Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Showing posts with label Luận Tử Vi. Show all posts
Showing posts with label Luận Tử Vi. Show all posts

Wednesday, June 15, 2022

Ngọn lửa với cội nguồn

 Mỗi điều linh thiêng đều gắn kết từng những giai đoạn của lịch sử và đời sống của mỗi con người. Với sự tín nhiệm, phát sinh trọng trách. Như vậy Hóa Quyền là tín nhiệm phát sinh trách nhiệm của người có hóa khí này thủ mệnh. Sự thờ phượng luôn gắn với tôn kính. Việc thờ phượng có thể không phân định thiên ác theo nhiều cách nhìn, như việc khi chiến tranh mỗi quốc gia đều thờ phượng những người lính đã ngã xuống vì lợi ích quốc gia. Mỗi một điều linh thiêng theo quan niệm mỗi nhân mệnh, như ngọn lửa tạo nên hi vọng tới người đó. Điều tốt đẹp của quốc gia là có được những nhân lực lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược, có tự tôn dân tộc cao hơn lợi ích riêng rẽ bản thân. Bản chất trong nội tâm của con người luôn muốn sự công bằng Thiên Tướng. Tuy nhiên khi nhìn thấy lợi ích riêng tư của bản thân tức Thiên Cơ được mang lại tốt đẹp, hưởng đặc quyền sẽ biến dạng Thiên Tướng trở thành đặc quyền. Nếu trong thời kỳ đặc quyền trở nên đặc hữu và bị lợi dụng để nắm quyền sinh sát. Điều này ắt sẽ mang lại bất mãn tới quần chúng, bởi lý lẽ của mất công bằng, tức Tướng Không Kiếp chỉ giới hạn trước khi phát sinh sự bất công lớn. Giữa việc công Thiên Tướng, và việc tư Thiên Cơ luôn phân minh, thể hiện bởi vĩnh viễn lục hội giữa Cơ và Tướng. Nhìn vào tính chất của hai nhóm sao này trên thiên bàn, người nghiên cứu sẽ nhận định được rất nhiều thông tin tại đây. Với những điều thuộc về bản chất nhân tính của mệnh tạo và sự phân chia ranh giới rõ ràng của cái chung và riêng, giữa tập thể và cá nhân phát sinh rất nhiều ý nghĩa hay trong tử vi. Nhìn sâu sắc trên thiên bàn, có thể nhìn thấy khi cái chung và riêng luôn liên quan mật thiết với nhau tức Thiên Cơ và Thiên Tướng lục hội. Một chính tinh quan trọng là chủ tinh của một nhóm sao. Phá Quân nằm ở thế luôn nhị hợp với Thiên Cơ. Phát sinh kế tiếp hai trường hợp. Khi Thiên Tướng mạnh hoàn chỉnh trong nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, hay thực chất là cách Phủ Tướng giao hội Tử Vũ Liêm, bên phía Thiên Cơ ắt chịu xung đột bởi Cự Đồng trong cách Cự Cơ Đồng. 




Ngược lại khi Cơ Nguyệt Đồng Lương hoàn chỉnh, Thiên Cơ lục hội với Thiên Tướng trong cách Phủ Tướng đơn thủ tức Phủ Tướng tại đây không hoàn chỉnh, thiếu dẫn hóa của nhóm Tử Vũ Liêm. Phàm là nhân mệnh không thể tránh được tham, sân, si. Lẽ thường vốn có cũng là nguyên căn để xã hội, quốc gia, dân tộc phát triển. Sự phát triển của mỗi nhân mệnh đều gắn liền với quá trình sàng lọc, loại bỏ. Thí như pháp luật sinh khởi ổn định trật tự xã hội, cách ly những nhân mệnh sai lầm về tư tưởng và hành động. Cổ nhân luận, khi rơi vào cảnh khốn cùng, điều quý giá thường là thứ tầm thường bỏ qua. Trong giai đoạn thanh lọc để soi xét, loại bỏ những rêu mốc, Liêm Trinh được đặt lên hàng đầu và nắm quyền lệnh. Cũng như lính canh đi tuần tra, Liêm Trinh có đặc tính điều tra, soi xét rất mạnh. Cùng là sao dễ rơi vào cảnh thoái hóa. Sao Liêm Trinh khi tốt đẹp là sự thanh bạch, minh bạch, kiểm tra, thanh tra, dò xét, kiểm toán, kiểm định, cho tới kiểm điểm. Với Liêm Trinh, là tay mặt của Tử Vi, biến lý tưởng của Tử Vi thành hiện thực. Hóa quyền uy tín thành Sát quyền, tức quyền trừng trị. Suy cho cùng, mỗi thời điểm tính quyền lực của chức trách, vị trí xã hội dịch chuyển thất thường. Trong thời buổi từng vị trí ngành nghề, có thể phát sinh ra tài sản âm thầm. Những nơi trọng điểm như đất đai, tài nguyên càng là nơi Liêm Trinh suy xét, dò xét mạnh. Có vị trí là tâm điểm của hình ngục cách. Khi một lý tưởng cao viễn được xác định, mang tính công lý, tính công bằng và mang lại điều tốt đẹp. Như cổ nhân luận "Nhất hô bách nặc", một lời gọi trăm người tuân theo. Giữ ngọn lửa với một lý tưởng, kế hoạch có thể qua thời kỳ thăng trầm. Cũng như việc đặt kế hoạch cho bản thân nhân mệnh, có thời điểm sẽ gặp những cản trở, gọi là thời kỳ đen tối, mây mờ che, khiến nhiều nhân mệnh khó có thể gây dựng trở lại. Nếm mật nằm gai để đạt được kết quả là điều cũng thường gặp trong cuộc sống. Điều nguy hại hơn là việc mất phương hướng, mục đích sống của nhân mệnh. Có những trường hợp trên báo đài, viết về gia đình bởi túng quẫn, nợ số tiền lớn khi rơi vào thế cùng đường đành đưa tử tức cùng theo tới nơi tuyệt mệnh. Những sự việc đau lòng vẫn thường xảy ra hàng ngày, điều quan trọng khi ngọn lửa niềm tin bị tắt bởi áp lực khủng kiến, nơi tử huyệt sẽ xuất hiện. Qua thời kỳ dịch bệnh covid-19 tới hiện tại, khoảng hơn 6 triệu người theo thống kê tử vong. Có những nhân mệnh bệnh tật, có nhân mệnh khỏe mạnh, tuy nhiên sẽ không nhiều nhân mệnh muốn bản thân rời cuộc sống hiện thực. Tang tóc xuất hiện, qua thời gian trở thành lịch sử, đời sống sôi động trở lại. Điều hay của cuộc đời là những người ngã xuống sẽ được che lại bởi lớp người tiếp nối, cũng khiến giảm đi sự phiền não bởi buồn thương tang tóc. Như lớp cỏ úa được che lại bởi lớp cỏ xanh mọc lên. Tuy nhiên, sự thực không mất đi là việc hiện hữu trên thực tại gắn liền với sứ mệnh của một nhân mệnh. Hầu hết mỗi nhân mệnh đều bình thường hóa khả năng của bản thân, so sánh về một bên kẻ nghèo hèn thấp kém, một bên phú hộ giàu có. Sự thai sinh, sinh khởi của nhân mệnh là trách nhiệm của đương số với xã hội, cũng thời điểm sau vài chục năm, thế hệ phía sau lại phát triển che đi thế hệ trước chôn vùi. Vì vậy, thế đứng của tử vi xuất hiện hai cách xung chiếu, Bạch Hổ và Tang Môn, Thái Tuế và Thiên Hư. Là sự xung chiếu thực của hai nhóm Tuế Hổ Phù và Tang Hư Khách. Khi ở vị trí Bạch Hổ, bản thân nhân mệnh như ở thế hệ đương trẻ, đóng góp nhiều tới xã hội, thời kỳ kế tiếp, thế hệ Tang Môn bắt đầu bị chôn vùi, là thế hệ chứa đựng nhiều kinh nghiệm, điềm tĩnh, lãnh đạm và như vị khách Điếu Khách nhìn vào thế hệ tiếp theo. Dù nỗ lực hay lo âu, sợ hãi của bản thân trong tiểu vận tới, đại vận tới, tất cả đều đang dần sẽ bị thay bởi lớp kế tiếp, như lớp cỏ xanh mới thay thế dần thế hệ nhân mệnh qua từng niên vận, đại vận. Khi quay đầu nhìn lại cảm thán nửa đời của bản thân. Tuy nhiên cũng chính lý do này, nhân mệnh có thể lựa chọn việc mạo hiểm, thay đổi tất cả, có thể thế hệ trước bất đồng quan điểm, hoặc lo ngại về tương lai gần có thể gặp biến cố nặng nề. Những khó khăn này có thể có ý nghĩa và cơ may hơn việc do dự, lo âu đợi tới thời điểm thế hệ của nhân mệnh bắt đầu bị thay thế. Việc thay thế được đánh giá rất hay, thể hiện sự công bẳng, thời cơ của thiên địa tạo tới mỗi giai đoạn cuộc đời. Điều hay của Không Kiếp đại sát tinh là nghịch truyền thống, phản tất yếu. Rất nhiều nhà khoa học có những phát kiến đóng góp thay đổi nhân loại có cách cục này. Nếu tất cả chỉ nhìn vào tài danh, có thể những phát kiến, phát minh sẽ không xuất hiện. Không có người có quyền lực dài mãi, nhân mệnh phải trải qua quá trình bệnh lão, giai đoạn suy yếu nhìn lại cuộc đời. Cũng như có người nghiên cứu về việc hồi quang phản chiếu. 



Cuộc đời luôn tạo từ nhiều yếu tố chuyển động. Bản thân nhân mệnh chuyển động, hoàn cảnh xã hội chuyển động, đặc điểm thời thế chuyển động dẫn tới những kết quả khó có thể liệu tính. Thí như việc nhật thực. Thời cổ xem việc này như thiên tượng, hoặc hiện tượng nguyệt thực có thể mang lại những điều không may và là dự báo cho tai họa. Cuộc đời nhân mệnh cũng có những thời điểm như trùng gặp giữa hoàn cảnh xã hội và tính cách bản thân thành hành động dẫn tới thay đổi đột biến. Trong thời kỳ sốt đất, nhiều người sẽ trở nên giàu có giai đoạn đầu, và có thể trở nên khó khăn cùng quẫn vào giai đoạn cuối. Có người ước rằng, nếu không hay biết về những vấn đề đó, cuộc đời có lẽ an ổn tránh được thất bại nặng nề. Nhân sinh cuộc đời đều cho mỗi nhân mệnh một giai đoạn tuyệt vọng, bi quan với cuộc sống. Bất kể ở vị trí địa vị xã hội hoặc tài sản lớn mạnh đều trải qua những giai đoạn này. Sự lo âu là mặt tất yếu cho thấy tác hóa mạnh của Hóa Kỵ và Lưu Kỵ cùng ám tinh tới hạn hành. Có nhiều những điều mắt thấy tai nghe điều châm chích. Khi nhìn vào đánh mất, thứ dễ gây họa nhất là đất đai vì là tài sản của đời người. Thí như khi gắn với việc bán đất đai nhà cửa, nhìn thấy hung sát tinh, là dấu hiệu của suy bại bán tài sản cuối cùng của bản thân. Đất đai là tài sản giá trị lớn của mỗi nhân mệnh, do vậy cung Điền Trạch cũng góp phần là một cung có tên trong 12 cung trên thiên bàn. Xã hội có những việc tranh chấp đất đai, khiếu kiện kéo dài, huynh đệ tương tàn. Cũng thực bởi điền trạch có thể quy đổi sang vàng bạc, tài sản Tài Bạch. Nghiên cứu tử vi, chớ thấy cung số phân biệt cường cung Mệnh Tài Quan Phúc Phối Di và nhược cung Tật Điền Bào Phụ Tử Nô. Lắm kẻ có tử tức xuất trúng, trở nên thành tựu lớn, có phú quý. Có kẻ được nhờ bởi điền trạch, có kẻ gặp may bởi phụ mẫu trợ lực. Tuy nhiên trên thiên bàn mối quan hệ Phụ Tử Nô chỉ người này còn rất phức tạp khi suy xét, cung Phụ Mẫu không hẳn chỉ sang quý hay bần khổ của phụ mẫu. Cũng nếu quý tiện bởi xuất thân cũng chỉ xét giai đoạn, bởi số phụ mẫu có vận phát vận tàn, số nhân mệnh tiểu nhi cũng biến động dựa trên rất nhiều đáp số. 




Cái dễ nhìn hơn là nhìn tố chất của bản thân nhân mệnh. Kẻ mệnh quý ắt trừ phi họa kiếp nghiệp quả tuyệt khí, bằng không ắt cũng đứng trong vị trí ganh đua với đời. Phần nhiều còn lại là mệnh thường, khi luận phú tử vi, cổ nhân định cách rất nhiều bố cục xét phú gia địch quốc, danh trấn chư bang, công khanh,... thực tế khi nghiên cứu nên bỏ qua ngữ nghĩa này, xét tới tính bản chất của nguyên cục và trường hợp đặc biệt xảy ra khi tác hóa một tổ hợp phản cực hoặc thành cách bởi Mệnh Thân Hạn mới rõ tú khí để luận định cát hung. Một chữ Đồng là người thâm độc, lòng hiểm dạ ác, nhưng cũng có thể là người nhân nghĩa, phúc dày khí vượng. Một chữ Cự từ tên phản bội, phản kháng đối lập cho tới người đứng lên đấu tranh công lý, người dám nói những điều phải, tố những điều sai trái. Điều này tác động chủ bởi hoàn cảnh. Cự Môn kiến Sát Hình quyết đoán trong thời loạn lạc luận quý cách hơn Thiên Đồng hội cát. Cũng như khi thể thanh lọc của quốc gia tới các tổ chức bên trong đang sâu rộng, Tham Lang hội Tang Lộc tức Lộc Mã giao trì là mệnh cách thay vì luận phát phú bởi "Lộc Mã giao trì", tại đây có Tang Môn che giấu dễ dính họa tương đối nặng nề dù Tham Lang khi đắc cách có khả năng tạo mối quan hệ, lôi kéo Thiên Đồng nhị hợp cùng đồng lòng tham gia thành một thế cục tương đối vững chắc. Thứ trôi qua của cuộc đời là mỗi một năm là năm kế tiếp. Vận làng, vận nước cũng vậy. Khế hợp thì thời tới, dễ nắm thời để thành tựu. Bất hợp là nguy tới. Điều nên hướng tới khi trải nghiệm những khổ cùng của hạn hành là ngày kế tiếp Thái Dương vẫn có thể chiếu sáng khởi dậy lại niềm tin. Kể ngày mai không thấy Thái Dương, người lạc quan vẫn nhìn thấy sự công bằng của thiên địa tuy có phân định thời điểm tuyệt khí mỗi cá thể tới sớm hay muộn. Người nghiên cứu huyền học, tôn giáo nhận định nếu ngày mai không nhìn thấy thái dương, tới chu kỳ tiếp theo, bản thân trên thể xác khác sẽ nhìn thấy thái dương tại một hoàn cảnh khác, và chỉ nhận ra các kiếp sống sinh diệt, chính bản thân như người mất trí được khôi phục nếu đắc đạo thấu suốt được nhân duyên. Điều này được trả lời bởi chính người tự thực hành. Một nhân mệnh gặp thời ở vị trí chức trách xã hội tương đối lớn, phụ trách một lĩnh vực lớn có lần trao đổi với người viết về công bằng. Người viết có nhớ tới cồ nhân từng xét tới với đời sống, kể cả mạng sống người ngắn kê dài, phú quý kẻ hơn người kém, địa vị kẻ sai biệt. Tất cả đều bốn chu kỳ sinh lão bệnh tử, vạn vật là sinh trụ dị diệt là công bằng.

Thursday, November 25, 2021

Quy luật sinh tồn cuộc đời

 Trong thời kỳ lịch sử, kinh thuyết giải và nhận định của đa số tiền nhân thời kỳ luận thuyết vạn vật, cho rằng trái đất là trung tâm vạn vật, đứng yên để vạn vật xung quanh sao, tinh tú chuyển động theo. Cũng có thuyết luận mặt trời đứng yên, trái đất quay xung quanh. Sau này khoa học phát triển, chiêm nghiệm thấy trái đất tự chuyển động quanh trục và chuyển động theo quỹ đạo của thái dương hệ. Thực tế tinh hệ này di chuyển với tốc độ hơn 200km/ giây. Về sau, xuất hiện internet phổ biến dần, tra cứu nhiều điều mới về tri kiến trên mạng mới được rõ hơn vậy. Vật lớn như hành tinh tự quay quanh trục. Tới vật nhỏ, quả bóng đứng yên cũng cấu tạo từ rất nhiều hạt nhỏ chuyển động rất nhanh xung quanh nguyên tử. Điều muốn nói lên việc tự vận động, và chịu tác động xung quanh là bản chất của vạn vật. Tất cả đều có sự vận động trong nội tại và cân bằng tạm thời. Cũng như vậy, ngũ hành xung khắc chế hóa lẫn nhau, đạt được cân bằng tạm thời. Âm Dương đối nghịch, trong dương có âm, trong âm có dương đạt sự cân bằng tạm thời. Điều khoa học nghiên cứu thực tế xảy ra xung quanh tự nhiên là điểm quan trọng để nghiệm lý những tri kiến của sở học của học thuyết Phương Đông. Điều này xác định sự thay đổi liên tục của vạn vật ngay mỗi sát na, không tồn tại sự tĩnh lặng, đứng yên. Sự chuyển động này tới từ vạn vật trong chính nội tại. Điều này là lẽ hiển nhiên, khi nhân mệnh cảm thấy bế tắc của cuộc đời, giai đoạn bế tắc cũng mang tính chất tạm thời. Kế tiếp là hướng đi của bản thân dẫn tư tưởng để thay đổi. Sự thay đổi của nhân mệnh trong giai đoạn bế tắc cùng cực, hoặc khi tuyệt mệnh, miễn là bước đi, sẽ có sự thay đổi lớn. Tuy nhiên một số nhân mệnh lựa chọn việc chấm dứt, dừng lại, bằng cách đâm đầu xuống sông tự tử, hạn chí đầu hà. Đặc tính của Sát tinh tại tính chất biến động lớn. Điều quan trọng khi Sát tinh hội cách là lực ép rất lớn tới nội tâm. Một trong các pháp khán hạn sinh tử, là xét thể khí hóa động hay tĩnh, nhận hay thông, khí áp khinh trọng. Thế tĩnh ứng hiềm tuyệt khí, hoặc khí chặn bởi Lưu Kỵ là giai đoạn nguy khốn. Hóa Kỵ, Đà La, Hình Diêu, Tồn Bệnh, Tang Môn, Địa Kiếp, là các tinh đẩu chủ thế tĩnh. Người ngưng hô hấp là tuyệt mệnh. Ngưng trao đổi chất với bên ngoài là tuyệt mệnh. Nhìn nhân tướng một người có thể đưa ra một số dự đoán về nhân tâm tính cách kể cà khi bản thân không hiểu về mệnh lý. Việc nhân tướng và mệnh lý thuận hợp không gặp mâu thuẫn khi dự đoán từ cổ chí kim. Mệnh hành bạc nhược, loay hoay với cuộc sống. Thứ nhất đứng đầu là Sát cục đắc lệnh, là mệnh đại quý. Thứ nhì thành cách, trợ lực không gặp phá, hành vận Sát vận tuy thăng trầm vẫn đạt thành tựu lớn. Thứ ba định cách quý cục, hội cát trợ tinh bất kiến Sát, các cung độ trở nên thiên khô trên tinh bàn, thực tế tại đây còn hàm chứa cách hung họa. Nhìn bên ngoài, loài săn mồi và loài thành thức ăn cho kẻ khác. Tại xã hội cũng có những tranh đoạt quốc gia chỉ cách đây khoảng trăm năm, dẫn tới loạn lạc, giết trẻ em, cưỡng đoạt phụ nữ là điều thực tế diễn ra. Nơi của kẻ yếu, trong loạn lạc là sợ hãi, khốn cùng, và chịu mất đi sinh mạng. Cũng vậy, khi xét về các bố cục trong tử vi, người tinh anh là mệnh quý, để bảo vệ bản thân, và suy tính mưu lược. Nhật Bản với chế độ phát xít, chủ nghĩa quân phiệt cũng như loài săn mồi, tội ác là sự thực, còn hiển hiện thảm sát nam kinh. Nếu xét cát tinh dùng bởi chữ cát tác động mang ý nghĩa phù trợ tốt đẹp, sát tinh mang ý nghĩa nguy khốn là khuyết thiếu khi luận định cách cục. Kỵ Kiếp Hỏa Diêu thành cách hợp hóa khí hình gốc, kẻ đắc lệnh mệnh ác, tuy nhiên quý hiển. Người lành tinh thần hôn ám, Sát tinh vượng địa hóa thành bệnh u uất, mệnh yểu tử. 




Trong một thời khắc ngắn việc thay đổi của nội thân thông qua việc hô hấp. Vạn vật nhờ hô hấp, khí thở ra vào trong từng thời khắc để duy trì sinh mệnh. Nếu việc thở không diễn ra trong vô thức việc chú tâm tới sẽ gây ra khủng kiến nặng nề. Thói quen cũng vậy, bản tính có nhân mệnh ưa đọc kinh sách thánh hiền, nghiên cứu sâu sắc về tri kiến. Có nhân mệnh thấy được lợi ích của kinh sách nên thường thói quen đọc sách. Có nhân mệnh làm việc tại thư viện tuy nhiên không đọc dù một cuốn sách. Bộ Xương Khúc rất giá trị, đặc biệt tại vị trí thủ mệnh cung, đủ cặp tại Tị Dậu Sửu và Hợi Mão Mùi được đánh giá rất hay. Gặp Xương Khúc tránh được Không Kiếp, tức thế nhu nhuận, hiểu biết của Xương Khúc tại tri kiến tác động mạnh tới hành khí của bản mệnh. Giáo dục là nguyên căn để phát triển nhân mệnh. Xương Khúc mang ý nghĩa này. Do vậy, nếu nhân mệnh hội cách Xương Khúc định hướng để thành cách khác biệt với trường hợp hội cách Không Kiếp. Xương Khúc Khoa Khôi được đánh giá hay. Tuy nhiên Không Kiếp Khoa Khôi là cách cát hung tương bán. Trên mạng hiện nay có thể thực hiện mua bán, trao đổi tài sản với số khoản tiền rất lớn, không cần có mặt và trong một số trường hợp, không biết rõ có thực là đích danh. Điều này cũng dẫn tới việc đa cấp, tệ nạn phát triển trên không gian này. Internet kết nối vạn vật khiến tri kiến phát triển rất lớn, từ tham quan các quốc gia qua màn hình tới việc nghiên cứu ngôn ngữ, hay giao thương. Trong môi trường rất lớn đa quốc gia này, việc kết nối con người trở nên gần hơn bằng việc khi truyền tin tới vài nghìn km nhanh chóng, kể cả hiển thị hình ảnh, hoạt động hiện tại. Phát triển vượt bậc này phục vụ tới con người tuy nhiên khi xét vận thiên hạ, còn nhiều nơi nghèo khổ cùng cực, thống kê tới hơn 20 quốc gia, hoặc nơi chiến tranh binh biến, không được tiếp cận với internet, điện, điều kiện sinh tồn liên quan tới tính mạng, khắc nghiệt do dịch bệnh, nạn đói, chiến tranh. Cũng là con người, nhân mệnh hoàn chỉnh, rất nhiều nhân mệnh khi khởi sinh đã gặp khó khăn trắc trở . Môi trường khiến sức chịu đựng của con người trở nên mãnh liệt, cũng có cuộc sống đầy đủ vật chất, hòa bình tuy nhiên nhân mệnh trầm cảm, sa vào tệ nạn, nội tâm suy xét sự việc là điểm quan trọng, cũng là điểm xét nhân mệnh có thể xoay chuyển tình huống trong nguy khốn hay không. "Đất nghèo nuôi những anh hùng. Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên. Đạp quân thù xuống đất đen, súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa". Khi xét tính chất này, thích ứng với thời vận là điểm quan trọng, như sự tự quay, tự vận động của nguyên tử rất nhỏ cho tới hành tinh lớn. 






Phát triển cơ bắp và sức mạnh trong tự nhiên là khuynh hướng của Kình Dương. Phát triển khả năng phòng thủ, đưa mồi vào bẫy là Đà La. Tuy nhiên xét tới một sự phát triển thích ứng tạo bởi Kình Kỵ Kiếp. Kình Dương chủ tấn công, tuy nhiên không chỉ vì sức mạnh, cách Kình Kỵ Kiếp tượng cách như loài mang độc dược. Không to lớn và mạnh khỏe như Kình Lực Đại, tuy nhiên có thể sát thương rất mạnh. Bốn đối tượng nhỏ không nên xem thường. Hoàng tử nhỏ, rắn nhỏ, đốm lửa nhỏ và vị tu sĩ còn nhỏ. Với những cách tượng trưng khác nhau. Vạn vật dời đổi, thích nghi biến đổi phức tạp. Không nhiều người có thể nhận định rằng những bệnh dịch do covid mang lại có sức lây lan qua tiếp xúc lớn như vậy. Khoảng 250 triệu người bị dịch nạn này trên thống kê, có thể vẫn còn số lượng người chưa thể kiểm đếm toàn diện, cũng hơn 5 triệu người tuyệt mạng, số người chịu ảnh hưởng tới trong cơ thể lâu dài. Tai kiếp này phát khởi có tính địa phương, có những nơi không gặp tai họa về dịch nạn này. Việc chuyển dịch liên tục của thời vận, tại các vận khí lớn hơn như vận thiên hạ xuất khởi những điểm dị nguyên trong toán mệnh. Hiện nay, là thời đại của những điều đáng bất ngờ tức Không Kiếp, tưởng chừng những thứ không thể mới cách đây nửa đời người không thể nghĩ bàn, tới nay đã thành hiện thực. Không Kiếp hoạt động rất mạnh, tượng cách bởi những đột phá không ngờ gây thay đổi toàn bộ nhân loại, tức vận thiên hạ. Khi tài sản không cần cất giữ trong kho tàng bí mật, mà hiển hiện chuyển đổi trong chính thiết bị liên kết mạng thông tin. Nơi thậm chí quy đổi vài cân vàng bạc chuyển mua bán rất chóng vánh. Với một số người tư tưởng có phần cổ hủ khi nhìn nhận sự thay đổi lớn trong thời gian ngắn có thể phát kiến bằng hàng nghìn năm lịch sử trước đây. Thời đại hiện nay với sự công bằng chung được cải thiện một phần lớn khi thông tin được chuyển dịch nhanh chóng, các thiết bị, mạng xã hội nơi cá nhân bày tỏ quan điểm và có nhiều người từ xa tới gần có thể đọc với những minh họa, bằng chứng bằng đoạn phim hay hình ảnh lưu lại. Một giai đoạn cuộc đời cũng có thể lưu tại mạng cá nhân. Cũng trong sự thay đổi, chuyển động tự nhiên theo quy luật này. Nhân mệnh ở thế bĩ cực có thể vượt qua những khó khăn trong thời gian ngắn hơn. Nhịp chuyển động của xã hội rất mạnh, thay đổi nhanh chóng theo từng thời gian ngắn. Bản thân một số nhân mệnh có cách cục quý cách người viết thường nhìn thấy sự vui tươi trong giai đoạn khó khăn bế tắc lớn của nhân mệnh. Nhắc tới có nhớ một nhân mệnh thời gian cũng hơn 10 năm, khi đó trung vận phá tán nặng nề, mắc khoản nợ rất lớn. Vẫn thấy trong Sát vận hiện hành vui vẻ kể về việc may mắn ở thời kỳ này không phải đặt tính mạng như thời chiến trận ác liệt. 




Tham vọng phát tài bằng cờ bạc, dù thua hoặc thắng đều rất có động lực để chú tâm vào canh bạc tiếp theo, kể tới khi lâm vào cảnh nợ nần mất mát lớn. Với việc phát triển mạng thông tin, trên báo tin tức cũng thông báo một số vấn nạn này với số lượng tiền rất lớn. Rất nhiều những tri kiến tốt trên mạng kết nối, cũng rất nhiều nguy hiểm lớn như có thể chỉ một vài thao tác có thể chuyển dịch vài trăm triệu để lao vào đỏ đen hoặc đầu tư, mua bán sinh lời cao như một chiếc bẫy Đà La giăng bởi lợi nhuận, lời lãi cao Lộc Mã. Cách Mã Kiếp Tồn là cách cục nguy hiểm nếu mệnh cách không chế áp được định cách này. Tính hai mặt của Sát tinh tác động rất mạnh bởi các bố cục then chốt hình thành. Rất nhiều ngưởi nghiên cứu tử vi phân định giữa Mệnh và Thân sai khác khi cung an Thân hoạt động từ khoảng tuổi tam thập. Trên mạng tìm kiếm có một bài viết về việc tâm linh hay duy vật phát triển, hai ngưỡng đã định hình hai chủ nghĩa duy vật và duy tâm và rất nhiều nhà khoa học, triết học xét khởi về vấn đề này. Thiền sư Thích Nhất Hạnh có đưa ra thí dụ về vật lý nguyên tử, xuất hiện cùng dạng hạt và sóng tại cùng một thực tại. Bỏ đi tính nhị nguyên, xét tới tính đồng nhất của duy vật và duy tâm có thể cùng chung gốc. Tâm là Mệnh, vật là Thân, xuất phát từ một thể, tác động ngay từ khi thai sinh. 

Tuesday, August 17, 2021

Nối tiếp thế hệ và bạch thủ hưng gia

 Sự nối tiếp của thế hệ đi trước trong một gia đình tức vận nhà khiến hệ cách cục định số biến chuyển theo khuynh hướng có tính khảo cứu tương đối hay. Thứ nhất thường một số người nghiên cứu tử vi có kinh nghiệm luận về truyền tinh của phụ mẫu tới nhân mệnh. Thứ tới là việc suy xét tính chất này có một đặc điểm quan trọng khi khảo cứu là xét sự biến dịch của tổ hợp tinh đẩu hung họa trong một gia cảnh tốt đẹp để định cách biến hóa của tổ hợp. Cách cục bản chất về tính cách hay bản tính không có sự sai biệt. Tuy nhiên về lý tưởng, tham muốn đạt được của hai trường hợp này đã ở cách xét mức độ rất khác nhau. Vận thiên hạ thắng vận nước, vận nước thắng vận làng, vận làng thắng vận nhà, vận nhà thắng vận mệnh. Đây là sự tác động nghịch với nhân mệnh. Tuy nhiên bản chất một nhân mệnh khí hóa cao viễn hay thậm chí bình thường vẫn có thể là tác nhân suy chuyển vận nước, việc này đúng với yếu nhân đứng đầu trong một tổ chức quốc gia. Trong bài viết này bàn về tác động của vận nhà tới mệnh cục. Thể chế, truyền thống, bản sắc một quốc gia sẽ tác động tới toàn bộ công dân của quốc gia này, từ hệ thống công trình cho tới giáo dục, y tế, kinh thương,... Đặc biệt là sự tác động của giáo dục sẽ tương đối mạnh. Tại đây tác động này sẽ hình thành nên sự sai khác giữa các quốc gia. Tức sự tác động của vận nước sẽ liên quan tới nhân mệnh quốc gia này. Vận làng tức xét hoàn cảnh sinh sống tại một địa phương. Và vận nhà là tác động của gia đình, phụ mẫu huynh đệ tới nhân mệnh. Nếu vận nhà cực thịnh, tức tổ nghiệp ở vị trí cao trong xã hội thậm chí quốc gia. Tính chất của toàn bộ tinh đẩu sẽ sai khác về tham muốn và lý tưởng. Thí như với lá số nhân mệnh đắc cách Cơ Lương cư Thìn hội Khoa Lộc Mã Xương Khúc Tả Hữu, sinh khởi trong gia đình phú gia địch quốc. Nhân mệnh đắc cách này có khuynh hướng phát tài phú tương đối mạnh. Tuy nhiên trong các lá số nghiệm lý, có nhân mệnh theo khuynh hướng tu đạo, có người rời bỏ gia đình ẩn cư tu đạo. Các bố cục định cách về khuynh hướng đã hóa hợp sai biệt tương đối mạnh. Tượng cách Cơ Lương có một phần tính chất ưa nghiên cứu đạo, thoát ly tăng đạo như cách Tử Tham. Khi định cách cục này có trường hợp nghiệm lý quả thực có kết quả trường hợp sai biệt. 



Với bố cục mệnh cách thừa hưởng kế tục được tước vị, hay tài sản rất lớn của phụ mẫu hay thậm chí gia tộc, dòng họ do tính truyền thừa, kế thừa. Nghiễm nhiên một số mệnh cách này đã có được khởi đầu rất tốt đẹp. Đây là điểm rất cần chú trọng khi xét gốc khởi ban đầu của cách cục. Thực tế trong giai đoạn hiện thực, tại tất cả các quốc gia khi xét ở phương diện doanh nhân hoặc chính trị có nhiều mệnh cách được sinh khởi trong gia đình có truyền thống lãnh đạo đứng đầu một tổ chức hoặc một quốc gia. Gốc khởi phát này như nguồn lực rất lớn tới nhân mệnh cũng dễ xét tới trong ngay môi trường xung quanh mỗi nhân mệnh. Tuy nhiên khi khảo sát về nhân mệnh đắc thành tựu khởi phát từ gốc vận nhà tương đối yếu thế, với cách cục Sát cách đắc lệnh vẫn mang ý nghĩa hoạch phát rất lớn. Nhân mệnh nếu khởi điểm không được nhiều thuận lợi, có thể trong hoàn cảnh rất khó khăn bằng nỗ lực tạo những thành công lớn tới xã hội cũng xuất hiện rất nhiều. Cách cục này để thành cách có những tinh hệ thường khi xét luận chủ có tính chất vươn lên, cầu tiến rất mạnh. Khi nghiệm lý toàn cục xét tính chất sao, cổ nhân phân định Khôi Việt là bộ sao quý nhân, tính chất vượt trội rất mạnh, an theo Thiên Can nằm ngoài bốn nhóm sao chính an theo Thiên Can. Thiên Khôi và Thiên Việt nếu nhập Mệnh ắt nhân mệnh hẳn không là người tầm thường. Lưu ý việc Khôi Việt nhập mệnh khác tam hợp chiếu, củng chiếu mệnh hoàn toàn. Khôi Việt thí như sự trọng đại, khi nhập mệnh mang ý nghĩa tăng trọng cung độ này. Nếu xét tính bộc phát, Khôi Việt có tính chất dự đoán, cát hóa bố cục hung cách. Không Kiếp bộc phát bất ngờ. Khôi Việt là cách cục chủ vươn lên, là thế trợ lực của hoàn cảnh tới nhân mệnh. Mệnh cách gặp Khôi Việt, nếu sinh khởi nhân mệnh hoàn cảnh khó khăn sẽ có sức vươn lên tương đối mạnh. Về phần định cách cục Khôi Việt một số bài người viết đề cập tới tính chất của tinh đẩu này. Thường xét luận 6 trợ tinh gồm Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt. Tuy nhiên nếu xét thực tế trên thiên bàn có 4 trợ tinh có thể hóa khí và có bàng tinh an theo trợ tinh này tức Tả Hữu Xương Khúc có Thai Tọa Ân Quý Cáo Phụ. Tả Hữu chỉ Hóa Khoa có 2 phụ tinh Thai Tọa. Xương Khúc có thể Hóa Khoa và Hóa Kỵ gồm 4 phụ tinh Ân Quý Cáo Phụ. Thực tế phân định hai tổ hợp của Thai Tọa và Quang Quý an theo ngày sẽ hình thành một số cách cục mang ý nghĩa cốt lõi trong trợ luận về độ số. 




Hai bộ Quang Quý và Thai Tọa an theo ngày nên không nằm cố định theo tổ hợp sao xác định từ trước. Tác động của hai bộ sao này tương đối mạnh, biến chuyển tính chất hoàn toàn của một cách cục cát hung. Người nghiên cứu tử vi thường nghiệm lý hai trường hợp Xương Khúc Ân Quý đồng cư Sửu Mùi và Tả Hữu Thai Tọa đồng độ tại Sửu Mùi. Bốn trợ tinh Tả Hữu Xương Khúc hợp hóa tương đồng, xung chiếu tại Thìn Tuất, tam hợp chiếu tại Tị Dậu Hợi Mão, đồng độ tại Sửu Mùi và đơn thủ tại Tí Dần Ngọ Thân. Sáu vị trí Thìn Tuất Tí Ngọ Dần Thân gặp trợ tinh Tả Hữu Xương Khúc không đủ bộ, đơn thủ. Do vậy cổ nhân luận cách Xương Khúc Tả Hữu đồng cư Sửu Mùi là cách cục nhập miếu cát hóa mạnh, đặc biệt khi giao hội Thai Tọa hay Cáo Phụ. Với Sát tinh Không Kiếp luôn đồng độ tại Tị Hợi, xung chiếu tại Dần Thân, tam hợp chiếu tại Mão Dậu Sửu Mùi, đơn thủ tại Thìn Tuất Tí Ngọ. Khi xét xong phân bố của Chính Tinh, xét Tứ Hóa, 4 trợ tinh, Không Kiếp để định khí hình gốc hay năng lượng của tinh bàn. Tại sao gọi là năng lượng ?. Do tính chất lưỡng đấu của Sát và Trợ tinh, hoặc vị trí kích phát treo của các tổ hợp này khi nhật hạn, nguyệt hạn, tiểu hạn với thời gian ngắn vận qua sẽ gặp biến hóa mạnh trong tư tưởng, hàm tính biến động, dao động mạnh. Năng lượng trong các tinh hệ Chính Tinh với các nhóm sao thủ mệnh sai biệt tương đối lớn. Xét cục nếu phần năng lượng của Sát cục lớn, hoặc trợ tinh lớn là điểm vượng suy của nguyên cục. Nếu Sát tinh có năng lượng lớn, sức áp lực, đè nén, bất ngờ, lo sợ và bế tắc, mất phương hướng,... sẽ phát khởi mạnh nếu không được chế hóa. Với trợ tinh lớn như Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt là sự phát triển, xu hướng tốt lên, tăng tính ổn định, thời vận, tuy nhiên năng lượng khởi phát không lớn mạnh, khởi tham vọng lớn như Sát tinh do tính cân bằng, ổn trọng trong tính chất tác hóa. Trên tinh bàn, xuất hiện các tổ hợp có sức tác hóa lớn, đây là mệnh phát triển bất ổn định, tức khi phát ắt hoạch phát tài danh, khi hung họa tăng mạnh tính hung. Bản chất khi xác định dòng khí hóa vận hành qua các hành vận tác động tới tư tưởng, Mệnh Thân việc gặp tai kiếp nạn ách thương tích, thương tật hay phá tán bại vong đều đổng đẳng tính chất hoạch phát, cát hóa, đắc tài lộc, gặp thời cuộc. Đều không là mệnh thường, tuy nhiên hai khuynh hướng rất sai biệt. 




Điều quan trọng, người nghiên cứu tử vi xét luận từ gốc định, có thể phân rõ năng lượng trong tổ hợp hình thành mạnh là cát hay hung. Sát tinh có thể phối hợp định cách đại cát, cát trợ tinh khởi phát tối hung. Điểm khẩn yếu này biến hóa vận động thực tế do mong muốn của lòng nhân. Thí như một loài sâu bọ, khi diệt loài này có thể mang kết quả tốt với con người tránh hại cây quả, tuy nhiên có thể kết quả xấu với tự nhiên khi mất cân bằng. Năng lượng hay khí hóa gốc của tinh hệ cũng vậy, ngược về gốc bất phân cát tinh hay sát tinh. Khi truy nghịch, nghiên cứu giải đoán lá số người nghiên cứu cũng suy xét từ nguyên căn, thứ tới phân định cát hay hung của chính nhân mệnh mới có thể thực tránh một số sai lầm khi luận giải. Nếu nguồn năng lượng khởi phát trên một số tổ hợp mạnh, hay chính yếu là tổ hợp cung trọng điểm sức tác động lớn. Nghiên cứu tử vi không chỉ nhìn xét cách cục luận theo phú giải. Tinh đẩu biến hóa phức tạp, một số người nghiên cứu thời gian còn chưa thực sự nhiều tuy nhiên do một phần tính huyền học của toán mệnh tương đối khó tiếp cận, người nghiên cứu cũng thường muốn tri kiến của bản thân được người biết như trên các trang mạng khi luận giải hay truyền đạt tới mọi người như sự nghiệm lý, tổng hợp phân định phú giải cần sâu dày cần tránh rơi vào sự tự tin dẫn tới tạo nghiệp quả khi dự đoán lá số tới người khác. Quan trọng phú luận có tính phổ quát, tổng hợp rất lớn, nếu không nắm rõ yếu tố cốt lõi rất dễ sa vào câu chữ trong phú luận. Điểm chế hóa của mệnh cách là sự dung hòa của cách cục. Như việc dung hòa được thuốc có tính độc trong cơ thể phá những bệnh huyết ứ trong đông y. Ngược lại bồi bổ những liều thuốc, thức ăn bổ nhiều sẽ phát sinh tới bệnh tật. Bổ cứu là điều quan trọng trong ngũ hành tương sinh tương khắc. Tức giữ được đạo trung dung vậy. Việc được mặt này mất điểm khác là quy luật của thiên địa. Cách cục tượng cách lạc quan và hướng lên phía trước khi thời điểm hoàn cảnh khó khăn nhất là cách cục mang ý nghĩa cát hóa mạnh. Mệnh tạo này có sức đột phá mạnh, luôn tìm kiếm cơ hội, giữ tích cực trong thời gian dài là điểm ít cách cục nhân mệnh có thể hình thành. Các tổ hợp an theo Địa Chi. Với nhóm Đào Hồng Cô Quả và nhóm Tuế Hổ Phù Tang Hư Mã Phượng Khốc hình thành nên các cách cục mang ý nghĩa sai khác về tính cách khi nhập Mệnh. Đào Hồng có tính bất ngờ, Đào Sát chủ đoạt lấy, giữ của bản thân, Đào Hồng là nguyên nhân, Cô Quả là kết quả. Tuế Hổ Phù và Tang Hư Mã là hai mẫu người khác nhau, một chủ quan điểm, lập trường, lý tưởng rõ ràng. Một chủ tính xã giao uyên bác, mẫn tiệp, thích nghi, đa năng. Nhân mạng phân định như trên, phối hợp cách cục chính tinh và các nhóm sao khác hình thành nên hệ tư tưởng, mẫu người riêng trong xã hội. Cũng như xét định nhân tướng phân định diện tướng sai biệt có những tính cách riêng rẽ, hoặc như mệnh cách chịu ảnh hưởng của hành khí Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ trong ngũ hành phân định tính cách riêng. 

Monday, July 19, 2021

Tượng của khí hóa

Khi vạn vật hấp thụ sinh khí khởi vòng Trường Sinh, tính chất dịch chuyển của ngữ hành sinh khắc chế hóa tác động tới mệnh lý. Phàm thiên khởi ắt có địa tác. Điều hỗ lý này sinh ra những kết quả sai biệt khi luận đoán về dịch. Tượng của khí hóa đều tính chất riêng rẽ đặc biệt. Tuy nhiên màu đen cũng phát sinh rất nhiều mức độ, nếu trạng thái ứng hợp hoàn toàn chính là đen tuyền. Tứ hóa cũng vậy, khởi biến hóa phức tạp phát sinh nghĩa lý trong các hoàn cảnh tính chất hoàn toàn khác nhau. Các tinh đẩu trong tử vi tính chất cũng vậy, tuy xét về bản thể khí hóa tạo bởi âm dương ngũ hành phân định đều rõ ràng, khi ứng hợp các hoàn cảnh phân định sai khác rõ nét. Cùng một mệnh cách trên Thiên Bàn ứng hiềm bát tự 8 chữ cái giống nhau, ắt khi định số bằng toán mệnh ắt bất sai khác. Lấy khí ứng của chính nhân mệnh sẽ khiến toàn bộ tinh bàn tác động khởi khí hóa phân định khác biệt. Nếu cùng số mệnh, mệnh tạo sinh khởi theo nguồn gốc Phụ Mẫu hoặc giàu có, hoặc có danh vọng, địa vị lớn trong xã hội tính chất khởi phát của khí hình ngay từ giai đoạn gốc tính chất sai khác rất lớn với mệnh cách cùng chung lá số với phụ mẫu sinh khởi trong thời kỳ khó khăn, nhiều tai họa tác động tới phụ mẫu dẫn tới khởi điểm nhân mệnh không được thừa hưởng những điều tốt đẹp khi khởi đầu. Tuy nhiên cách cục trên có tác động lớn với một số bố cục mang tính kế thừa từ mệnh cách như Thiên Phủ, Thiên Lương,... Với những mệnh cách như Vũ Phá, Liêm Tham, Vũ Sát hội Hao Sát Kỵ Hình ắt có khởi phát gốc vững từ phụ mẫu cũng dễ phá tán hết rồi làm lại. Cũng vậy, với cách Vũ Tham, Vũ Phủ, Cự Nhật, Cự Cơ hay Tử Tướng,... là bố cục phần lớn không quan trọng khởi hành của gốc khí hình đắc cách có thể tự sinh thành tựu lớn. Khi luận nhân mệnh, quan trọng khởi đầu khi luận định lá số tốt đẹp dựa vào tổ hợp tinh đẩu thể hiện năng lực nội tại của mệnh tạo. Nếu cách cục hình thành Khoa Quyền Việt Kình hội Tang  Hư Mã là nhân mệnh có thực lực tuy gặp nhiều khó khăn tác động bởi nghịch cảnh. 





Với bố cục có Không Kiếp càng khó để luận đích xác ý nghĩa của tổ hợp. Với cách Không Kiếp Đào Sát thường luận là cách hung họa. Tuy nhiên người viết có giữ hàng chục lá số khi bố cục này xác lập thành cách đều có năng lực và vị trí rất cao trong xã hội. Bố cục này chỉ cần gặp thêm Thiên Hình hoặc Kỵ Hình hay Đà Kỵ ắt là cách bại cục. Cũng có nhiều lá số người viết gặp bố cục này khi luận giải đang trong đại nạn lớn, có người tuyệt mạng. Thí như, nhiều động vật có khả năng kháng chất độc trong tự nhiên, có loài sử dụng độc tố làm vũ khí tự vệ cũng như săn mồi. Sát Tinh như độc tố, kẻ chế ngự được một đời bạo phát, kẻ chịu tác họa của Sát một đời khó tránh yểu vong hay bần khổ. Sát tinh như thế cục của sinh tồn trong tự nhiên, vật chế dụng được thì phát lớn. " Hung tinh đắc địa phát dã như lôi". Nếu vật không chế dụng được, cũng như các loài chịu làm thức ăn cho kẻ khác. Sát tinh tổ hợp trên tinh bàn biểu thị biến hóa rất lớn, có kẻ đan tâm thù niệm với kẻ khác ra tay hình thương sát hại chịu hình pháp của quốc gia. Có kẻ làm việc trái đạo đức vẫn được ung dung ở vị trí cao viễn, do Sát cách chế hóa thành cách.  Tiền nhân phân định Sát tinh mệnh bần yểu là xét về hóa khí âm ám của Sát, phân định Sát tinh thành cách là xét về tú khí sáng vượng của Sát. Như việc loài vật ăn cỏ không gây nguy hại tới loài khác, tuy nhiên  đây là loài dễ bị trở thành thức ăn của loài ăn thịt. Hóa khí của Sát có thể hóa thành Lộc, tức tích lũy, thức ăn, lương tiền, lộc khố. Hóa khí của Sát có thể hóa thành Quyền, tức sự thống trị, cai trị, uy trấn. Hóa khí của Sát có thể hóa thành Khoa tức sự cẩn trọng, tinh anh, nhạy bén, linh hoạt tránh thế hiểm. Hóa khí của Sát thường hóa thành Kỵ, chịu làm kẻ thua thiệt, kẻ bị hại, cản trở, bế tắc, phá bại. Vì vậy, khi một cặp Hỏa Tham tương ngộ đã hình thành nên ý nghĩa phát phú, bản chất ý nghĩa tham muốn về tài sản, tham muốn vật chất. Mạnh hơn Lộc Tồn là tích lũy, tích trữ. Tham Hỏa vừa thể hiện một mặt tích lũy do tham muốn vật chất, vừa thể hiện tính linh hoạt, bộc phát của Hỏa Tinh. 





Hay cách Tử Phủ Kình Dương thành cách cự thương. Do Kình Dương có tính dẫn đầu, đi đầu, cạnh tranh mạnh. Bộ Tử Phủ có tính khai phá, khai tạo, cũng chứa tài sản bên trong do Thiên Phủ có Vũ Khúc tam hợp chiếu. Kình Dương tại đây tác động hỗ trợ mạnh như hóa khí Khoa Quyền. Sát tinh khi nắm chính đạo có tính bạo phát rất lớn. Tuy nhiên điểm cốt tủy của Sát cách nằm tại tính chất áp lực khủng kiến của Sát Kỵ tới tư tưởng nhân mệnh bằng những hoàn cảnh khó khăn, bế tắc trong cuộc sống có thể khiến nhân mệnh nhanh chóng sinh khởi tư tưởng chấp nhận với hiện thực, trượt dài trong thời gian khó khăn dẫn tới đánh mất tuổi trẻ. Trong thế đứng của cát tinh thường được luận tầm thường sự nghiệp. Khi định cách cục, trợ tinh văn tinh hội họp có tính chất tăng sự ổn định và tham muốn ổn định trong nội tâm phân biệt rất rõ về tính chất ổn trọng của từng cách cục tạo ra ý nghĩa. Thí như cùng một việc, một kẻ muốn sự an ổn khi tham muốn sự nghiệp cầu danh lợi, tránh tranh đấu, trong một tổ chức, lại yếm thế về năng lực có khuynh hướng nhường nhịn, dễ sinh bất mãn rất lớn trong nội tâm khi trong nội tâm một mặt lo ngại sự thay đổi dẫn tới mất việc, hoặc khi đụng chạm dẫn tới mệnh tạo gặp nhiều rắc rối. Tính chất ổn trọng tạo bởi trợ tinh gặp phá cách trong trường hợp này. Thí như trường hợp khác khi trợ tinh điều ngự, chế hóa Sát tinh, nhân mệnh ở thế chủ động, lấy công kích, kích động và ổn định được tư tưởng khi ở thế chủ động tranh đấu. Hai trường hợp này, tuy cùng vị thế cách cục và cách ứng hóa của bố cục sai khác, trái ngược hoàn toàn với nhau. Cũng như vậy, thường nghe việc thành tựu của một người ắt gặp một thời điểm khủng kiến về chính tư tưởng, bế tắc tuyệt vọng và lựa chọn đường duy nhất phải vực dậy hoặc mãi chìm xuống dưới đáy. Ngẩng đầu lên ăn xin chính là Kình Dương, ngẩng đầu lên để vực dậy cũng là Kình. Cúi đầu để nhận tội, nhận cảm thông là Đà La, cúi đầu nhìn xuống để phán xét, ra lệnh cũng là Đà La. Thực tế khi luận phần đắc hãm một tinh đẩu tức xét tính hữu dụng và bất dụng. "Kình Dương mắt đen như tà, ắt hẳn Hóa Kỵ trùng là Hình Diêu. Thập phần tính chủ liều, đụng vào không khéo vướng điều oan gia". 





Thường Sát tinh củng chiếu mệnh phát sinh diện tướng bên ngoài ứng hợp. Có tướng diện kẻ hung ác, kẻ thâm trầm, gian trá, kẻ hiền hòa, giỏi lý lẽ, kẻ có tham vọng lớn, kẻ đào hoa,... tướng số phát sinh ra diện tướng bên ngoài nhiều như vậy. Tử vi khi định cách các lá số cũng phân biệt không sai khác. Tuy nhiên thường người nghiên cứu tử vi hiện nay do sự trà trộn của man thư, luận về ứng hợp tính cách trên lá số tử vi của nhân mệnh còn không bằng nhìn trực tiếp tướng diện để xem tướng đoán mệnh. Điều này ám chỉ trong ý nghĩa của tinh đẩu hoặc khi phối hợp thành các tổ hợp, khi kinh thư lưu truyền ra bên ngoài đã tam sao thất bản khi định cách. Toán mệnh cách là bộ môn huyền diệu trong huyền học lý pháp về Nhân trong thiên địa nhân. Thực tính từ nguyên tắc luận định từ dịch lý để xét khởi. Việc xem xét nhân tướng học, xem tướng mạo được xác định là việc cơ bản trong đời sống hàng ngày. Tướng mạo tiền nhân thường luận về ác tướng như mũi diều hâu, mắt tam bạch, tứ bạch đản, yết hầu lộ cao kết hợp da cổ mỏng, hàm dưới dài mặt gãy khúc,... . Hoặc thí như một số tật bệnh tạo ra tai kiếp ngay từ khi mệnh tạo thụ thai như hội chứng của bệnh Down sẽ bất lợi về trí tuệ rất lớn. Về hình tướng cũng sẽ đặc trưng so với những người bình thường. Hiện tại những khám phá y sinh mới hiểu rõ về nguyên do bệnh tật này. Trong thời đại quá khứ, xét biến hiện bởi tướng trạng bên ngoài để luận đoán, dự đoán số mệnh từ kinh nghiệm. Việc đương số sinh khởi tướng mạo ứng hợp với tư tưởng nội tâm hành hóa bởi khí đã khởi phát từ xa xưa, ngay cả khi nhìn các giống loài ăn thịt và ăn cỏ sát tướng và sát khí khởi phát rất sai biệt. Môn bốc phệ, quẻ dịch thời khắc sự kiện phát sinh chiêm bốc dự đoán về việc cát hung phát sinh một điểm quan trọng chính là giờ thai tạo của một nhân mệnh ắt sẽ sinh diễn biến nét chính về dự đoán cuộc đời của mệnh tạo. Tú khí hay tạp khí là điểm tối quan trọng khi luận toán mệnh một lá số. Cũng như diện tướng hiển hiện quý tướng trên khuôn mặt hợp vị, hợp cách tức tú khí phát ra bên ngoài. Định cách lá số tử vi không nằm ngoài lý này. Tổ hợp tinh đẩu thành cách ứng hợp diện tướng có điểm đắc cách. Khởi cách cục, luận mệnh đắc cách, dù Hỏa Linh Không Kiếp hội không đáng ngại, trái lại còn tạo nên hoạch phát lừng lẫy cho mệnh tạo. Khởi cách cục, luận mệnh phá cách, dù Lộc Mã Khôi Việt cũng là mệnh tạo bình thường, chỉ lo lắng cho sự an toàn, yên ổn của bản thân bỏ qua nhiều cơ hội phát triển lớn. 



Tượng nguyên thủy của Hóa Lộc là thái, tượng của Hóa Kỵ là bĩ. Hiềm nỗi vận thái bĩ luân hồi. Nhân mệnh không trải qua khó khăm trắc trở lớn như Kim không được Hỏa luyện ắt không bén. Phàm mệnh cách hình thành thế Xương Khúc Tả Hữu Khôi Việt trùng phùng hội các vòng sao tốt đẹp như Lộc Tướng Ấn, Tuế Phượng, Đào Hồng với các Chính Tinh cát hóa, đa phần khó đắc cách thành tựu lớn hơn hội Sát Kỵ trùng phùng. Do yếu tố căn bản của ổn định phát triển là thiếu đột phá, bứt phá với tham vọng đột phá. Nếu một kẻ khư khư giữ tiền của bản thân trong túi tích cóp nhỏ nhặt có thể trở nên tiểu phú, tuy nhiên sẽ khó có cơ hội trở nên đại phú, phú gia địch quốc. Điểm cốt tủy ở cách cục hay khí hóa hình thành là chữ Tinh. Có thể luận theo ý nghĩa diễn giải là tinh hoa, tinh túy mang tính cô đọng, ngưng tụ của Hóa Kỵ. Sát cách khi chế hóa được cục, nắm được chữ tinh, ắt nắm được Sát cách, luận được tổ hợp Sát, tức định cách được lá số, những điểm cát hóa mạnh hay phản tác hóa vi cát của Sát tinh có sức tác động rất lớn, tăng mức độ của cách cục. Sát cách khi tác họa, nhẹ thì hình thương họa hại, nặng thì khí tuyệt mệnh vong. Sát cách khi  cát hóa, phúc hẳn rất lớn. Thực tế khi định cách cục trong tử vi, hai lá số đồng dạng, sinh đôi trường hợp khác trứng của Đông A phái khảo sát có sự tương hợp rất lớn về tính cách và nghề nghiệp. Tuy nhiên hạn hành hoạch phát hay hung tai mức độ sai khác. Như người viết có xét hai trường hợp của cùng sinh đôi. Cùng giai đoạn Hổ Hình Lộc, mệnh cách theo hai khuynh hướng sai biệt, người anh theo ngành luật sư kế thừa người cha, người em theo ngành thẩm phán tòa án. Hạn năm Kỷ Hợi tức năm 2019, nam mệnh theo ngành thẩm phán gặp thời một bước lên mây, thăng chức liên tiếp trong khoảng thời gian ngắn. Người anh theo ngành luật sư cho doanh nghiệp bên ngoài năm này giải quyết vấn đề liên quan giữa doanh nghiệp cũng tạo được tiếng vang rất lớn, tuy nhiên sức hoạch phát về công danh không lớn mạnh như người em, tuy nhiên về phần tài lộc và ám lộc có phần tốt đẹp hơn. Bố cục định Sát cách tuy hai lá số trùng nhau, lại cùng môi trường hoàn cảnh gia đình, tuy nhiên khuynh hướng về sau sai khác, cùng ứng hợp với bố cục nghề nghiệp mang tính hình tụng, lại có điểm sai biệt. Tuy đại đồng nhưng tiểu dị.




 Phàm nhân mệnh gặp vận hạn tối tăm mờ ám, khó có thể tạo nên đột biến lớn nếu Sát cách không chế ngự được bởi toàn cục. Lại ứng tới mỗi nhân mệnh sẽ hấp thụ nguyên cục của Sát tinh và sau đó hóa hợp mang ý nghĩa sai khác. Sát cục hóa thành tú khí, mệnh này tối quý, ắt nắm đại quyền. Sát tinh hóa thành tạp khí, hung khí ắt mệnh ứng hiềm dễ yểu tử hay gặp ác nạn bất ngờ. Cũng giống như các thời cơ do hoàn cảnh mang lại hiện nay như việc một làng được xây dựng các khu chế biến, công nghiệp ngay tại đó ắt đời sống của người dân buôn bán gặp thời. Lá số cuộc đời cũng như vậy, có vận cát hóa, dễ tạo được thành tựu lớn trong đời, có vận hung họa dễ gặp tai kiếp. Cũng vậy, người nắm được thời vận biết tiến lui phù hợp hoàn cảnh ắt có được phú quý. Trong thời điểm ứng hiềm thời bĩ của vận thiện hạ, việc phát sinh bệnh dịch như dịch covid-19 hiện nay, khi xét bố cục vận nước qua mỗi quốc gia nhìn rất rõ được tai kiếp của vận làng, vận nước, vận thiên hạ tác động tới mỗi nhân mệnh. Tại một quốc gia đang gặp tai kiếp nặng nề do bệnh dịch như Ấn Độ có thời điểm lên tới gần 400.000 người mắc mỗi ngày , hay Nepal có ngày lên tới hơn 8000 người mắc. Và bệnh dịch này có tỉ lệ khoảng 1/4 tác động nghiêm trọng tới phổi hay cơ quan nội tạng. Tức với quốc nạn này hình thành, cao điểm sẽ có khoảng gần 100.000 người mỗi ngày chịu tác động hậu quả lớn. Cả một số ngành nghề kinh thương hay có những người giàu sẽ trở nên khó khăn, nợ nần lớn khi chịu tác động trực tiếp tới việc kinh thương. Trong thời điểm bệnh dịch này, mệnh cách hội họp nhưng tinh đẩu chủ di chuyển, chuyển động thường xuyên ắt sẽ ứng hợp với nguy cơ mắc bệnh cao hơn. Hoặc như tại vận làng, cũng sẽ có khu vực trọng điểm dịch bệnh. Điều quan trọng tại đây là trong sẽ có nhân mệnh tại mệnh cách hình thành bố cục Kỵ Hình Việt hội Tang Hư Mã và Sát dễ hóa thành mang ý nghĩa vi phạm quy định, thêm Phi Liêm thành cách trốn trách khai báo, có hung họa hay không còn ở tại Lưu Sát Kỵ và Không Kiếp Hỏa Linh. 




Nhân mệnh khi xem các môn huyền học mệnh lý, hay xem bói, lên đồng, cúng bái, giải hạn khi xét tới yếu tố dự đoán về việc sắp diễn ra cần chú ý tính xác thực. Nhân mệnh cách hạn hoạch phát nếu xét tại diện tướng có thể nhận định dự đoán tương đối gần và sát thực tế do khí phát tiết ra bên ngoài diện tướng, tướng mạo là hành khí đặc trưng của mỗi nhân mệnh. Lá số tử vi là thế đứng của nhân tính, do bản tính chịu tác động của âm dương ngũ hành, thuận vòng Trường Sinh lấy làm thể mệnh. Quá trình xoay vòng không dứt, một vòng tròn thập nhị cung đồ, 12 cung như thập nhị nhân duyên. Sinh Vượng Tử Tuyệt cuối cùng nhập Thai sinh nối tiếp nhau. Liệu bản tính của nhân mệnh có thực là hình thành trong kiếp sống này hay thực tế là tập khí chuyển dịch của kiếp trước. Vòng Trường Sinh là vòng tròn, không thấy điểm cuối. Bản chất nhân mệnh là sinh diệt tự mất đi, tuyệt khí về tâm thức sau khi tuyệt mạng, hay như vòng Trường Sinh, cuối cùng của chữ Tuyệt lại bắt đầu một chữ Sinh mới, điều này khó có thể khẳng định. Thực tế người nghiên cứu tử vi, nghiên cứu các môn huyền học toán mệnh sẽ tự chiêm nghiệm của bản thân thực chứng về thế giới quan về huyền học phương Đông. Sinh và tử của con người là quá trình bất dịch. Tượng của khí hóa là thể của thiên địa. Thí như mưa đủ thì vạn vật tốt tươi, nhiệt đủ thì sưởi ấm vạn vật, đất giúp thu tàng, dưỡng mộc. Kim là thuộc tính quan trọng của thiên địa, trong máu hay các cơ quan trong cơ thể đều có kim loại, kim sinh thủy, trong các nguyên tố kim loại chiếm phần tương đối lớn trên bảng tuần hoàn hóa học. Ngũ hành có tính chất riêng biệt. Mệnh quý rốt cuộc có thường có quý tướng, tính cách, thói quen dễ dẫn tới thành công. Cũng như việc khi chưa nắm rõ nguyên lý về bệnh tật, coi việc những nhi đồng không may gặp bệnh tật như bệnh down và tắc-nơ theo tướng số ắt thường khó có thể đạt được những tài danh hoạch phát khi xét nhân tướng. Người nghiên cứu toán mệnh nên soi xét về điều này, thường quy dự đoán phú quý thành bại về tư tưởng, tâm sở của bản thân. Tâm thức mạnh, chuyên nhất, tập trung với tham vọng dễ đạt được những thành tựu tốt đẹp. Mệnh tạo nếu chịu tác động bởi nhiều Đào hoa tinh là việc khó luận, có thể dẫn dắt tham vọng cầu tài danh, có thể khiến nhân mệnh chìm sâu trong ảo vọng về tài sắc, hư huyễn. Cách cục mạnh trong mỗi thời kỳ mỗi khác. Khi chế độ phong kiến, quân chủ sụp đổ, không còn vua thực quyền, danh chính ngôn thuận. Thời thế thay đổi, tinh đẩu biến hóa theo nghĩa lý của thực tại, tuy nhiên về ý nghĩa gốc cốt yếu không sai khác. 


Saturday, August 10, 2019

Tâm linh và tri kiến khoa học





Tính chất của nhân mệnh, là thực lý của Âm Dương Ngũ Hành. Trong đó có những cách dụng dịch lý có phần đặc biệt như Mai Hoa Dịch Số xem tượng cát hung của các sự việc diễn ra, như xem từ, âm thanh, nghe tiếng nói, cử động, chữ viết,... Toán mệnh lý là một phần khi dựa vào thời khắc thai sinh để dự đoán của đời của nhân mệnh, đại đồng tiểu dị, bất sai khác tuy nhiên lại phát triển có phần sâu sắc hơn khi người chính là chủ thể mà dịch số hướng tới, luận cát hung, thọ yểu, sự nghiệp, tài danh, phúc trạch, phú quý. Kỳ thực chỉ riêng môn tử vi, hoặc bát tự đã nghìn năm vẫn đứng vững, lưu truyền rộng rãi, nghiệm lý toàn cục thực có điểm huyền diệu, nếu không ắt cũng gặp khuyết điểm mà đào thải do sự nghiên cứu thấu thị của tiền nhân.  Mỗi nhân mệnh là một vòng luân hồi, do duyên để phát khởi. Mỗi lá số là một tiếp chuyển của nhân duyên, là cách dự báo theo Âm Dương Ngũ Hành bất biến luôn tác động tới vạn vật, tuy nhiên Âm Dương Ngũ Hành không phải là vật, là một phần quy luật vạn vật tuân theo. Có những việc khiến bản thân ta tin và không tin do tri kiến của khoa học và do chưa khám phá hết thế giới quan của vũ trụ. Cũng như người viết thường luận về toán mệnh, sẽ có người nhìn vào một quyển sách huyền học và tự bỏ qua do tiềm thức ứng với tin tưởng về sự thực tại của duy vật, không có sự gắn kết của tâm linh, của linh hồn. Sẽ có người bất chợt lần đầu tiên nghiên cứu quyển sách đó và nhận ra được giá trị và thứ mới lạ tồn tại xung quanh thế giới quan của nhân mệnh đó. Sẽ có người đã có tín tâm với các môn tam thế diễn cầm từ quá khứ hoặc tin tưởng về dự đoán của Âm Dương Ngũ Hành để nghiên cứu cuốn sách. Sự phát sinh như vậy khiến vạn vật trở nên đa dạng, nhân duyên thúc đẩy cũng sai khác. Trong một kho tàng trí tuệ của mạng thông tin, việc tìm kiếm trên mạng cũng mang ý niệm ứng hợp với nhân duyên. Cũng một việc những sự chứng nghiệm của các nghiên cứu về luân hồi, chuyển kiếp được các nhân chứng sống và kiểm nghiệm của những nhà khoa học, hoặc thậm chí chỉ một vài tin tức về sự dị biệt của một vài trường hợp ở nước ta. Có người sẽ do nhân duyên tìm kiếm thấy và sẽ bỏ qua, trong nội tâm sinh nghi về tính xác thực và động cơ của vấn đề này. Tuy nhiên những nhân mệnh như vậy, khi những vấn đề thường được bỏ qua một cách vô thức, lại đánh mất đi một tri kiến, giá trị của cuộc sống. Chỉ những người trong cuộc hiểu rõ, cũng như người nghiên cứu tử vi hiểu rõ về sao Linh Tinh trong một số cách cục chính là linh hồn, khi đồng độ với Đồng Việt là linh ứng. Nhân mệnh có cách cục này sẽ thường là người có niềm tin rất lớn về nhân quả và nghiệp nhân duyên, tâm linh, không phải do mù quáng, là một thể tính như việc tìm hiểu một sự vật như trên người viết đã đề cập. Vạn vật chỉ có tri kiến là hữu hạn, những việc khó tin tới người nhìn thấy sự tồn tại của hố đen của vũ trụ, đa phần những người nghiên cứu dày dặn trong khoa học bỏ qua và thực khó tin về sự tồn tại này. Qua thời gian lại được chứng minh. Sự phát hiện bởi chỉ một người duy nhất lại có thể đúng và hàng chục năm sau mới có thể chứng minh. Khi bản thân người viết tìm kiếm một thứ gọi là ý thức, một phần có thể đo định bằng thực thể có khối lượng để chứng minh sự tồn tại của linh hồn. Một đạo sư ẩn cư do một nhân duyên tình cờ ngắn ngủi, đàm đạo với người viết về thể tính của nhân mệnh. "Không cần tìm bằng chứng cho sự tồn tại của luân hồi hay tâm linh. Nó không có hình tướng, không có sắc diện, không có nặng nhẹ, không bị tác động, không bị sinh diệt, vì nó được lưu lại tại bởi chính sự liên hệ của bản thân đã tồn tại, biến đổi tới vạn vật xung quanh trong các giai đoạn sống, sự liên hệ đó liên tục với chấp về tri kiến, phân biệt thành mỗi bản thể , từ khi bản thể phát sinh và sự tồn tại của thân xác, ý niệm. Trong một xã hội đang tồn tại về các tính cách, bản tính tương ứng thực chính là sự khởi nguyên của luân hồi. Không có hình tướng do dựa vào nhân duyên để khởi, bản thể là sự liên kết của vạn vật, khi thế giới diệt, cũng chưa diệt vì lưu lại ở mỗi chủng tử thức của vạn vật. 



Về sau, khi nghiên cứu về tri kiến của khoa học, những tri kiến của vị sư trên luôn tồn tại trong tư duy của người viết, thực chứng nghiệm dần về lời luận của cố nhân. Những ngôi sao tinh đẩu đã diệt cách đây rất lâu, tuy nhiên hình tướng của chúng cách đây vạn năm vẫn xuất hiện khi nhìn lên trời, khi đặt mắt ở các vị trí khác nhau trong cùng một thời điểm sẽ thấy được những giai đoạn khác nhau đã xảy ra với ngôi sao này . Sự xuất hiện được lưu lại khắp mọi nơi, được các chủng tử thường gọi là ánh sáng mang tới do khoảng cách khác nhau dẫn tới thời gian khác nhau. Sự tồn tại về thể tính của ngôi sao được lưu lại ở tất cả các chủng tử trong vũ trụ dù ngôi sao đã tan rã, diệt, khi ở gần sẽ thấy thực cảnh, ở vị trí xa thấy sự tồn tại cách đây rất lâu. Có thể một giai đoạn sau khi khoa học trở nên phát triển hơn, ngoài ánh sáng, tồn tại các dạng khác nhau chưa thể nhận thức. Do tính phủ khắp của ánh sáng, vật tồn tại được lưu lại toàn bộ thể tính, bản tính, bản chất.Khi nhân mệnh tồn tại, các chủng tử nhân duyên, hay có thể gọi là sự kiện đã diễn ra, đã phát sinh. Nhân mệnh cũng vậy, khi tất cả đều diệt, ở tại mỗi vị trí đủ xa khi ánh sáng chiếu mang thông tin tới, nếu có đủ khả năng khoa học, trong huyền học cũng có một thể tính gọi là thông linh từ con mắt thứ ba, có thể nhìn thấu từ quá khứ, hiện tại, vị lai ở vị trí nằm ngoài vạn vật. Sự tiếp chuyển của sinh diệt bởi con mắt trần là sự tan rã, hủy hoại của xác thân. Trong các cổ thư đều lưu rõ về khả năng nhìn thấu về nhân duyên và luân chuyển sinh tử bởi con mắt thông linh. Giai đoạn rất lâu từ các thời trước, sự vận hành của con mắt thông linh đã mô tả hàng nghìn năm tuy nhiên thường không rộng rãi. Hiện nay khi thông tin phát triển, sự tương ứng của các giai đoạn lịch sử và quốc gia khác nhau với vị trí và mô tả tương đồng dẫn tới việc nghiên cứu khoa học về vấn đề này càng sáng tỏ, phá những mê tín sai lệch. Sự tồn tại của một con người và chuyển tiếp của luân hồi, có ký ức từ chủng tử của tất cả vạn vật, từ thông tin ánh sáng nhìn thấy nhân tướng luôn có mặt ở khắp nơi, nếu khoa học có thể tiềm vọng tới từng nhân mệnh, mỗi khoảng cách có thể lưu trữ nhân tướng và biến động của nhân mệnh ở từng thời kỳ, chỉ những tri kiên khoa học đã từng biết tới cũng đã cho biết rõ việc nhân mệnh không chỉ lưu lại tồn tại ở trong mỗi cơ thể, khi não diệt thì vật diệt, luân hồi là sự tái hiện của vòng Trường Sinh mỗi khi ở giai đoạn Tuyệt khởi tiếp tới Thai sinh, các chủng tử ký ức do bản tính hành thức có thể được lưu lại bởi chấp niệm, kết nối nhân duyên tới vạn vật để vận động thành một vòng tròn. Ứng với chấp niệm, luân hồi, không mang một tính thực thể có trọng lượng hay khối lượng của ý thức. 





Trong nghiên cứu của khoa học hiện đại, thực tính trong não nhân mệnh có tồn tại một con mắt thông linh, nhìn vạn vật ở thể tính khác, sự tồn tại này đã được khởi quyết là thực. Người nghiên cứu dịch lý nghiệm lý thường nhìn thấy khởi nguyên của vạn vật tuân theo quy luật của vũ trụ. Nguyên tắc này cũng dẫn tới con người không nằm ngoài, do đó khởi sinh ý niệm về số phận, sự ràng buộc của nhân duyên tới bản thể của số mệnh. Tuy nhiên khi suy xét về khuynh hướng phát triển tính chất đã dị biệt do tác động của chính trị dẫn tới biến một phần của khai phá khoa học thành tính chất chính trị trong chế độ quân chủ. Về sau cũng do khai phá trừ bỏ chế độ này dẫn tới sự đánh giá về toàn bộ khoa học phương Đông thành mê tín, dị đoan. Bản pháp không dời đổi, tri kiến về chân lý không thay đổi tuy nhiên với ý niệm cách nhìn thay đổi. Như việc bản thân mỗi người có đánh giá chủ quan về nhân tính của người khác qua gặp gỡ, giao tiếp có thể sai lầm. Trí giả thường ẩn cư tránh sự tác động khiến cách nhìn sự thực về vạn pháp thay đổi để lấy trí tuệ soi xét căn nguyên của vạn vật. Cổ thư có giá trị hiện tại cũng không còn lưu truyền, đa phần thất truyền. Tri kiến nhận thức, nghiệm lý về sự thực như một nghiên cứu khoa học về thể tính của ý thức như trên, cũng là sự nghiên cứu từ bản chất sự vật xung quanh như khoa học phương Tây hiện đại. Chỉ đường lối có sự sai khác, đa phần tính chất khai phá của tiền nhân lấy từ tri kiến về thực tại từ sự tĩnh lặng, tính Không của nội tâm trở nên sáng suốt, cũng có thể do tri kiến từ con mắt thông linh khi thiền định. Tuy tiểu dị nhưng đại đồng về nguồn căn giữa hai bên truy cùng nguồn gốc. Ngay tư tưởng khởi phát của mỗi nhân mệnh tuy biến hóa đa dạng do tính ứng hợp với thân thể mỗi người, vẫn tuân theo quy luật vận hành chung của vạn vật. Tuy nhiên để lấy tri kiến từ tư duy khách quan không mang một thiên kiến là khó khăn. Như việc một thế hệ khi được tin tưởng rằng " Địa cầu là trung tâm của vạn vật". Do thiên kiến trên bầu trời thấy vạn sao và thái dương chiếu đều xoay quanh địa cầu ở ngày và đêm, về tri kiến việc trái đất đứng yên. 





Mỗi lý luận lập luận về các thiên kiến tùy mỗi người đều sẽ nhận định là đúng hoặc trở thành sai trong từng giai đoạn. Hiện nay vẫn có một số bộ phận người cho rằng trái đất là hình vuông, sự tin tưởng mang tính tuyệt đối do những tri kiến nghiệm lý từ suy luận trước. Có thể nếu tri kiến đó được khai phá như việc du hành ra ngoài trái đất thực kiến sẽ khiến chấp kiến thay đổi. Khi tử vi an cặp Không Kiếp và Không Vong, chính là sự trái nguyên tắc của vạn vật, khiến tri kiến được khai mở liên tục từ những khám phá mới, Tham Lang là tham muốn tốt cùng về chân lý, khiến Phá Quân khám phá và Thất Sát lại thất kinh, bất ngờ về khám phá của bản thân về những kiến chấp đã tồn tại trong tri kiến bị phá bỏ như câu thường nghe " Không thể tin vào mắt mình", " Việc dường như không thể xảy ra". Tri kiến này cũng như tri kiến về luân hồi, về vòng Trường Sinh liên tục sinh diệt. Tới các thông tin về chuyển kiếp của mội người hay nhiều người có thể coi là sự lừ gạt. Thực tế, có những việc như có không gian có thể dừng thời gian là có thực tại hố đen, sự đột phá tạo ra bất ngờ. Do đó thường khi nghiệm lý về lá số theo khuynh hướng khoa học, từ khoa học huyền bí tới khoa học hiện đại thường nhìn thấy cách cục Sát Phá Tham hội Không Kiếp. Hay Cự Cơ Đồng hội Không Kiếp. Hai sao Cự Môn và Thất Sát là hai sao của sự bất ngờ, toàn cục của Cự Cơ Đồng và Sát Phá Tham đều mang tính khai phá rất mạnh, đặc biệt khi có Lộc Tồn hội Không Kiếp, do tính khai phá mạnh mẽ, khai phá ngay trong bản chất như đã hằng cố thường trụ, thường như chân lý vững chắc mà giai đoạn đó tri kiến được, tức tính chất của Lộc Tồn. Sức bạo phát của cách cục rất lớn, do vừa đắc vòng Lộc Tồn, vừa gặp Không Kiếp tuy nhiên rất khó đắc cách. Mỗi cách cục sẽ ứng hợp với tính chất bên ngoài đời thực. Như việc rất nhiều thần đồng, thiên tài có khả năng tri kiến từ thời trẻ là chữ Thiên Đồng. 





Sức tham muốn của vật dục với tham muốn về tri kiến khó có thể phân nặng nhẹ, một bên là trầm xuống, một bên là khai phá ra. Trong tùy thời cuộc, sự tác động của xã hội sẽ ảnh hưởng tới một phần tính định cách của tham muốn, như Tham Lang. Một nhân mệnh ở nơi này có thể là nhà khoa học vĩ đại, cũng nhân mệnh đó ở nơi khác phát triển tiếp nhận khí hóa từ thực tại sống có thể trở thành người tham muốn sắc diện. Vì tính khí hóa tại mỗi thời điểm, mỗi xã hội, mỗi tiếp nhận là sai khác ở ngay chính mỗi nhân mệnh. Toán mệnh là khả tri bất khả kiến. Sau trăm năm nữa người đang sống hiện tại cũng đều không còn tồn tại, xã hội đang sống là tiếp nối tương tục, là sự ổn định của vận nước. Tham vọng của người có tham muốn lớn luôn hàm chứa Sát tính loạn động, cũng khiến nhiều kẻ lâm vào cuộc sống bất mãn, đố kỵ, ganh ghét lẫn nhau. Trong bố cục Sát cách khó dụng do tính chất thường trực gặp của mỗi nhân mệnh. Ghen ghét, đố kỵ, thất vọng khi kẻ khác gặp may hơn hoặc có năng lực hơn là khuynh hướng tính chất thường ứng hợp. Thời vận tới rất nhanh, thành tựu của kẻ tay trắng gặp thời về tính chất cũng nhanh chóng như việc suy bại của một kẻ đại phú. Vận chuyển xoay vần, trước đây người cậu cũng là nguyên thủ quốc gia, thịnh suy dòng họ có lúc, vật đã có sinh mạng thì có mạnh yếu, được mất, may rủi, thịnh suy. Dòng dõi, tài sản, thứ quý báu hay giá trị, quý khí, chức tước cũng là do định nghĩa của con người tạo ra, do tham muốn của hệ đồng tư tưởng là xã hội định nghĩa các quy luật và khi gia nhập vào xã hội từ qua giai đoạn tiếp nhận tri kiến thuở nhỏ, thường nhân mệnh sẽ chịu tác động hệ tư tưởng này, và một vài sẽ trở nên đại thành tựu nếu nội tâm tạo nên sự khác biệt so với đa phần. Phàm vật ít thì quý, duy nhất là hiếm, độ số cách cục cũng phân định không sai khác. Nhân mệnh phân định nội ngoại, nội tâm và ngoại thân. Cung an Thân là ngoại thân, cung Mệnh là nội tâm. Nhiều người khi nghiên cứu lâu dài vẫn có khúc mắc trong cách phân định về tính chất của tinh đẩu ở hai vị trí cung Mệnh và cung an Thân. Cung an Thân là cái thấy được, hoặc điều khiến được, thường luận là ý thức và hành động có ý thức. Cung Mệnh là cái tàng ẩn bên trong của nhân mệnh, là bản năng, bản tính, là vô thức và hành động vô thức. Tinh đẩu tại cung an Thân và cung Mệnh tính chất sai biệt nhau rất lớn. Phần luận về biến động của hành vận càng khó khăn khi xác định ý nghĩa của các tổ hợp giao hội. Việc nhớ về tính chất giao hội của các tổ hợp là cách phức tạp nhất trong luận tử vi. Việc căn bản trò phải phân từ xét riêng trong nội cách tức bản mệnh, và xét chung toàn bộ tổ hợp Mệnh Tài Quan cách. Hành vận lưu tới xét từ tương quan ngũ hành Mệnh Cục để biến đổi tính chất của toàn tổ hợp Mệnh Thân Vận giao hội cho phù hợp. Quan trọng là khi xét luận cần nắm vững tính chất của từng bộ sao, hay nhóm chính tinh và bản thân mỗi chính tinh khi giao hội bàng tinh, thứ tới rồi mơi có thể đến hành vận phối hợp. Mệnh Thiên Lương đắc cách, thường xuất thân gia đình phú quý, tuy nhiên lại thường khó có thể hưng vượng hơn và chịu đè nén, áp lực như " Công danh đợi tuổi tác cao, giáp Liêm giáp Sát một hào chẳng sai" là vị trí Thiên Lương cư Sửu Mùi. Hoặc cách "Lương cư Tị Hợi tắc tật du" có thêm Thiên Mã càng ứng hợp. Trong thời kỳ trước, khi thời bình trở lại, những vấn đề quan tâm của người xem tử vi khác với hiện tại, trong xã hội truy cầu chữ phú và thụ hưởng càng lớn này, bề ngoài là thịnh vượng nhưng bên trong nhiều sự bất mãn, bất lực trước số phận, kích phát thêm bởi các xu hướng của thông tin, giải trí. Cũng có một vài dị biệt nghịch xu thế bất lực, nhân mệnh số thượng cách âm thầm vượt lên đứng đầu xã hội về cả phú lẫn quý như câu " Bạch thủ thành gia". Những nhân mệnh đó có một đặc điểm ứng cách cục rất đặc biệt trong tử vi, khi nghiệm lý thành tổ hợp trọng điểm cách. Không phải chỉ là tham vọng, còn có thể là sự mù quáng so với suy nghĩ người thường, cách cục Diêu Kỵ Linh Quyền giao hội Tài cách thành cách cự phú thường ít được chú ý đến vì hội Nhị Ám, dễ thành lập dị, khi nhìn nhận thực tế, nhiều kẻ thành tựu mang tính chất này. 

Sunday, July 14, 2019

Đào hoa cách với vận số xã hội hiện nay


Trong thiên địa vật khởi phát từ Âm Dương Ngũ Hành, cũng do đây biến hóa vạn vật ứng hợp có hình thể lý hóa bên ngoài tương ứng. Trong tử vi khi toán mệnh các giai đoạn lịch sử đều có những lá số về nữ mệnh sắc diện khuynh quốc khuynh thành. Thực tế cổ nhân dụng từ khuynh quốc khuynh thành để ám chỉ một lý tính của Đào Hoa cách, đây là mầm của họa do khởi phát Sát tính. Cũng vì vậy, phú luận " Nhan Hồi yểu tử do hữu Đào Hồng Không Kiếp Đà Linh nhập mệnh". Trong vật hàm chứa sắc ấn thường ẩn chứa họa, thuộc tính chất cơ bản khi phân hóa giao hội quý khí và tú khí của Âm Dương Ngũ Hành. Do vậy có tác động ngay cả vạn vật hữu tình, nhiều loại hoa đẹp có độc tính cao, các loại sinh vật nếu thường biểu hiện bên ngoài màu sắc sặc sỡ thường có tính nguy hiểm lớn. Trong nhân mệnh, thể hiện bên ngoài là ngoại tướng, bên trong là nội tâm. Đào Hoa an theo vòng Tướng Tinh. Vòng tướng tinh là khởi từ tam hợp cung, tức các tinh đẩu chính an theo Địa Chi gồm Đào Hoa, Thiên Mã, có thể xét thêm Hoa Cái, Kiếp Sát. Đào Hoa là vị trí Hàm Trì trong vòng Tướng Tinh. Trong toán mệnh lý bốn vòng sao quan trọng là vòng Trường Sinh, vòng Lộc Tồn, vòng Thái Tuế, vòng Tướng Tinh. Vòng Lộc Tồn chính là vòng an theo Thiên Can. Vòng Thái Tuế và vòng Tướng Tinh là vòng sao an theo Địa Chi. Khi an vòng Thái Tuế thực tế sẽ an được vòng Tướng Tinh nên người viết không bàn luận sâu thêm. Đào Hoa thực tính là vị trí Hàm Trì của vòng Tướng Tinh, Mộc Dục của vòng Trường Sinh. Thực tính cổ nhân luận, vạn vật khi niên khai, sau thai sinh tới dưỡng, tới trường sinh khởi khi vượng, kế Mộc Dục đều tú khí nương tựa, tính chất biểu hiện ra bên ngoài, tượng sắc giới. Mộc dục ý nghĩa chính là tắm, gội, tẩy uế. "Bì phu hữu khổng, sở dĩ bài tiết hãn dịch dã. Nhược vi trần cấu sở trở, tắc hãn tiết bất sướng, cố mộc dục nghi cần. Mộc dục bất đặc trừ cấu, hựu năng trợ huyết dịch chi lưu thông." 




Tính chất của Mộc Dục là khởi của tham muốn về sắc ái, khí đương hỗn độn, uế tạp được trở nên thuần nhất. Tính tiếp xúc của Mộc Dục là nguyên phát của Đào Hoa, là tính chất cơ bản của Đào Hoa cách. Không tiếp xúc thì không phát sinh tình cảm, nhân duyên bất xảo hợp, không thu hút thì không có tiếp xúc. Khởi của Đào Hoa từ thu hút, tiếp xúc, ở nội tính về tính cách, hoặc về ngoại sắc. Hàm tính của Đào Hoa cách là si mê, khi thành cách mang ý nghĩa niềm vui, đoạt được, thành tựu sớm. Một nữ mệnh với mệnh cách Liêm Trinh ngộ Đào Hồng Hình Linh Kiếp trong bố cục Liêm Tướng cư Tí cung sắc diện và khả năng thu hút rất lớn, từng rất nổi tiếng ở tại vận nước, giai đoạn cách đây khoảng 8 năm. Với cách cục Đào Linh tính cách có phần lạnh, cô khắc do bố cục Đào Hình, tuy nhiên tại đây Linh Tinh trong cách cục Liêm Tướng Hồng mang ý nghĩa đứng đầu nổi bật về sắc diện, tuy nhiên về cuộc đời nữ mệnh do chịu tác động mạnh của bố cục Đào Kiếp Hình, Thiên Tướng chế hóa một phần Địa Kiếp tuy nhiên bố cục Liêm Tướng rất kỵ cách cục này, tới hành vận thứ 4, nữ mệnh có bệnh tật nan y cần mổ xẻ may mắn có thể thoát hiểm nguy. Thường khi xét nhân tướng, mệnh cách đắc bố cục Tướng Hồng hoặc Cự Môn hay Thiên Cơ ngộ Đào Hồng đều ứng diện tướng thu hút bên ngoài, đây là mệnh số. Tính chất sắc diện của Đào Hồng sai khác so với Phượng Khốc, không giao hội với nhau. Thể ngoại cách là Đào Hồng. Thể nội  cách là Long Phượng. Do đó phàm là nhân mệnh khó có thể tựu đủ hai tính chất trong một tổ hợp, trừ trường hợp mệnh cách lưu tới hành vận gặp bố cục còn lại. Đào Hoa cách là tổ hợp dẫn hóa có tính chất chủ của Đào Hoa. Tính chất thu hút, phân tán, tiếp xúc, ẩn chứa Sát tính. Đào Hoa cách với mệnh nữ có thể hóa thành tài năng về nghệ thuật, học vấn và sức thu hút bởi ngoại hình khi tốt. Với nam mệnh dương tính, Đào Hoa cách thường hóa thành bố cục mang ý nghĩa tình ái, hưởng thụ, khiến cách cục biến hóa phức tạp, khi tốt dẫn động tham muốn vật dục hoặc tiện nghi thành mục đích để tham cầu Tài cách hoặc Quan cách. 





"Tây nương tử áp đảo Ngô triều do hữu Cự Cơ, Song Hao, Quyền Ấn Đào Hồng phu cung". Đào Hoa cách thường dẫn tới họa nhiều hơn phúc, như việc thường lấy việc "Khuynh quốc khuynh thành",hàm ý nghĩa tạo họa tới sự nghiệp. " Nhất cố khuynh nhân thành. Tái cố khuynh nhân quốc". Đặc tính của Đào Hoa thường khó có thể đắc cách, do đó với nam mệnh dễ mang ý nghĩa phá bại, do đó cổ nhân luận Đào Hồng phân biệt định cách cục rất rõ. Phàm là nhân mệnh đều có khuynh hướng thụ hưởng về nghệ thuật hoặc sắc diện, tuy nhiên cách cục này khi hình thành Đào Hoa cách rất khó chế dụng. Hiện tại khi tính tác động của hưởng thụ về thông tin giải trí hoặc các tác phẩm nghệ thuật trên mạng công nghệ sẽ phân lập nhân mệnh chế dụng có thể định cách mỗi nhân mệnh. Tính bất ổn định của Đào Hoa cách nằm tại tính chất nội tại khi tới cực điểm sẽ suy tàn nhanh chóng. Đào Hồng nhập Mệnh Thân thường công danh tới sớm do tính chất cơ bản của bố cục này. Đào Hoa luận sai khác với Hồng Loan. Khi luận tử vi người nghiên cứu đa phần xét tới tính chất khởi nhân duyên, tình duyên của bố cục các sao chủ tình duyên, ở mặt công danh của cách cục này rất quan trọng, thường là nguyên do phá cục của rất nhiều cách cục tốt đẹp trong tử vi. "Thân hữu Đào Hồng kiêm Thai Tọa nhi công danh khả tất". Bố cục Đào Hồng là cách cục rất khó luận, thường khi luận định nam mệnh nếu Đào Hồng không án ngữ tại Mệnh cách, cách cục luận theo tổ hợp tại Mệnh. Trong trường hợp Đào Hồng thủ Mệnh, luận định cần xét khả năng hóa Đào Hoa cách của tinh đẩu. Tham Hỏa hoặc Liêm Xương đông độ là cách cục tốt nếu ngộ Đào Hoa hoặc Hồng Loan do tính chất ứng hợp của hai Chính Tinh là Tham Lang và Liêm Trinh biến hóa rất mạnh, khiến cách cục trở nên phức tạp, thường hung hơn cát. Nếu trường hợp Tham Hỏa được Đào Hoa hội tam hợp chiếu lại là cách cục mang ý nghĩa tốt. Đào Hồng trong cách cục Âm Dương Lương thành quý, đặc biệt khi hội Đào Hồng Thai Tọa, do tính chất của Âm Dương Lương là mối quan hệ xã hội, cần thiết tiếp xúc và tạo mối quan hệ vui vẻ, gắn bó. 





Trong trường hợp Sát Phá Tham hội Đào Hồng, đặc biệt Sát Phá Tham hội Đào Hoa tăng cường Sát tính của bàng tinh này, chủ trong tư tưởng mang ý nghĩa tham muốn tranh đoạt, khai phá. Mệnh tạo khi hình thành cách cục thành tựu công danh cần lưu ý tới các đại tiểu hạn có tính chất Đào Hoa, phạm mệnh cách nếu dụng được bố cục này, suy hóa vượng, hung hóa thành cát, cách cục bình hòa hóa cường vượng. Do khí hình bất tán nên có thể tích lũy, tham muốn nhất tâm không gặp cản trở nên hoạch phát, trong đa phần các cách cục đều có lợi. Lý xét dụng cơ bản vậy, tuy nhiên khó có mệnh tạo có thể chế ngự được bố cục này, dẫn tới nhiều nhân mệnh cách cục độ số tốt đẹp, tới hậu vận Đào Hoa cách hóa thành tù tinh, gặp hình pháp. Một số thành thị phi, trong Quan cách tối kỵ cách cục thị phi do Đào Hoa cách tác động. Tiền nhân khi định số thường phân định Đào Hoa thành nhiều cách cục. Đào Hoa nhập mệnh tùy trường hợp có thể ứng sắc diện, có thể ứng tài hoa, có thể ứng vào sự vui vẻ của cuộc sống. Mỗi cách đều phân định sai biệt hợp và bất hợp cách. Không có tinh đẩu mang ý nghĩa xấu, do hình thành các tổ hợp phân định tính chất của toàn bộ cách cục. Đào Hoa cư tại cung an Thân tốt hơn tại Mênh, do tại Mệnh cách là bản tính, tại cung an Thân thường ứng hợp với nhân tướng, chiết giảm tính chất loạn động của Đào tới mệnh cách. Trong giai đoạn xã hội hiện tại, các ngành và lĩnh vực giải trí càng trở nên đa dạng khi kinh thương, với mạng xã hội và các trang báo sẽ tác động tới nhiều cách cục trở nên biến động mạnh về tư tưởng, tài danh dễ gặp cản trở. Một bộ phận khác mệnh cách hội quý cách thành tựu bạo phát lớn, do cách cục chuyên nhất với định hướng tham vọng. 

Wednesday, July 10, 2019

mệnh lý toán mệnh và số phận



Trong xã hội từ lịch sử tới nay luôn tồn tại các giai cấp, phân công chức trách, nhiệm vụ để tồn tại một quốc gia, một thể chế hoặc một tổ chức. Người gánh vác, có trách nhiệm to lớn là Tử Vi. Tử Vi là chính tinh đứng đầu vòng sao Tử Vi, được luận là đế tinh, là tên của môn toán mệnh này. Tử Vi cư 12 cung đều mô tả một phần bản thể mệnh cách. Nhân mệnh bình thường luôn hướng tới sự nghiệp, địa vị, tài lộc, tật ách, gia đình. Tuy nhiên thường nhân mệnh hữu khuyết vô thập toàn, lấy khởi phát từ tham vọng, tham muốn phân định ra các định cách cục độ số khác nhau, cũng chính tư tưởng tạo nên thành tựu và thất bại. Cặp đại sát tinh trong tử vi là Không Kiếp để đắc cách là đánh đổi, hoạch phát một mặt ắt mất mát ở mặt khác. Các thành tựu lớn đều được đánh đổi rất lớn bằng nỗ lực, quyết định ở những thời cơ, nhạy bén và táo bạo. Là những bước ngoặt cuộc đời. Các môn huyền học đều lấy dịch lý ứng hợp làm gốc luận, do đó sẽ có sai biệt trong từng trường hợp riêng rẽ đặc biệt khi khí hình biến động lớn. Các môn huyền học đều mang tính dự đoán, tuy nhiên đã được xác thực qua nghìn năm xuyên suốt. Thực tế ngoài cuộc sống, bản thân mỗi nhân mệnh đều thường hay đưa các dự đoán về diễn biến do có quy luật hoặc thông tin ban đầu. Một dự đoán trong quá khứ khiến bản thân lưu nhớ trong quân ngũ. Cách đây khoảng 30 năm. Trong một đơn vị sư đoàn chủ lực thuộc quân đội. Lúc đó nguyên bộ trưởng bộ quốc phòng, đang giữ chức vụ sư đoàn trưởng khi kiểm tra huấn luyện của sư đoàn đi qua một anh trung đội trưởng đang huấn luyện chiến sĩ và nói rằng tướng ở đây, sau này anh ta sẽ là một vị tướng. Thực tế hiện tại đã thành sự thực. Các môn nhân tướng học, lý số, toán mệnh đều dựa vào quy luật của biến động đúc rút từ giai đoạn dài lịch sử chứng nghiệm. Như nhìn khí sắc của một người để xét bệnh tật tai ách, thọ yểu sắp tới. Nhìn vào mệnh lý để xét toàn bộ nhân mệnh cuộc đời theo dự đoán. Nếu anh trung úy kia gặp tai kiếp thương vong trong khi thực hiện nhiệm vụ ắt khó có thể dự đoán thành sự thực, toán mệnh cũng có sai khác, tuy nhiên mệnh lý huyền học là thể bao trùm tổng quan về cuộc đời, tính dự đoán rộng hơn về khuynh hướng sự nghiệp, khi Mệnh Thân Vận tới cửa tuyệt, ắt khó có thể thoát nạn. 





Mệnh cách thành tựu có bố cục đặc biệt, tức cách cục sai khác do tổ hợp phối hợp Chính Tinh và Bàng Tinh thành thế đứng có tính cát hóa rất lớn, phối hợp hành vận phù hợp nếu mệnh quý ắt thành tựu. Cách luận định cách của Tử Vi về nhân mệnh bất sai khác, tuy nhiên trong mỗi thời đại xã hội biến chuyển về tất cả các tầng lớp, khuynh hướng, hành pháp dẫn tới kết quả tính chất của bố cục ứng hợp bên ngoài có sai khác. Giai đoạn hiện nay mạng xã hội kết nối rất phát triển. Có những người có thể đổi đời do nổi tiếng trên cộng đồng mạng, hoặc chữ đổi đời cũng thường hay nhắc đến khi phẫu thuật thẩm mỹ thay đổi diện tướng. Đổi đời là vận hoạch phát. Thực tế trong vạn người có năng lực chỉ một vài người có thể hoạch phát hiển lộ tài năng. Ở kết nối cộng đồng càng nhận ra rõ sự thay đổi này. Sự bứt phá là khác biệt, với còn lại, tính chất của các tổ hợp tác hóa tạo kết quả được nhìn thấy rõ hơn khi mạng xã hội rộng mở. Các ngành nghề được mở rộng rất lớn, tính chất đào thải hoặc hoạch phát trong thời gian ngắn hơn, thay đổi liên tục nếu không ắt sẽ không thể đứng vững. Một vị lãnh đạo của một doanh nghiệp về vận tải lớn trong giai đoạn năm 2011 thường chia sẻ về chuyện kinh thương và được mất, sống còn tới gần như phá sản vì nợ vay trên số vốn đã rất lớn, xuất phát từ người lính, buộc đưa ra quyết định lớn cắt giảm chi tiêu và các chi nhánh, sa thải nhiều bộ phận, xác định kỷ luật, trong giai đoạn hiện nay đã có phần phục hồi và phát triển trở lại. Vạn vật biến dịch dời đổi liên tục, tác động thay đổi của thời vận khiến kẻ có niềm tin và tham vọng luôn chờ thời để thành tựu. Rất nhiều người chủ doanh nghiệp lớn, chỉ một nước sơ suất dẫn tới việc phá tán một cơ đồ gây dựng. Xây rất lâu tuy nhiên phá sẽ nhanh. Do tính chất của phá tán, khai phá của Sát Tinh, xây dựng là Tử Vi. Sát tinh luôn hàm chứa Sát tính đặc biệt Không Kiếp " Hoạch phát hoạch phá tựa thì sấm ran". Thường người khi đầu tư muốn đặt cược tất cả từ số ban đầu rất nhỏ, qua mỗi lần thành công theo lũy tiến tạo được tài sản lớn. Tuy nhiên khi tâm tưởng ở giai đoạn tương ứng tài sản lớn thường đầu tư rất lớn so với ban đầu, ít người trong giai đoạn này chỉ lấy một khoản rất nhỏ bằng số vốn ban đầu để đầu tư sinh lợi. Khi thành tựu kế tiếp là một nấc thang tiếp theo trên đoạn đường rất dài, tuy nhiên khi thất bại tại một giai đoạn là phá tán gần như tất cả công sức. Đó là khởi phát và duy trì tham vọng, tham muốn từ bản tính. Người nhận rõ và có thể chế ngự được tính chất này là kẻ mệnh phú. 






Trong khởi phát tham muốn cũng bất sai khác, vật được chóng nhàm chán, vật chưa sở hữu được ắt sinh vọng tưởng không ngừng. Tham cầu về trường tồn, tham cầu về thụ hưởng. Tham vọng không ngừng là Hỏa Tham, để Hỏa Tham tương ngộ đắc cách là cách luận rất phức tạp, nếu luận sơ lược như phú ắt sẽ sai lầm, có rất nhiều nhân mệnh được cách Hỏa Tham đồng độ, tuy nhiên thành tựu đắc cách là bố cục khác nhau, nếu có Vũ Tham ở thế đồng độ có bất lợi, trường hợp hay nhất là bố cục Tham cư Thìn ngộ Hỏa Tinh đồng độ có Vũ Khúc xung nếu chỉ xét thế đứng Chính Tinh là cách cục đắc cách của Tham Hỏa đồng độ. Vũ Khúc rất cần thiết với Tham Lang, do Sát Phá Tham cách chủ tìm kiếm, khám phá cơ hội và hành động theo mục đích của Tham Lang, tuy nhiên Vũ Khúc là tinh đẩu đứng đầu nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm về giải quyết công việc, tìm phương án, giải pháp thực hiện. Tham Lang có Vũ Khúc bên ngoài tức chủ khi ra ngoài gặp thời cơ và cách giải quyết. Tại giao hội bố cục bàng tinh, các nhóm sao an theo Thiên Can và Địa Chi tạo thành các cách cục mang ý nghĩa riêng biệt. Đây là cách cục phát phú do kinh thương rất hay gặp trong tử vi. Nhân mệnh vô thường, người viết đã luận có lẽ đã hơn ngàn nhân mệnh, phú quý thọ yểu, thiện ác quý tiện đều gặp, từng cuộc đời khởi điểm là một thai khí, thai sinh, trưởng thành, tới bệnh lão và tử không nằm ngoài quy luật của tạo hóa, trong tư tưởng bản tính nguyên phát, hay cát hung toán mệnh đều khởi từ quy luật tuần hoàn của thiên địa. Trong mỗi nhân tâm người đều có tồn tại tâm thiện, bất thiện, không có kẻ thập toàn, tuy nhiên lại có người hạ căn, hạ trí, sai biệt khác nhau. Trong tất cả các bố cục định cách thiên bàn, mỗi lá số gồm bốn tổ hợp tại các tam hợp Tị Dậu Sửu, Thân Tí Thìn, Hợi Mão Mùi, Dần Ngọ Tuất, miễn nhân mệnh không gặp bệnh tật nan y, tai kiếp nặng nề, việc phân định các tổ hợp đều sinh ra thời vận. Tức mỗi nhân mệnh đều có ít nhất một giai đoạn hoạch phát, thời cơ mang lại. Thay đổi hoàn cảnh thực tại rất khó khăn do sự tác động của nhiều mặt dẫn tới tính ưa ổn định của mỗi mệnh tạo, lực kích phát thường tới do đè nén, bế tắc, tham vọng mỗi nguyên nhân mang ý nghĩa về bố cục khác nhau. Nhiều đương số tuổi đời còn trẻ có hỏi người viết về định hướng cuộc đời, mất phương hướng và kế hoạch để thành tựu trong sự nghiệp. Thường cuộc đời nam mệnh khi thai sinh tới trưởng thành lấy công danh làm mục tiêu quan trọng nhất, tuy nhiên hoàn cảnh và vị thế cản trở lớn việc táo bạo, quyết tâm để thành tựu. 






Tùy vào bản tính để định hướng sai biệt khác nhau. Mệnh Thiên Phủ đắc cách tính chất cẩn trọng rất lớn, tuy nhiên thường thiếu khả năng chớp thời cơ. Mệnh Tử Vi đắc cách thường có năng lực, khả năng gánh vác tuy nhiên thường thiếu tính cơ mưu tính toán lợi ích riêng rẽ. Phá Quân đắc cách khả năng nhìn nhận, suy xét vấn đề tốt, khai phá mấu chốt, tuy nhiên thường tư tưởng phù động. Cách đây hơn 7 năm người viết có luận một lá số về mệnh cách Thất Sát ngộ Kỵ Hình Hổ hội Kiếp Tuần là mệnh rất phức tạp. Thường phú luận " Kỵ Hình Thất Sát tương phùng, thiếu niên yểu chiết như dòng Nhan Uyên". Cách cục " Thất Sát lưu niên Bạch Hổ tai ương". Với bố cục Thất Sát hội Kỵ Hình Hổ có Kiếp Tuần là mệnh cách không mấy hay. Đương số từng một lần gặp tai nạn giao thông rất nặng tuy nhiên chưa tới tuyệt mạng, nam mệnh cách đường học bất thuận, tới tuổi nhập ngũ, do bố cục Thất Sát ngộ Kỵ Hình Hổ tính tất cương, ưa bày tỏ, bộc trực ra bên ngoài. Mệnh tạo trong quân ngũ thường vi phạm kỷ luật, ứng số Thất Sát ngộ Kỵ Hình. Sau đó nam mệnh rời xa xứ, buôn bán đồ gỗ, hạn Cự Cơ phát dã như lôi, hoạch phát đại phú, tài sản rất lớn có phần vào thời cơ và táo bạo lách luật. Thực tế Kỵ Hình là cách cục thường vượt quá quy định, kỷ luật, trong nhiều trường hợp là pháp luật. Tuy nhiên tại đây Thiên Hình được hóa thành Quyền, tính kỷ luật, nguyên tắc rõ ràng. Quân đội là một môi trường hoàn cảnh xã hội, do tính chất thay đổi nhân cách, biến hóa khi ứng hợp khí hình rất lớn. Có thể chế hóa được Thiên Hình thành Quyền. Môi trường tốt có thể phần hóa bản tính thành ứng hợp phẩm chất tốt. Nếu nhân mệnh Thất Sát Kỵ Hình Hổ không nhập ngũ ắt giai đoạn thiếu thời ắt gặp tai kiếp lớn. Mệnh cách Thất Sát ngộ Kiếp Kỵ Hình thường gặp tai họa thương tích do tính chất của Sát cục, khi đại tiểu vận trùng phùng Sát Kỵ tượng là tuyệt mệnh, rất nhiều Thất Sát như vậy. Thất Sát khi hóa âm quyền, tính chất tinh anh hiển lộ, nhạy bén chờ thời và kỷ luật là đặc tính quan trọng. 







Với một số sách tử vi thường phân miếu, vượng, bình, hãm địa của chính tinh. Cũng phân các bàng tinh cần gặp, hoặc kỵ gặp chung cho các trường hợp thường gây nhầm lẫn tới người nghiên cứu. Cũng Thất Sát hội Kỵ Hình Tuần Kiếp Hổ ắt người mới luận thường đánh giá cách cục tối hung, tuy nhiên các trường hợp mệnh cách thành tựu lại đạt thành tựu rất lớn thường không thể tự nghiệm lý nguyên cớ. Do khi định cách phối hợp không rõ tính chất giao hội của toàn cục dẫn tới sai lầm, cũng chưa rõ việc xét khí hóa của Sát Kỵ tức khả năng chế hóa bố cục Sát của mệnh cách. Chỉ Thiên Hình hoặc cách Kỵ Hình luận đã rất sai khác. Thực tế trong giai đoạn phong kiến, có kẻ lách luật, quan thương cấu kết là quý khí, chế hóa Sát cách thành tựu. Kẻ chịu tù tội do phạm pháp, hoặc kẻ bị giết nhầm, oan sai, bị trừ bỏ do thù oán cũng là Kỵ Hình. Kẻ đắc cách bất phân thiện lương, bất nghĩa đều thành tựu lớn, phá cách ắt chịu họa tai kiếp. Sở vốn mệnh số vậy, khi về sau tử vi lưu truyền bên ngoài, chịu ảnh hưởng của xã hội rộng rãi mới định ra quân tử, tiểu nhân, thiện ác để xét bố cục cát hung thành bại theo khuynh hướng này thực tuy mang ý nghĩa tốt nhưng khiếm khuyết sai lầm tới người nghiên cứu. Đồng Lương cách, phú luận " Thiên Đồng ngộ Không Kiếp bất cát, Cự Môn phùng Đà Kỵ tối hung". Lưu ý đây là câu phú xét tùy trường hợp. Thiên Đồng trong cách cục Đồng Lương cư Dần Thân ngộ Không Kiếp đồng độ thường luận thăng trầm, Đồng ngộ Không thành phá cách. Tuy nhiên bố cục Đồng Lương ngộ Không Kiếp tại đây là quý cách trong tử vi. Với cách Đồng Kiếp chủ đan tâm tất ám, mưu tính sâu sắc. Thiên Lương giỏi việc thông tin bên ngoài để che giấu việc bên trong, cách Đồng Lương ngộ Không Kiếp tại đây có một phần tính chất giống Thiên Phủ, tuy nhiên Đồng Lương tại đây hàm ý khó có thể mang tính lương thiện, đặc biệt nếu giao hội thêm Mã Khốc Khách hoặc Tang Hư Mã. Xét về thành tựu chế hóa Sát, đây là cách cục chế ngự Không Kiếp rất mạnh.