, nghiên cứu trong tính nội tâm của bản thân thì ta đã đạt tới mức độ rất cao và có rất nhiều kiến thức quý báu truyền đời. Bản thân người viết cũng hay tự kiểm chứng thật giả bằng ngoài đời thực những kiến thức này và cũng nhiều lần khá bất ngờ. Phần này ngoài ý chính trong bài viết giới thiệu thêm về tính chất khí hóa ngũ hành. Với nhóm Tang Hư Mã giao hội với Đà Hao mang tính chất kiên trì vượt qua khó khăn, có tính cam chịu, nhẫn nhịn, cũng có tính phòng vệ. Cách cục này có tính chất hay hơn về mặt tính cách hơn cách Kình Hao. Tuy nhiên dễ cam phận nếu cách cục không có các sao chủ mạnh bạo, tăng cường. Cách cục Tang Hư Mã đi với nhóm Lộc Tướng Ấn là cách cục khá hay hình thành bộ Lộc Tang hay Lộc Mã giao trì đều mang ý nghĩa tốt. Cách cục này chủ bản thân có tính cách ổn định dụng được sát tinh hay cách cục xấu. Với Tang Hư Mã đi với Thanh Phi Phục trừ vị trí Thanh Long, các vị trí khác mang ý nghĩa xấu. Cách Thanh Phi Phục mang tính bất ổn là tính chất cơ bản. Cách cục Tang Hư Mã chủ khó khăn nên cách cục giao hội mang ý nghĩa xấu, có thể mang tính phi pháp.

Thursday, August 3, 2017

Luận giải lá số Tử Vi phần đại hạn




Luận giải lá số Tử Vi phần đại hạn


Phần đại hạn khi luận giải lá số Tử Vi là phần rất quan trọng ảnh hưởng phần lớn tới kết quả khi tự luận giải lá số cho bản thân. Trong bài này người viết đề cập tới việc khi luận đoán đại vận và các cách cục của đại vận, tác động phối hợp với Mệnh, Thân, Phúc để đưa ra kết quả luận giải chính xác hơn cho lá số. Tuy nhiên cần nắm rõ việc một phần kết quả luận đoán đại vận do hoàn cảnh của đương số và khí hình của đương số tại vị trí địa lý hoặc do hướng đi của các đại vận trước tác động tới mà luận cát hung. Thí như việc đương số mệnh tốt tuy nhiên tới hạn trước gặp cách Võ Nghiệp khá tốt đẹp và chữ thời cơ của vận ứng với cách cục binh nghiệp. Trong thời buổi loạn lạc chiến tranh thì ra chiến trường. Vì vậy, ở đại hạn sau phải luận ở cách cục hướng đi của đại vận trước và cách cục hoàn cảnh ứng với sự bắt đầu chuyển dịch mới ở đại vận này. Khi luận giải lá số tử vi thì những phần trên khái quát dưới dạng bổ trợ cho cách cục của Mệnh. Tức coi việc luận giải toàn bộ lá số là sự chuyển động của tính cách bản thân từ khi mới sinh ra ở đại vận đầu tiên tới đại vận cuối cùng và đương số ban đầu khởi phát ở cung mệnh sẽ có nhiều tính cách ẩn cùng xuất hiện. Tất nhiên các tính cách này có thể nhìn thấy ở ba cung Mệnh Tài Quan tức tam hợp một hành hóa thành Kim Thủy Mộc Hỏa nên bản tính luôn có nhiều thiên hướng bắt đầu đi tới các đại vận và thành bại ở các đại vận tùy thuộc vào những sự tác động của các phần lớn đã luận ở trên. Tuy nhiên cần phân biệt mức độ tác động khi luận giải lá số tử vi của các phần này, quan trọng nhất thể hiện ở tại đại vận tức cung độ đại vận hiện tại có hợp phá so với mệnh tạo và đại hạn trước. Tức cách này xét tới việc thay đổi về tính chất của bố cục sao trong tử vi khi chuyển động. Kế tới việc sự ứng tính chất trên lá số tử vi tới hoàn cảnh bên ngoài sử dụng và khí hình của đương số tức mức độ xuất phát khi khởi hạn. Khí hình của đương số thường được hiểu như việc xuất phát địa vị bản thân, như việc bản thân là con vương, tướng khác với sinh ra bần hàn. Tức đây là mức độ có thể tác động tới xã hội của bản thân tạo ra ngay tại thời điểm của đại hạn. Hai phần này rất quan trọng khi luận giải đại vận của lá số.   Tất nhiên khi luận cần phối hợp các phần lại và cái thể hiện ra chỉ cần kết quả của đại vận mà người luận giải cần khái quát. Tuy nhiên các bước khi luận cần thiết phải đầy đủ việc luận mới có thể chính xác. Mệnh tạo là tính cách bẩm sinh của đương số, khi luận mệnh cần nhìn ra hướng đi của mệnh tạo do bẩm sinh hấp thụ khí của phụ mẫu mà tạo thành hướng đi cho mệnh tạo. Đương số khi có hướng đi từ mệnh thì việc luận giải lá số có gốc sẽ trở nên đơn giản hơn khi không nắm rõ tính chất của bản tính khởi từ mệnh. Khi mệnh tạo bắt đầu khởi đại vận 10 năm ở cung độ này đương số hoàn thiện phần tính cách ẩn và hiện của mệnh tạo. Với tính cách ẩn thì cần khởi phát bởi các cách cục từ các đại hạn hay tiểu hạn. Với tính cách hiện thì luôn biểu hiện khi tính cách ẩn không thể hiện ra ngoài. Cung độ thứ hai của đại vận là cung Phụ Mẫu hay cung Huynh Đệ cho biết việc liên quan giữa bản thân với cha mẹ hay với huynh đệ nhiều hơn. Nếu khi đại vận theo chiều đi theo cung Phụ Mẫu thì tiếp theo sẽ là cung Phúc Đức, cung Điền Trạch và cung Quan Lộc.




Nếu đại vận chiều ngược lại sẽ gặp cung Huynh Đệ, cung Phu Thê, cung Tử Tức và cung Tài Bạch. Thường thì các sách ít luận về việc dịch chuyển các cung vị ở đại vận tuy nhiên nếu không nắm rõ phần này sẽ luận giải khó khăn khi nhìn chuyển động của đại vận. Để đơn giản hơn khi luận giải có thể gắn những tên các cung với ý nghĩa của một chính tinh thì khi luận giải sẽ không bị nhầm lẫn với các cung độ này. Khi cung Mệnh dịch chuyển tới cung Huynh Đệ thì đương số chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng của anh em trong nhà khá lớn tới mức độ cát hóa của đại hạn. Ở cung độ này thường mang tính chất cạnh tranh. Khi đại vận chuyển nghịch tới cung Phụ Mẫu chịu ảnh hưởng của cha mẹ nhiều hơn tới bản thân. Vì vậy thường tuổi ứng với bắt đầu cung đại vận từ 12 tới 16 chịu tác động lớn của cha mẹ hay anh em trong việc hình thành tính cách. Nếu cung đại vận tới vị trí cung Phúc Đức thì đương số dễ gặp những thứ liên quan tới cung này. Nếu trường hợp đi tới cung Phu Thê thì đương số đa phần trong hạn này chú ý liên quan nhiều tới hạn tình duyên, hôn nhân, và tính chất cát hung được biểu hiện đầy đủ trên lá số ở cung độ bản cung và toàn bộ tổ hợp. Nếu theo hướng đi cung Phu Thê thì đại vận sau tới cung Tử Tức sự chú ý của tâm hướng tới cung độ này, liên quan tới con cái. Tất nhiên khi coi việc tên cung độ tương ứng với Chính Tinh thì mỗi cung tiếp theo đều có liên quan lớn tới cung trước đó. Như việc cung Phu Thê tồn tại cách cục xấu khi không có con thì cung Tử Tức tức đại vận hiện tại sẽ biến đổi theo chiều hướng khác mặc dù cung độ Tử Tức tốt hay xấu. Nếu theo hướng đi cung Phúc Đức thì cung độ tiếp theo là cung Điền Trạch. Cung độ này xuất phát từ việc cung Phúc Đức đi tới cần thiết phải liên quan tới việc Phúc đức. Khi tới cung Điền Trạch thì ngôi nhà của bản thân hay việc liên quan tới mồ mả của đương số, những thứ từ cung Phúc Đức tiếp tục tác động tới cung độ này. Luận giải lá số đại vận xác định đại vận gặp bốn nhóm sao chính là Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cự Nhât, Cơ Nguyệt Đồng Lương. Các cách cục này có thể giao hội hình thành nhiều cách cục đặc trưng. Khi luận theo các tổ hợp này. Mệnh tạo phối hợp với các tổ hợp này mà tạo ra các ý nghĩa khác nhau. Khi luận giải ở mức độ cơ bản việc nhìn các Thiên Can tự hóa của bản cung đại vận để an toàn bộ các lưu đại hạn là không cần thiết và gây phức tạp cho việc luận đoán. Nhìn chung chỉ cần xét mức độ ở bản cung, các cung tam hợp, ý nghĩa tổ hợp toàn bộ cách cục và cung độ nhị hợp phối hợp với cung Mệnh, Thân để cho ra kết quả. Lưu ý việc phối hợp với cung an Thân là quan trọng để đưa ra kết quả của đại vận. Cung an Thân đặc biệt trong các trường hợp tách biệt riêng với Mệnh tức ở Phúc Phối Di cần luận riêng khác với trường hợp vòng tam hợp Mệnh Thân cùng nhau. Luận giải phần đại hạn của lá số khi phâm biệt được các phần trọng yếu thì bắt đầu luận phối hợp Chính Tinh và Bàng Tinh để đưa ra ý nghĩa của toàn bộ tổ hợp. Khi luận như vậy tránh được việc nhầm lẫn khi phân mức độ tâc động khi luận giải. Một số còn quan trọng luận cả phần ngũ hành của tam hợp hạn so với tam hợp mệnh, ngũ hành chính tinh bản cung hạn khiến luận đoán trở nên khó khăn hơn.

Wednesday, August 2, 2017

Nắm bắt đại vận thời cơ




Nắm bắt đại vận thời cơ



Chữ thời cơ luôn được nhắc tới trong thời buổi hiện nay khi cuộc sống đã trở nên bình đẳng hơn và ai cũng có cơ hội phấn đấu bằng nỗ lực dù điểm xuất phát ở vị trí nào. Không còn những việc ngăn cản như ở thời phong kiến nên một lá số tốt hiện nay đa phần cần sự khai sáng, khả năng linh hoạt và các phẩm chất vốn có để thành tựu như khả năng kiên trì, nhiệt huyết, tìm ra giải pháp khi gặp khó khăn. Từ lúc bắt đầu một công việc để tạo ra tiền bạc, của cải tới khi có được một ít thành quả sẽ luôn gặp phải khó khăn. Và ở giai đoạn từ khi tạo nên thu nhập nhỏ tới khi công việc phát triển nhanh sẽ càng gặp nhiều khó khăn. Và cái kết thúc mà đa phần người thường hay mắc phải là sự bỏ dở, dở dang công việc hay là cách Tử Vi ngộ Triệt, Phá Quân phá cách cũng mang ý nghĩa này. Những người có tố chất hay gọi là bản mệnh có phẩm chất khiến bản thân vượt qua cái ngưỡng khó khăn sẽ mở ra một kết quả tốt hơn rất nhiều. Trong tử vi và đối chiếu ngay với ngoài đời thực thì những việc khó khăn cản trở là các cách cục Sát Tinh và khi bản thân có những khả năng hoặc cơ hội, may mắn vượt qua sẽ phân làm hai trường hợp là lực lượng bố cục Cát Tinh có sức cát hóa lớn hơn sẽ khiến cách cục trở nên tốt hơn. Trường hợp thứ hai là do sức cố gắng, quyết liệt của bản mệnh khiến cách cục Sát Tinh hóa vi Quyền trở nên đắc dụng mà thành tựu. Hai trường hợp này ngoài đời thực có thể phân chia như vậy để nhìn cách vượt qua khó khăn của bất kỳ một sự vật hay người nào. Do tính chất của một lá số Tử Vi luôn có Sát Tinh và lá số Tử Vi mô tả một đời người nên thực chất giàu có nhất hay quyền lực nhất như vua cũng có những nỗi lo, những khó khăn riêng đến từ nhiều nguồn, có thể từ bệnh tật, hay buồn phiền tình cảm, lo lắng việc ngôi vị bị mất đi, phản bội. Vì vậy tác động của Sát Tinh rất lớn và hoàn toàn có thể phá cách mọi cách cục tốt đẹp nhất biến đổi thành xấu. Và môn Tử Vi cũng mô tả việc mỗi người đều có thể trở nên thành tựu nếu dụng được Sát Tinh hoặc Cát Tinh khi thời vận đến. Đó là các đại hạn tốt đẹp với hướng đi như nghề nghiệp này, trở nên tai họa với nghề nghiệp khác. Thời vận luôn có mặt cho mỗi người dù khởi sự ban đầu bình thường, không xuất chúng. Tuy nhiên, các cơ hội trong đời cũng thường khó khăn để tận dụng được vì bản chất cách cục của người thường luôn gặp phá cách ít nhiều, chịu tác động mạnh theo chiều hướng xấu của Sát Tinh. Thường thì tiền nhân coi trọng các cách cục chủ cát, mang tính ổn trọng và gia hội nhiều trợ tinh mang ý nghĩa tốt và xa lánh được Tứ Sát, Không Kiếp.




Tuy nhiên việc này hợp với xã  hội vua tôi vì đa phần Sát Tinh trong thời này mang ý nghĩa chủ hợp với chiến trận, theo nghiệp võ tức con đường binh nghiệp để dẹp loạn thành phần phản loạn và chống giặc ngoại ở biên giới, ít liên quan tới việc hoạch phát để thay đổi vị trí địa vị xã hội mà thường việc này đa phần do các cát tinh, trợ tinh chủ văn cách theo con đường may mắn xuất thân gia đình địa vị cao, hoặc do thi cử Nho Giáo tức văn tinh làm trọng để đỗ đạt làm quan. Trong khi thời nay việc tự do thay đổi địa vị một phần theo con đường quan trường, một phần lớn còn lại theo chữ Phú để xác định vị trí xã hội. Sát Tinh thời ngày nay là cần thiết để tạo nên một lá số tốt đẹp nếu xuất thân bình thường. Tuy nhiên khi dụng tới Sát Tinh khá nguy hiểm vì ngoài thực tế cũng có một bộ phận do Sát Tinh mà vi phạm pháp luật, hay liên quan tới các việc thương tích dễ gây tai họa. Vì vậy cách cục tốt đẹp sẽ là cách cục chủ yếu mang tính chuyển động, văn tinh trợ cách và có một số Sát Tinh đắc cách là mệnh tạo có học vấn và ý chỉ tiến thủ tốt, đây là cách cục bản mệnh tốt. Quan trọng nhất mệnh tạo phải chứa các sao gồm chính tinh hoặc bàng tinh có tính khai sáng, linh hoạt và nhạy bén khi thời cơ tới. Trong Tử Vi, sao Thiên Cơ là ngôi sao chứa tính cơ hội, thời cơ lớn. Nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương có chứa tính thời cơ mang ý nghĩa may mắn, cơ hội tới do may mắn. Với cách cục Cự Nhật thì sao Cự Môn là sao mang lại thời cơ, đặc tính ưa việc phản đối, suy nghĩ trái ngược với lẽ khiến Cự Môn tạo ra thời cơ. Nhóm Cự Nhật thời cơ thường mang tính trái quy luật thường. Với cách cục Sát Phá Tham, sao Phá Quân là sao chủ sự tìm kiếm, khám phá sâu bên trong mọi việc do tham vọng, lòng tham thiên về lợi ích. Nhóm Sát Phá Tham tạo ra thời cơ nhờ sự ham muốn, ưa khám phá sâu mà được thời cơ. Cách cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm tạo ra thời cơ do lý tưởng, hoạt động của Tử Vi là ngôi sao chủ việc tạo ra công việc, gánh vác trách nhiệm xây dựng. Thời cơ của nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm mang tính ổn định, dễ nắm bắt hơn các cách cục còn lại. Bản mệnh gặp một trong bốn cách cục trên mang ý nghĩa thời cơ riêng tùy theo nhóm sao thủ mệnh và đại vận. Các sao tạo ra thời cơ nếu thủ mệnh bản thân có khuynh hướng tìm ra những cơ hội nên dễ được thành tựu hơn các vị trí khác. Tuy nhiên xét chung tổ hợp ý nghĩa không đổi, xét riêng thì mỗi Chính Tinh mang ý nghĩa công việc riêng, quan trọng là các bàng tinh, trợ tinh và Sát Tinh tam hợp hay tọa thủ hợp cách để có thể thành công. Trong bản mệnh luôn chứa đựng một tổ hợp các tinh cách ẩn hiện tùy vào vị trí bản cung hay tam hợp và xuất lộ hay ẩn tàng biến đổi tùy vào hợp hóa của các đại vận. Tuy nhiên các sao tọa thủ tại bản cung mệnh thường chiếm thời gian lớn việc thể hiện tính cách ra bên ngoài của đương số. Vì vậy cần thiết nhìn vào cách cục của bản cung Mệnh để đưa ra luận đoán về khả năng nắm bắt thời cơ của bản thân. Mệnh có sao Tử Vi việc dụng thời cơ khác với sao Phá Quân. Hoặc đại vận của mệnh Tử Vi đắc cách hay đại vận sao Tử Vi dụng được cách cục cần thiết mang tính chất ý nghĩa về lý tưởng, khả năng tổ chức. Nếu sao Tử Vi tốt tới hạn Sát Phá Tham tốt thì khiến quần chúng tuân theo nhờ lý tưởng. Nếu tới hạn Cự Nhật tốt cũng khó dụng được Cự Môn vì sao Cự Môn giỏi việc tìm ra lỗi sai của Tử Vi. Vì vậy Chu Du tới hạn Cự Môn xấu tuy mệnh rất tốt đẹp mà phải mạng vong. Vì vậy, không phải bản cung đại vận tốt đẹp có thể dụng được thời cơ để tạo nên thảnh công mà cần thêm chữ hợp phá. Mệnh có Tử Vi khi lưu tới đại hạn Cơ Nguyệt Đồng Lương dù hạn không mấy tốt đẹp cũng dễ thành tựu.