Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Sunday, October 27, 2019

Tứ hóa phi tinh luận

Phàm luận vận hành lấy tứ hóa do chính tinh hóa khí kết hợp hai vòng Lộc Tồn và Thái Tuế làm trọng. Chính tinh biến dịch qua mỗi thời điểm lưu niên tác động bởi hành khí của ngũ hành thay đổi về điều dụng. Trong đó Hóa Kỵ có tác động lớn nhất. Cơ Nguyệt Đồng Lương có ba tinh đẩu hóa thành Kỵ. Cự Nhật gồm hai, nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm chỉ gặp Liêm Trinh và Sát Phá Tham là Tham Lang. Phụ tinh gồm Xương Khúc. Hóa Kỵ là hóa khí mang ý nghĩa cản trở, hội hung sát là họa tới. Các cách cục như Kỵ Hình, Kỵ Kiếp, Kỵ Hỏa, Kỵ Đà hay Kỵ Kình đều tăng tính hung họa cho Sát tinh. Hóa Kỵ trong cách Cự Kỵ, Lộc Kỵ, Kỵ Triệt, thường mang ý nghĩa hung. Chỉ gặp một số trường hợp thành cách hoạch phát do phá thế bế tắc. Trong tứ hóa, Hóa Kỵ khi lưu vận theo Thiên Can rất cần chú trọng, đặc biệt khi Mệnh Thân Hạn đều gặp Kỵ hoặc thành cách Lưỡng Kỵ là hạn có xung đột, phá tán, bế tắc, nếu hội Không Kiếp, Lộc Mã đảo, Diêu Đà Kỵ là hạn liên quan tới tang tóc, họa tới. Thực tế thông thường khi gốc đại vận tốt đẹp, gặp tiểu vận trùng phùng Nguyệt Vận lưu Kỵ xâm phá hội hung sát cần lưu ý tới nhóm sao mang tính bất ngờ, phát sinh, tính động như Phi Liêm, Thiên Mã, Thiên Việt hội trùng phùng lưu phi tinh có họa tới, nếu có Không Kiếp hội họp là tai họa lớn, có thể là kiếp nạn lớn của nhân mệnh. Nguyên cục luận với hóa khí, tính chất khi lưu hóa của Hóa Lộc và Hóa Kỵ lớn hơn Khoa Quyền. Lưu Hóa Khoa có tính giải trừ lớn, tuy nhiên trong vận Sát Kỵ trùng phùng bất khả cứu, thường luận tòng Sát, tăng họa nạn. Khi luận Hóa Khoa rất chú trọng điều hậu cách cục, với bố cục Hình Kỵ, hóa Khoa khả giải, nhược bằng hội Kiếp Không Kỵ Hình tăng cường khuyết điểm, hung tai. Lưu Hóa Khoa tính chất khác Hóa Khoa, khi chỗ khuyết thiếu điều hậu, tương đồng Khôi Việt, là cách Sát trọng, thành cách thanh thế gia tăng, phá cách đa tai, nhập nơi hiểm tử. Khôi Việt bất thành cách, hội Linh Hình hoặc Hỏa Kình đều phá cách nặng, trùng phùng Kiếp Không ắt là hạn kiếp số. 





Hóa Khoa khi luận cần cẩn trọng do thường xét luận " Đệ nhất giải thần", chế hóa được Hóa Kỵ và Thiên Hình thành cách cục mang ý nghĩa cẩn trọng, tránh tai họa và cản trở của Hóa Kỵ, tuy nhiên khi Không Kiếp hội họp cách cục biến hóa phản vi hung. Khi luận lưu vận, Chính Tinh và tứ trợ tinh biến hóa phức tạp, Can Chi của hành vận khiến cách cục trở nên chuyển động rõ nét của toàn bộ lá số. Lấy Chính Tinh và cách cục thủ mệnh làm gốc để luận định. Thí như đương số mệnh tạo Cự Môn độc tọa hay cách Cự Nhật, Cự Cơ, Cự Đồng đồng độ hội Kình Hao, Đà Hao là tốt. Trong trường hợp hội Kình Đà, bố cục Sát Phá Tham hoàn chỉnh hội Lộc Tồn hình thành cách cục bất mãn, khó có thể thay đổi thành tựu trong hành vận này. Trường hợp đại vận tại cách Sát Phá Tham hội Lộc Tướng Ấn tại Dần Ngọ Tuất. Tiểu vận năm Kỷ Hợi tức Lộc Tướng Ấn bản cách hội Lộc Tướng Ấn do can Kỷ hóa với Lộc Tồn tại Ngọ cung là cách cục bất mãn trong nội tâm do khó có thể phá bỏ, thay đổi hoàn cảnh khó khăn thực tại. Lại nguyệt hạn Giáp Tuất tức tháng 8 hiện tại ắt sẽ phá sinh bất mãn, cách Cự Kình thuộc Mệnh ưa thay đổi, ngay cả cách Cự Cơ hội Song Hao tới giai đoạn này cũng sẽ rất khó khăn, bế tắc trong tư tưởng. Lại hội Không Kiếp hoặc Tham Hỏa ắt mang họa phá sản, tiêu tán, do Cự Môn kỵ tới vận Lộc Tồn lại niên nguyệt hạn có Lưu Lộc Tồn tại can Kỷ cư Ngọ và can Giáp cư Dần là cách cục bại cách. Lộc Tồn gặp Lưu Lộc Tồn tính chất hiển hiện, khi cường vượng đắc cách ắt đại phúc, cách cục phá cách chủ bại. Trong tháng này đương số tạo tác, tham vọng giàu có do đại vận Tham Hỏa Triệt Đào, tiểu vận bất luận ở các cung độ, khi lưu Lộc Tồn tại niên nguyệt hạn về Dần Ngọ Tuất gặp Sát Phá Tham là thế bế tắc, ứng hợp câu phú " Lộc phùng xung Phá, cát dã tàng hung" cách. Trường hợp lưu Kỵ hoặc Hóa Kỵ nguyên cục tại đây ắt sẽ phá sản. Mệnh Thân Hạn là thể thống nhất, dịch chuyển theo Lục Thập Hoa Giáp với các Can Chi dẫn tới hóa khí sai biệt, tác động tới từng giai đoạn cuộc đời của đương số. Do vậy tiền nhân thường luận " Mệnh hảo bất như Thân hảo, Thân hảo bất như Vận hảo". 





Hành vận hợp hóa của cả đại vận, tiểu vận và nguyệt vận. Lưu Hóa Kỵ trùng phùng tại đại tiểu vận, hội Sát Kỵ trùng phùng của nguyên cục là vận khó có thể thành tựu. Cách cục Lưỡng Lộc dụng để luận Tài cách cục nhân mệnh. Cách cục Vũ Phủ đồng độ nhập vận là Tài vận, hội Song Lộc. Mệnh tạo sinh năm Giáp với Lộc Tồn cư Dần, bất luận mệnh cách tọa vị trí, hành vận tới Vũ Phủ cư Ngọ nhập vận ắt hội Song Lộc. Tiểu vận năm Giáp, Kỷ, nguyệt vận tháng Giáp Kỷ lộc trùng điệp, Tài cách cực vượng ắt phát tài, hanh thông, lại như năm Giáp Thìn hoặc Giáp Thân, Giáp Tí thành cách Lộc Mã giao trì, Tài càng thêm vượng. Hoặc nhân mệnh sinh năm Kỷ, gặp tinh hệ Vũ Phủ cư Tí. Can Kỷ với Vũ Khúc hóa Lộc, có Lộc Tồn xung chiếu. Tại nội cách hội Khôi Việt tại Thân Tí, đại tiểu vận trùng phùng tại đây, tiểu vận năm Canh, Kỷ phát tài, lại năm Canh Tuất hội Lộc Mã bội Ấn cách cục càng vượng, Tài phát rất mạnh. Tiền nhân luận tinh hệ Tử Tướng thường định bố cục Tài cách khi thành cách nguyên do hình thành hai cách cục Cự Cơ Mão Dậu và Vũ Phủ Tí Ngọ là hai cách cục chủ ý nghĩa tài sản lớn. Lưu Hóa Quyền khi hóa khí có tác động giải Kỵ Hình, có thể dụng Không Kiếp hoạch phát. Tuy nhiên tác động không mạnh tới nguyên cục, trừ trường hợp tại bản cung hành vận. Hóa Quyền lưu cần gặp thêm các tinh đẩu phát sinh hoặc tăng thêm giá trị cho cách cục. Có thuyết luận tứ hóa khí là cực hóa tượng của ngũ hành qua bốn giai đoạn gồm Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đây là quan điểm khá hay khi luận Hóa Lộc ứng Xuân, Hóa Quyền ứng Hạ, Hóa Khoa ứng Thu và Hóa Kỵ ứng Đông. Việc luận ngũ hành ứng hợp là bản nguyên khí hóa của các tinh đẩu hay hóa khí, tuy nhiên cần cẩn trọng tránh việc định cách khuyết thiếu với tinh đẩu. Với Lộc Tồn là vị trí Lâm Quan của vòng Trường Sinh theo Thiên Can, luận ngũ hành Thổ có phần khiên cưỡng, tính chất chủ tích lũy, tồn tại do giai đoạn Lâm Quan tiến khí của ngũ hành, tính tích lũy này không chỉ chứa tính ổn trọng tích lũy của ngũ hành Thổ, còn chứa tính đa năng, cường vượng, chủ động của vị trí Lâm Quan khi định cách. 




Khi luận cách cục đắc vòng Lộc Tồn sẽ tiến khí cho các hóa khí, lưu Hóa Khí tới cung độ Lộc Tồn tăng mạnh tính chất. Trong nhiều giai đoạn, nhiều nhân mệnh người viết về vận phát tài. Nhìn vào Lộc Tồn và Hóa Lộc trong cách cục Lộc trùng điệp lưu tới là tiền tài thuộc thiên lộc hay dịch lộc. Tài sản do bạo phát cách khởi từ nhân mệnh dụng Tài hình thành khi bản cách cục cần gặp cách cục Tài vượng cố định, hoặc quan sinh lộc hậu. Kế tới hành vận lưu tới Tài cách là bố cục phát lâu dài. Tiền tài có thể nhìn từ điền sản, tài sản lưu động, hoặc ám tài. Trong đó cách cục quan sinh tài là cách cục Tài Quan lưỡng vượng đứng đầu. Ám tài là thứ cách. Ám tài cách do Sát cách thành lập khả năng hoạch phát lớn, nhanh chóng do ứng hợp. Đặc biệt cách cục Đồng Lương hội Không Kiếp Song Lộc là bố cục thường thấy đắc trưng cho cách cục này do tính nhanh nhạy của Không Kiếp, cường vượng của Lộc Tồn. Tính chất của Lộc Tồn khác biệt với Hóa Lộc. Lộc Tồn là tích tụ, cường vượng, bản chất của Thiên Can tới địa bàn của lá số. Hóa Lộc là khởi lộc, phát triển khởi từ nguyên căn của Chính Tinh, mang tính chất của Chính Tinh. Tính chất của Lộc Tồn khởi từ Thiên Can bao gồm cả cách cục Lộc Tướng Ấn Bệnh, có tính chất tác động hiển lộ mạnh hơn Hóa Lộc. Khi Song Lộc hình thành không gặp phá cách tượng bố cục sinh khí cực vượng. Hội Thiên Mã tài động, là cách cục đứng đầu về Tài cách do tính chất luân chuyển thu được lợi lộc. Lộc là thăng tiến, phát triển, nghịch với suy bại. Trái với bố cục tài động của Cự Cơ ngộ Song Hao hoạch phát do thời vận, là thời cơ lớn đắc tài do khai thông thế bế tắc của Cự Cơ Đồng, Vũ Phủ hội Lộc Tồn hình thành tại ba can Đinh Kỷ Quý, Song Hao cư Mão Dậu ắt Lộc Tồn cư Tí Ngọ. Trong các cách cục Tam Kỳ gia hội, bố cục tại can Giáp kém hay hơn cả. "Thiên Đồng cư Tuất địa, Đinh nhân phản vi kỳ cách". 





Cách cục Thiên Đồng cư Tuất, đối cung có Cự Môn hóa thành Kỵ, nội cách hội Tam Hóa với Âm Đồng Cơ. Kích phát từ bất mãn bên ngoài, Sát cục hình thành, Cơ Nguyệt Đồng Lương hóa thành quyết chí vượt hơn người. Giáp Khôi Việt tại Dậu Hợi. Tại đây hay do gặp Lộc Tồn cư Ngọ hội tăng cường bố cục Tam Hóa, do vậy luận phản vi kỳ cách. Nếu Thiên Đồng cư Thìn không luận vậy. Cách cục Đồng Âm cư Ngọ gặp Âm Dương ở vị trí không mấy hay, cũng hội Tam Hóa Lộc Tồn tuy nhiên không bằng. Trường hợp cư Tí tuy ngộ Phi Liêm, có Lộc Tồn chiếu khá tốt. " Đồng Âm đồng cư Tí, tuổi Bính Đinh phú quý trung lương". Can Giáp chỉ gặp Tam Kỳ gia hội khi Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham thành cách cục xung đột, mâu thuẫn trong nội cách. Thực tế tại đây Khoa Quyền Lộc do Liêm Phá Vũ hóa thêm Khôi Việt cư Sửu Mùi tuy nhiên khó có thể thành tựu lớn như cách cục trên. Khi nghiệm lý, mệnh tạo cách cục này nếu xuất ngoại có thể hanh thông. Khi luận tứ hóa hay bố cục Sát cách, nếu lưu trùng Tứ Hóa tại niên và nguyệt vận tới cách cục sẽ tạo tác động rất lớn, cần chú ý tới Lưu Kỵ. Cách cục Kiếp Hỏa Việt tại bản cung đại vận hoặc tiểu vận khi lưu Hóa Kỵ nhập cung trùng phùng thiên can của tiểu vận và nguyệt vận ắt kích phát Việt Hỏa dẫn tới tai họa sẽ đến nhanh chóng, có Thiên Mã là tai nạn xe cộ, có Cơ Kiếp Hỏa là hỏa tai, có thêm Phi Linh Hình là vật kim khí hoặc điện sét tới người, trong đó cách Khôi Việt Linh Hình Kiếp Không nhập vận, có Lưu Kỵ và Phục Binh nhập cung, nguyệt hạn lưu tới bố cục này chắc chắn sẽ trúng họa tới thân thể. 

Tuesday, October 22, 2019

Một lá số Khoa Quyền Song Lộc hội



Nam mệnh khởi hành vận từ đại vận thứ nhất thuộc cung mệnh. Đại vận hành tức sự chuyển dịch theo từng giai đoạn qua các cung độ hình thành sự biến động và tư tưởng, tính chất bố cục của nhân mệnh. Thái Âm độc tọa cư Tuất ngộ Hỏa Hình Lộc Quả là cách chủ Tài vượng, do Thái Âm chủ âm tính, Tài tàng ẩn tính chất rất vượng, luận là ám lộc. Trong Chính Tinh hóa Lộc, Vũ Khúc đứng đầu thuộc tài tinh, thứ tới là Thái Âm và Cự Môn. Đại vận thứ nhất nhập mệnh cách, bản cung nhân mệnh có Hỏa Hình chủ tính nguyên tắc và dễ bộc trực trong tính cách. Đại vận này hình thành phương pháp, năng lực của bản thân, Thái Âm tác động hình thành tính cách. Trong tính chất của cách Âm Hỏa Hình, nội cách mang tính âm nhu, hòa hợp, tuy nhiên có tính phản kháng mạnh từ Hỏa Tinh, tức tính bộc phát. Thái Âm hội Khoa Quyền Lưỡng Lộc Đào Không, cách Binh Hình Tướng Ấn, giáp Khôi Việt chủ cơ trí hơn người, cách cục tuu gặp Thiên Không Không Vong phá Lộc Tồn vẫn là cách rất hay. Cơ Nguyệt Đồng Lương với Thái Âm đắc địa có Đào Hồng Cô Quả là điểm tốt, lại hội Khoa Quyền Lộc và Hình Ấn báo hiệu sự thành công lớn trong cuộc đời do chính tư chất của mệnh tạo tạo nên. Vận Thái Âm tại Mệnh cách, cuộc sống ôn hòa, phát triển bình ổn do Cơ Nguyệt Đồng Lương thành cách, tuy có những bất ngờ do cách Tồn Không tạo ra mang ý nghĩa kết quả không như ý định của mệnh cách, tuy nhiên đây là cách cục rất tốt đẹp với mệnh Thái Âm khi gặp Hỏa Hình Quyền Ấn cát hóa, chủ phát khởi khả năng tính toán, cơ mưu do cách cục tạo ra. Đại vận thứ hai từ 14 tới 23 nhập cung độ Thiên Phủ độc tọa cư Thân trong cách cục Phủ Tướng đơn thủ. Thiên Phủ có khả năng phán đoán, xét đoán các sự việc xảy ra và nhận định, suy xét không vội vàng, thường được luận "Giao long vãn uyên" cách. Thiên Phủ ngộ Tuần Khôi Bật Khúc Hổ Đại Phượng tại bản cung, hội Đà Khốc Phụ Xương đắc vòng Trường Sinh, cách cục thành cách Phủ Tướng hội Tả Hữu Xương Khúc Đà Khốc Hổ Phượng Sinh Vượng là cách cục rất tốt đẹp, Phủ Tướng thành cách, chủ phát triển tài năng, được ngưỡng mộ, đánh giá cao về năng lực của bản thân và giúp đỡ, tương trợ của kẻ khác tới nhân mệnh. 





Thiên Phủ tuy ngộ Tuần dễ do bao bọc thái quá dẫn tới mệnh cách Hỏa Hình Âm khó có thể phát huy năng lực của bản thân. Bố cục Âm Hình Quyền Ấn trong thế Lưỡng Lộc có tính tự lực lớn, do đó trong hành vận Phủ Tướng Tả Hữu được trợ giúp đắc lực của bên ngoài. Trong đại vận này nam mệnh đang gặp cách cục phát triển tốt do được sự tương trợ, giúp đỡ để năng lực, kiến thức phát triển mạnh. Đại vận Thiên Phủ tăng cường tính cẩn trọng khi suy tính của nhân mệnh Thái Âm, cách cục khá tốt đẹp, do đó phương hướng trong đại vận này sẽ có tác động tốt tới các hành vận sau. Thiên Phủ trong nhóm Phủ Tướng đơn thủ là cách cục bình hòa, được trợ lực bởi Tả Hữu Xương Khúc Tuế Phượng là cách cục Văn cách cường vượng, có tính chất ổn định tránh tai họa tới trong hành vận này. Đại vận thứ hai bổ trợ mạnh chế hóa Hỏa Hình Ấn hóa Văn cách, tăng tính chất mưu tính, kiên nhẫn của nam mệnh, cũng hình thành lập trường quan điểm của bản thân do Tuế Phượng hình thành. Đây là lập trường đúng hướng, do " Tuế Hổ Phù hội Khúc Xương, có tài hùng biện văn chương hơn người". Tại đây có Hổ Khốc mang tính bày tỏ ra bên ngoài, đại vận thứ hai là vận tốt đối với nam mệnh, gặp đủ trợ tinh cát hóa mệnh Thái Âm, cách cục khí hình cường vượng. Lá số Thái Âm khi tốt đẹp chủ mệnh tạo có khả năng suy tính sâu xa, âm trầm, tại cách cục rất tốt mang ý nghĩa môi trường gia đình và hoàn cảnh sống tốt. Tuy nhiên tại đại vận thứ hai tốt đẹp sẽ kết thúc cuối năm Kỷ Hợi, nam mệnh nhập đại vận mới tại Thân cung, cách cục VCD nội Cự Nhật, ngoại Đồng Lương từ 24 tới 33. Đại vận tại Phối cung là vận rất phức tạp, khi nội cách là bố cục Cự Nhật Kỵ Kiếp Tuần Tuyệt, ngoại cách Đồng Lương Quyền Hồng Triệt xung có phần tốt hơn. Đại vận tới Phối cung, đồng cư cung an Thân là vận then chốt có tính chất khó khăn, xung đột trong chính nội cách. Bố cục Cơ Nguyệt Đồng Lương đắc cách, khi hành vận lưu tới cách cục Cự Nhật Kỵ Kiếp tính chất hung họa lớn, chủ xung đột, cự cãi và phản đối trong nội bộ. 



Trong đại vận thứ ba, bản cung vận VCD, chịu tác động của tổ hợp chính tinh bên trong tam hợp, bên ngoài xung chiếu. Tại vị trí Thái Dương cư Thìn là vị trí sáng của sao này, ngộ Kiếp Thanh Mộc, thực tế cách cục Thanh Long ngộ Mộc Dục tại can Đinh được đánh giá tốt chủ nổi danh. Tại can Đinh, Cự Môn hóa thành Kỵ, lại hội Địa Kiếp thành cách Kỵ Kiếp. Cách cục này mang ý nghĩa không mấy tốt, kỵ gặp Cự Nhật thành cách cục Cự Kỵ có tính cản trở lớn, bất lợi cho cách cục Cơ Nguyệt Đồng Lương. Mệnh cách Hỏa Hình tới vận này ắt phát sinh cự cãi, phát sinh xung đột trong nội bộ, Kỵ Thanh hình thành, càng về sau của đại vận, tính chất xung đột, thị phi của Cự Kỵ cát hóa theo khuynh hướng tốt do Văn cách hình thành tại hành vận thứ hai, phối hợp cách Kỵ Thanh. Cách cục Tài cách cực vượng, đây là mệnh chủ phú, tuy nhiên gặp họa về Tài. Thái Âm kỵ gặp Hỏa Hình Không mang tới số không với Lộc Tồn, tức nhân mệnh ít nhất gặp một lần phá tán, phá sản. Đây là điểm quan trọng cần lưu ý khi Hỏa Tồn mang tính chất quyết tâm thực hiện những dự tính, tính toán từ trước. Mệnh cách hữu Sát hội tổ hợp này ắt hành vận Sát cách gặp thăng trầm lớn. Nhân mệnh cách có tư chất tốt, hữu Tam Kỳ tuy nhiên khó tránh khỏi bất trắc do Đào Tồn Không Hỏa tức bản thân tạo ra khi bên ngoài hiển lộ Thái Dương ngộ Kiếp tượng là người đàn ông mang họa, Kiếp xung gây bất lợi hơn so với việc nằm trong tổ hợp Mệnh. Cách cục tiền vận rất khó khăn, vào trung vận hợp hóa từ Tử Phá khai thông, ẩn chứa Sát cục nặng tuy nhiên là giai đoạn Tam Hóa khai phá Tài cách, cầu được tài hơn quan, trong hành vận Tử Phá là vận then chốt dẫn vận Thiên Cơ thành hoặc bại. Nếu dẫn hóa từ đại vận hiện tại theo khuynh hướng ổn trọng tức lấy cách cục cẩn trọng hướng tới tư tưởng, cách cục về sau có thể tránh được một lần bại, tuy nhiên hoạch phát sẽ không lớn. 





Đây là cách cục hay trong tử vi, phân định hai khuynh hướng rất rõ ràng, về sau sẽ có tài sản lớn, đại phú cách do tư tưởng táo bạo, tham vọng lớn, mạo hiểm thành tựu, cũng phá tán bởi lý do này khi lưu vận tới Quan Lộc. Nhân mệnh có tài năng, tinh đẩu hợp hóa hữu tình, Lộc có khố, lại hình thành cách Lưỡng Lộc có Đồng Lương Triệt Không là bạo phát cách khi nhập Sát vận. Trong tử vi phân định rõ về Sát cách có các khuynh hướng khác nhau, cũng như ngũ hành tương sinh, tương khắc, khi khuyết thiếu hoặc thừa vượng quá độ tượng Sát cục, cũng khi hình thành Sát cục được bổ cứu thì phát phúc phi thường. Trong bố cục này ẩn chứa tai họa do Kiếp Không Tồn Đào, nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương khó có thể dụng bố cục này trừ trường hợp Đồng Lương cư Dần Thân nhập Mệnh hội Không Kiếp tại bản cung. Thái Âm có Hỏa Hình có khuyết điểm khi nhân mệnh gặp thất bại, bế tắc lớn sẽ khó có thể xây dựng lại, điểm khuyết thiếu này do thế đứng của Cơ Nguyệt Đồng Lương tạo. Bản cục ban đầu đã hình thành thế Lưỡng Vượng, cát hung tương bán, không thể mong cầu việc nhân mệnh cuộc đời bình ổn, Không Kiếp Hỏa Hình sẽ tác hóa ngay khi tư tưởng không thể chế dụng. Cách cục này buộc nhân mệnh tự nỗ lực để thành hoặc bại, còn ứng hiềm với chữ Vong. Điểm tốt là Tam Kỳ có Hình Ấn, cái họa mang lại do Đào Hồng Không Kiếp Tồn Hình Diêu tạo ra, Khoa Hồng tăng cường độ của cát hung, nếu phản cục ắt họa không nhỏ, có thể dẫn tới sát thân. Khi luận tử vi, định khả năng chế hóa Sát cũng tương tự như việc đảm nhận Tài Quan của tứ trụ, khi nhân mệnh ở thế cường vượng, có thể gánh được Tài Quan, khi ở thế suy nhược gặp Tài Quan mạnh ắt đổ vỡ. Tại đây điểm tốt là cả hai lưỡng vượng, tức hành vận sẽ quyết định rất lớn tới kết quả. Lá số ắt phát đại phú, tức giai đoạn thịnh vượng sẽ có tài sản rất lớn, tuy nhiên có thể giữ vững, tăng cường hay suy bại với Sát vận phải xét qua từng đại vận. Thái Âm khi cường vượng, trong đa phần các trường hợp có thể lấy Không Kiếp chế dụng, kể cả Không Kiếp Tồn Đào, tuy nhiên lại tối kỵ Hỏa Linh hội do Hỏa Tinh phá tính âm ám, thâm trầm, suy xét của Thái Âm gây nên rối loạn trong nội cách. Trong trường hợp nhập Mệnh cung mang ý nghĩa càng. 





Hình Hỏa Lưỡng Lộc là cách tranh đoạt Tài, cũng do tiền tài sẽ khiến nhân mệnh khổ cực theo đuổi, Quan cách hình thành không mấy hay, khi Quan tàng họa, dụng Quan Cách thăng tiến nhanh cũng hóa thành không, đường quan lợi nếu theo càng khiến nhân mệnh do tham vọng lớn dẫn tới các quyết định sai lầm, đặc biệt khi theo quan lộ, chính trị làm việc trong cơ quan, tổ chức nhà nước. Nhân mệnh thường có những tư tưởng, khuynh hướng khác biệt, trong nội tâm cũng rất nhanh nhạy trước các biến động của xã hội, biến động của thời vận. Thiên Cơ trong cách Cự Cơ Tí Ngọ nếu không gặp Đào Không sẽ mang ý nghĩa hay, tuy nhiên khi nhìn từ mệnh, cách Cơ Không Kiếp mang ý nghĩa chủ không lường trước được các biến động, do tính chủ quan của bản thân dẫn tới tai họa, lưu ý trong hai đại vận Tử Phá và Thiên Cơ. Trong hành vận then chốt, nên hóa khí khai tạo, khai phá của Phá Quân thành tính chất nghiên cứu học thuật, có thể bảo hộ Tài cách, tức khai phá tri kiến ứng hợp tránh một phần phá tán về tài sản. Phàm là nhân mệnh, đều có thể lấy tu tâm để tránh họa kiếp. Tuy nhiên tiền nhân cũng luận bản tính khó dời, tức về nhân tính chịu tác động của Âm Dương Ngũ Hành từ khi thai sinh, dẫn tới luận định về độ số, vận mệnh, tư tưởng là nhân chiêu cảm ứng bên ngoài hợp thành quả. Cách cục Âm Hỏa Hình Không Kiếp Tồn Lộc tạo bởi Hình Hỏa Kiếp trong cách Cơ Lương tượng là hỏa tai, ứng hợp bên ngoài là lửa lớn, bên trong nội tư tưởng là bộc trực, khó kiềm chế dẫn tới tai họa. Cũng như ngũ quan, khi khuyết thiếu nhãn quan tức mắt nhìn thì khó có thể xác định vạn vật chính xác, trong nội tướng là tầm nhìn, tư tưởng khi thiếu tầm nhìn sẽ dẫn tới những hành động chiêu cảm họa nạn. Do vậy Âm Dương tượng là nghe nhìn, hay Cơ Nguyệt Đồng Lương tức nhóm sao cơ hội, thời cơ rất kỵ gặp Hỏa Linh, khó có thể nhận định khách quan vấn đề dẫn tới sai lầm. Hỏa Tinh nhập Mệnh có Hình Ấn cũng mang phần ý nghĩa tốt, do Hình ngộ Khoa chung thân vô tai, tức Hóa Khoa là hóa khí mang ý nghĩa điều hậu, cũng như việc nghiên cứu tri kiến, tri thức, học vấn khiến nhân mệnh tránh được nhiều tai họa. Nếu mệnh cách có Xương Khúc hay Khoa thủ mệnh đã là một điểm hơn người, hoặc Khôi Việt không gặp phá cách mang ý nghĩa hiểu thấu sự việc từ nhỏ tới lớn, Tả Hữu là được lời khuyên, trợ giúp của kẻ khác tới bản thân. 





Tại đây không có Xương Khúc, Tả Hữu, được Khôi Việt giáp và Hóa Khoa cũng là một điểm may mắn. Một số người nghiên cứu tử vi luận Hóa Khoa mang ý nghĩa tăng thêm họa nạn khi cách cục phá cách, hội Sát Kỵ nặng nề là đúng, khi Hóa Khoa chủ điều hậu cách cục, thường được luận đệ nhất giải thần, tượng ngũ hành khuyết thiếu được bổ cứu, phá cách sẽ tạo tai họa lớn. Cũng như Âm, Dương quý nhân tức Khôi Việt phá cách tăng thêm họa như Việt Linh Hình, Khôi Hình. Với Hóa Khoa là hóa khí của Chính Tinh và bốn phụ tinh chịu tác động của Không Kiếp biến đổi bản chất của Chính Tinh hay các phụ tinh khiến nguyên cục phá vỡ. Chữ Khoa tại đây được Đồng Lương có Triệt Hồng tại Dần cung hội là điểm tốt, do Đồng Lương, Triệt và Khoa tăng cường tính chất ổn định bố cục. Trong bản thân đương số đã có tư tưởng đề phòng trước những nguy cơ do Cơ Không Kiếp tạo ra, tránh được phần rất lớn các tai họa. Thái Âm cư Tuất, đối cung là Thái Dương cư Thìn nhập La Võng, đây là cách Nhật Nguyệt xung chiếu, nội cách hình thành cách cục phức tạp, cứu giải bởi Đồng Lương Triệt hội Hình Ấn. Cách cục Cơ Nguyệt Đồng Lương phá cách, không mang ý nghĩa bản nguyên của tổ hợp, biến hóa mang tính chất động lớn, tàng ẩn cách cục có tính biến hóa theo vận mạnh. Nhìn chung nhân mệnh không phải mệnh thường, khi hoạch phát như lôi, khi suy bại ắt gặp một số không lớn. May mắn là Thái Âm thủ mệnh, nếu tại đây là vị trí của Thiên Lương hoặc Thiên Cơ khó có thể tránh được tai kiếp do cách cục tạo ra. Âm Hình Kiếp bản thân tự hình, tức có nguyên tắc, tự tạo áp lực tới chính tự thân, có Hỏa Tinh tại đây là điểm xấu, cần lưu ý. Nhân mệnh dụng Tài cách, bố cục cực vượng, Quan cách suy yếu khó có thể dụng. Cách cục về tiền vận phát triển khá tốt.

Saturday, October 12, 2019

Tử vi với hai mặt sáng tối ( Phần 2 )





Trong một xã hội luôn có sự phân công vị trí của mỗi thành phần theo trách nhiệm gánh vác. Các tổ chức trong xã hội về chính trị hoặc kinh tế,... Trong một tổ chức, hoặc cá nhân có người làm bác sĩ, kỹ sư, giáo viên, bộ đội, công an, chính trị, kinh doanh,... lại có người làm việc lách luật, phạm pháp, xã hội đen,... Tử vi cũng phân định các cách cục như trên không sai khác. Định hướng của một xã hội tùy vào xu thế phát triển được số đông hướng tới, hoặc do sự tác động của thời thế tại quốc gia. Trong giai đoạn chiến tranh, lực lượng quân đội bảo vệ chủ quyền nắm lệnh, được hưởng chính danh trong xã hội. Nhân mệnh trong giai đoạn xã hội thời kỳ này chứa Sát tính phát khởi sẽ giảm nghề nghiệp khác để hướng tới binh nghiệp. Trong giai đoạn tổng động viên đất nước, những tri thức và thanh niên xung phong trước khi định hướng các ngành nghề của bản thân theo các bố cục, đều sẽ gặp kết quả nhập ngũ chuyển thành binh nghiệp cách. Sự phân công của xã hội hình thành nên các nghề nghiệp, mỗi nghề nghiệp thăng tiến phát triển và cơ hội tới một giới hạn nhất định. Trong thời bình, định hướng của xã hội sẽ có sự thay đổi với giai đoạn bất ổn, biến loạn về chính trị hoặc an ninh quốc gia. Sự nghiệp của nam mệnh được đánh giá bằng ba chữ Khoa, Quyền, Lộc. Trong giai đoạn chiến tranh biên giới phía Bắc, sự bất ngờ do Trung Quốc tiến công theo đường biên giới gây ra cảnh tàn phá nặng nề ở nhiều tỉnh phía bắc. Tai họa tới vận làng khi chiến sự khởi tại biên giới, Sát khí cường vượng khiến nhiều người chết. Trong giai đoạn này, nếu nhân mệnh thai sinh tại đây sẽ chịu tác động bởi khí Sát tạo ra do xung đột của vận nước. Tương tự vậy, trong thời gian, có những vùng được sự phát triển lớn do vị trí thuận lợi, nhân mệnh tại đây thành tựu lớn hơn ở các vị trí khác. Trong bản mệnh luận, trong quá trình phát triển của đương số về tham vọng với tài bạch, danh tiếng, địa vị, sự phát triển này luôn tới một giới hạn nhanh chóng buộc mệnh tạo phải đưa ra các quyết định quan trọng để thay đổi khi tiến tới giai đoạn thoái lui. Thường sự giải đãi đến từ việc không tập trung vào công việc hoặc tư tưởng hưởng tới hưởng thụ thành quả sau một giai đoạn cố gắng. 





Hóa Kỵ trong đa phần các trường hợp đều mang ý nghĩa cản trở, khó khăn đương đầu, tuy nhiên một vài cách cục phản vi kỳ cách cầm gặp sao này để thành cách. Sự hưởng thụ và khoảng cách giữa giàu và nghèo ngày càng lớn trong giai đoạn thời vận hiện nay. Có những mệnh quý tử thường là Thiên Lương hay Thái Âm sinh ra trong gia đình rất giàu có, khi sự phát triển rất mạnh phục vụ tri kiến, phát triển giáo dục, bằng cấp Hóa Khoa cũng phát sinh những dịch vụ nâng cao theo chi phí. Phú cách tức Lộc sinh ra Khoa. Truyền đạt những kiến thức, tri kiến về kinh doanh hoặc kiến thức sống để thành tựu. Xã hội dần phát triển lấy tri thức làm trọng, cần thiết hơn trong giai đoạn chiến loạn với ưu tiên là giải phóng đất nước. Cũng như vậy, trong chủ nghĩa tư bản với động cơ lợi nhuận, bất bình đẳng trong giàu nghèo mang tới khuyết điểm, cũng là cơ hội để tạo kích phát do phát khởi từ tham muốn tiềm thức của mỗi nhân mệnh. Trong sự tranh đoạt của xã hội là Sát Phá Tham giao hội Tử Vũ Liêm, và xung đột, bất mãn, mâu thuẫn là Cự Cơ Đồng, là động lực phát triển và đào thải như trong tự nhiên. Cũng do tham vọng nên những phát kiến mới thay đổi đời sống xã hội trở nên tiên tiến, hiện đại cũng xuất phát đa phần từ phương Tây. Mỗi nhân mệnh là một thành phần của xã hội, tùy tư chất của mệnh tạo đóng góp ở một vị trí nhất định. "Thiên địa bất nhân , dĩ vạn vật vi sô cẩu. Thánh nhân bất nhân , dĩ bách tính vi sô cẩu". Trong vận hành của xã hội phát khởi tham vọng là Tham Lang, sau đó thỏa hiệp, tới luật pháp để thiết lập trật tự là Thiên Hình. Phát khởi tham muốn chiếm hữu, sở hữu là bản tính của nhân mệnh, tuy nhiên, khi tích lũy lớn, hao tâm tổn sức, nhân mệnh vẫn không thoát khỏi được kiếp số, quy luật sinh trụ dị diệt. Dẫn tới sự phát triển lịch sử hàng nghìn năm về tìm kiếm tri kiến để giải đáp ngay bên trong chính mỗi nhân mệnh, sinh và tử được cổ nhân nghiên cứu tới hiện nay tri kiến là dòng nối tiếp giai đoạn rất dài. Cũng chính vì sinh diệt nối tiếp vạn vật, do vậy các tư tưởng khởi phát nghịch truyền thống Không Kiếp và Không Vong, hay mất định hướng Tử Tham Triệt hình thành, nhìn nhận vạn vật sinh diệt tới Không, dẫn tới việc từ bỏ các tham muốn tạo khổ cực tố bản thân, hướng tới hưởng thụ tinh thần. Tuy nhiên khi tư tưởng chú trọng tới sinh diệt do sự kích phát của Không Vong trong bản mệnh, cũng hình thành một khuynh hướng tích lũy bởi Tham Hỏa Khốc Triệt Tồn Không, mang ý nghĩa khi nhìn nhận cuộc đời là sự sinh diệt cuối cùng về Không, dẫn tới tư tưởng táo bạo, làm những việc gan góc. 



Hai khuynh hướng của Không Vong tuy nhiên tính chất hoàn toàn trái biệt nhau. Thượng cách hay hạ cách là do cách nhìn và phán xét trong thế giới quan của mỗi nhân mệnh tới cách cục này. Tham muốn, nhìn nhận một vấn đề của mỗi cá nhân là khác nhau, vui vẻ, khổ cực cũng sai khác, dẫn tới sự phát khởi ứng hợp rất đa dạng của các tổ hợp tinh đẩu tới mỗi nhân mệnh. Lý tưởng dẫn dắt toàn bộ cuộc sống của nhân mệnh, do vậy nên môn này có tên Tử Vi. Hưởng thụ cuộc sống là cách cục cơ bản, tuy nhiên rất dễ khiến các bố cục tạo bởi Sát cách trở nên phá cách do tính chất hoạch phát, hoạch phá của Sát tinh. Phàm là nhân mệnh, đáp ứng về nhu cầu của bản thân là tất yếu, khi khát đều cần nước, khi đói đều cần vật thực. Trong một số trường hợp khác, có những kẻ lập dị có sở thích sai trái pháp luật. Trong thế âm có dương, trong dương chứa âm là nguyên cục của ngũ hành. Vượng quá hóa suy, đây là điểm quan trọng khi luận định cách cục tử vi. Lạc quan là yếu tố dẫn tới thành công, nhân mệnh hình thành bố cục Sát cách đắc lệnh nếu ở cách thiên lệch dù thành tựu sự nghiệp lớn ắt sẽ sớm gặp tai họa dẫn tới bế tắc, thử thách tới nhân mệnh. Khi xét định các bố cục nghiệm lý qua các thời kỳ, những vị trí quan trọng chính trị, trọng trách gánh vác, đứng đầu xã hội được nhân mệnh Tử Vi, Cự Môn và Phá Quân nắm giữ. Thứ tới là Thiên Phủ, Vũ Khúc, Thái Dương, Thái Âm. Trong bố cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, cách cục Tử Tướng, Tử Phủ và Tử Vi cư Ngọ. Trong bố cục Cự Nhật với Cự Nhật cư Dần, Cự Môn cư Tí Ngo, VCD có Cự Cơ xung. Với Phá Quân trong cách cục Phá Quân Tí Ngọ. Nghề nghiệp bác sĩ thường ứng với Thiên Tướng, Thiên Lương, Thiên Đồng hội Hình Diêu, Lộc Tướng Ấn. Kinh thương là cách Vũ Tham, Cự Cơ hội Kình Đà Hao. Nghề luật sư thường ứng Cự Môn. Nghề giáo viên thường ứng Thiên Lương, Thiên Cơ. Nghề quản lý, giảm sát, điều tra là Liêm Trinh, Thiên Phủ. Nghề cơ khí, kỹ thuật là Thiên Cơ. Nghệ thuật ứng với Âm Dương Lương hội Xương Khúc. Mỗi lá số do bản tính của nhân mệnh sẽ ứng phù hợp với các nghề nghiệp trên, cũng sẽ có một số trường hợp khí hình gốc vượng hoặc ứng hợp hoàn cảnh xã hội, hay tác động hiện tại của đương số dẫn tới nghề nghiệp sai khác. Lại có các cách cục ly hương, xuất ngoại như Cự Môn hội Lộc Tướng Ấn, đặc biệt là Cự Nhật. Hoặc cách Vũ Sát, Vũ Phá, Liêm Phá có tính ly hương rất lớn. 





Cách cục hình thành ứng hợp, nhân mệnh sẽ phát triển theo khuynh hướng này, hoặc thay đổi do hành vận tác động biến hóa cách cục. Khi luận cách cục, có những tinh đẩu mang tính chất rất đặc biệt như Không Kiếp nếu luận không nắm rõ phân định ắt sẽ không thể luận được kết quả, đặc biệt là hạn hung sát, hạn tử. Chỉ riêng cách cục Đào Hồng Không Kiếp đã phân định rất nhiều trường hợp, tuy đa phần các trường hợp nhập vận trên tạo tai họa với nhân mệnh, nhưng các mức độ tác họa hoàn toàn khác nhau. " Hồng Đào Không Kiếp đồng danh, Ấy phường yểu tử đã đành một hai". Cách cục Đào Hồng hội Không Kiếp tác họa rất lớn khi cặp sao này đồng độ tại Tí Ngọ. Đào Hoa là vị trí Mộc Dục của vòng Trường Sinh theo tam hợp cục. Có 8 địa chi gặp Đào Hoa tại Tí Ngọ là các địa chi Tị Dậu Sửu và Hợi Mão Mùi. Trong đó hai trường hợp Đào Hồng đồng độ là năm Mão và Dậu. Nhân mệnh sinh trong hai niên chi này luôn gặp cách Đào Hồng đồng cư Tí hoặc Ngọ. Nếu hội Không Kiếp trong trường hợp này chỉ gặp một trong hai sát tinh, trường hợp Địa Kiếp tam hợp chiếu, hình thành cách cục Lưỡng Kiếp đồng độ, đặc biệt khi hội thêm Kình Đà tại tuổi Ất Mão thành Kình Kiếp và Ất Dậu thành Đà Kiếp. Tại đây cách Đà Lưỡng Kiếp hội Đào Hồng mang tai họa lớn hơn Kình Kiếp, do nhập thế La Võng mang ý nghĩa kiếp số, khi Đà Nhị Kiếp hội La Võng là kiếp nạn do thiên địa tạo, khó có thể tránh thoát, đặc biệt khi mệnh cách  cư Dần Thân hội Không Kiếp trừ Phá Quân, Thiên Tướng, Cự Nhật, các cách cục chính tinh còn lại đều khó có thể tránh được tai họa lớn, thậm chí là hạn tử tuyệt. Khi luận định tính chất của tổ hợp Đào Hồng Không Kiếp thuộc hạn tử tuyệt không mang ý nghĩa do tính chất đào hoa dẫn tới nhân mệnh tuyệt khí số. Điểm quan trọng tại đây tại một tính chất của Đào Hoa là sự bất ngờ, ở vị trí Mộc Dục của vòng tam hợp cục, đây là vị trí mờ ám, tức có tính mê muội như Thiên Diêu trong cách Hình Diêu. Thiên Diêu mê muội dẫn tới Thiên Hình tam hợp chiếu là hình khắc. Tính chất của Đào Hoa cũng vậy, một mặt hình khắc là điểm ít thường chú ý của Đào Hoa do Kiếp Sát tam hợp chiếu tạo ra. Hồng Loan cũng mang ý nghĩa máu huyết.  Khi Hồng Loan xấu cần chú ý đến các bệnh về đường máu. Với hai chính tinh Thiên Cơ và Tham Lang do tính chất âm mộc và Cự Môn thuộc âm thủy, là hai tinh đẩu khi hội Sát Kỵ rất gặp bệnh nan y, đặc biệt là ung thư. Xét định nghiệm lý các lá số tỉ lệ cao, đặc biệt là chính tinh thuộc ngũ hành Mộc. 





Với cách cục Vũ Sát, Vũ Phá, tuy mang ý nghĩa không mấy hay nhưng thường gặp họa do hình sát, thương tích khác với các sao trên. Đây là điểm rất quan trọng để đương số đề phòng. Khoảng 6 năm trước, người viết nhớ tới một lá số mệnh tạo Tham Lang trong đó có một lá số Đào Hồng Kỵ Kiếp, lưu đại vận nhập vận xung sát mắc bệnh ung thư. Khi đó nữ mệnh tuổi đời còn trẻ, diện mạo rất thanh tú, mệnh cách Đào Hồng Thanh Kỵ Kiếp Linh, tới đại vận thứ hai gặp ách nạn tại cung độ Cự Đồng lạc hãm hội Quế Sứ Hoa Thương cách. Trong năm trước, một nữ mệnh cách VCD nội Cự Nhật Hỏa Linh Kiếp Tuế, ngoại cách Cơ Âm gặp tật ách khi nhập vận Thiên Lương.  Tính chất của Không Kiếp khi hội Tứ Sát Kỵ Hình tác họa lớn, để cách cục thành cách trở nên đắc dụng là rất khó khăn. Lá số của nhân mệnh đứng đầu xã hội khi chế hóa Sát cách mang một đắc tính riêng biệt, yếu tố thiết yếu hướng tới là đóng góp xã hội, do vậy lý tưởng của Tử Vi trở nên cao viễn, đủ sức chế ngự Sát cách cường vượng và ứng thế bộc phát khi nhập vận. Tương ứng như Phá Quân đắc lệnh tượng là quân tử, sinh tử ắt bất trọng bằng thanh danh. Trường hợp này cũng như một số cách cục ứng hiềm tự tử do trầm cảm khởi bởi Sát cục tác động, tính mất định hướng của Không Vong. Khi lý tưởng trở nên cao viễn, Sát cách tự đắc dụng, hợp hóa. Tử vi xuất phát từ Trung Quốc, tuy nhiên thường phát sinh dị biệt do các phái luận hình thành mới tại đây, các môn khoa học huyền bí và tôn giáo vẫn thường giữ được bản chất sau khi truyền tới Việt Nam, khi đại cải cách văn hóa Trung Quốc khiến rất nhiều kinh điển sâu sắc, uyên thâm của cổ nhân về dịch lý, toán mệnh thất lạc hoặc phá hủy. Tử Vi Đông A lưu truyền không mấy rộng rãi, đa phần sử dụng trong nội bộ triều, cách an sao cũng không phức tạp, tuy nhiên tính lý của tổ hợp dẫn hóa và tinh đẩu quả thực giai đoạn tử vi phổ biến hiện nay đã biến đổi khá nhiều. Khí hóa hình, hình hóa thế, thế hóa vận, vận phân định hung cát do khí hình tạo. Thường người nghiên cứu nếu chưa thể xét khí hình nhân mệnh thì lấy xem tướng để phối kết hợp việc chịu tác động và phối kết hợp của tổ hợp sao tới nhân mệnh. Cự Kỵ là cách miệng méo, tuy nhiên Cự Kỵ Hình thường sẽ có vết trên khóe miệng, nếu có Quyền Linh hóa cục thành Quyền, khóe miệng hướng xuống, hóa cục thành thâm trầm, nếu độc tọa môi thâm, có Hình Ấn theo binh nghiệp nắm đại quyền, tuy nhiên hậu vận sẽ phá tán do Cự Kỵ phản cách về sau. Đây là trường hợp khí hình vượng tương ứng ngoài tướng số. Trong trường hợp cách cục phá cách, tuy bố cục Cự Kỵ Hình Linh Quyền chủ mắt lộ, môi thâm, răng thưa, thường ưa phản trắc là nguyên cục không thể chế hóa Sát cách, hình tướng tương ứng chỉ là khí hóa của ngũ hành biểu thị cho kết quả của các tổ hợp giao hội, hành vận Sát Phá cẩn trọng hình tù. Tử Vi Đông A lấy khán hạn quá khứ làm trọng, để nhìn rõ độ số của nhân mệnh trước các tổ hợp Sát Kỵ giao hội, định hướng của các cách cục. Lá số tử vi là mặt sáng, việc hợp hóa bên trong ứng với từng mệnh tạo riêng biệt là mặt tối, việc nhìn sự giao hóa với khí hình khó khăn hơn rất nhiều với định cách cục trên lá số tử vi. Mỗi nhân mệnh một tính cách, một bản thể riêng rẽ, tính cách cũng vậy đại đồng tiểu dị. Cũng thường nghe " Sinh bất phùng thời" chỉ người có năng lực tuy nhiên thời thế khó dụng thân. Chính sự tiểu dị có thể tạo nên thành tựu hay thất bại với các cách cục Sát trọng cực vượng. Thí như một lá số Liêm Sát Kình Hình Hổ Kỵ Xương hội là một lá số tự nội cách hàm chứa nguy khốn lớn với cách Kỵ Hình Thất Sát có Xương Liêm dễ gặp bất mãn, yểu tử khi không có Khoa, Quyền, Lộc cát hóa, cũng sẽ nhiều đương số gặp tử tuyệt với bố cục này tại tiền vận. Tuy nhiên đây là lá số của một chánh án rất nổi tiếng trong thời kỳ trước người viết có luận, là điểm huyền diệu của mệnh lý, khi nhân mệnh có thể điều hòa Sát cục mang ý nghĩa tử tuyệt rất rõ ràng. 

Saturday, October 5, 2019

Tử vi với hai mặt sáng và tối


Trong cuộc sống mỗi người đều chú trọng  bởi ba mặt quan trọng là sức khỏe, công việc và tình cảm. Đôi khi số phận đưa tới những nguy hiểm liên quan tới tính mạng trong cuộc đời. Tai nạn bất ngờ xảy ra đối với mọi nhân mệnh, đặc biệt trong các tai họa tập thể, thường chung số kiếp tuyệt mạng. Tuy nhiên cũng thường thấy những nhân mạng may mắn thoát khỏi các tai nạn. Tai nạn tại Việt Nam đa phần liên quan tới các tai nạn giao thông, tai nạn lao động, các biến cố do thiên tai, hỏa hoạn. Còn lại đa phần do bệnh tật tác động dẫn tới nhân mệnh tuyệt mạng. Thực tế để một lá số tuyệt khí rất khó xảy ra, Mệnh Thân Hạn đều trùng phùng Sát Kỵ phá cách, hoặc cách cục hung họa ứng hợp hoàn cảnh tác động. Như mệnh cách có Vũ Sát Hình Linh Việt nếu nghề nghiệp cơ khí, liên quan tới đồ điện ắt rất dễ gặp tai nạn do nghề nghiệp ứng hợp. Hoặc nhân mệnh gặp cách Cơ Lương Tồn Kiếp Tang Điếu rất cẩn trọng khi nghề nghiệp liên quan tới độ cao. Tai kiếp, họa hại bất phân biệt nhân mệnh phú quý, cao thấp đều có thể xảy ra, phát sinh từ sự kiện ngẫu nhiên bất ngờ, hoặc do âm mưu của kẻ khác tác động. Việc phân định thiện ác, tham muốn của nhân mệnh được dự đoán bởi bản tính của nhân mệnh trên lá số tử vi là điểm huyền diệu của mệnh lý. Trong các trường hợp tai nạn, yếu tốt bất ngờ là điểm quan trọng để tạo ra tai họa, cặp Không Kiếp đứng đầu tạo ra tai kiếp khi xét về tính chất, tại các vị trí Tị Hợi Dần Thân Mão Dậu Sửu Mùi là các vị trí đầy đủ cặp sao này, tính chất tác động rõ rệt, tùy giao hội với các cách cục sẽ phát sinh tai nạn tương ứng. Nếu ngộ Vũ Sát Phá Liêm phùng Sát Kỵ là tai họa do thương tích búa đao, nếu ngộ Cự Kỵ Đà là tai họa do thủy tai. Chỉ ba chữ Cự Kỵ Đà nhập hạn xấu đã gây rất nhiều tai nạn thủy tai, đặc biệt trong giai đoạn trước đây khi lứa tuổi thiếu niên thường tắm tại các con sông, rạch nước. Nếu hội Linh Xương Đà Vũ là tai họa do tin lời kẻ khác. Sát tinh có hai mặt đối lập rõ ràng, trường hợp đắc dụng là tạo kình lực hoạch phát lớn về công danh hoặc tài lộc trong thời gian rất ngắn. Trường hợp phản cục tạo tác tai họa bất ngờ khiến không đương cự nổi, sát thân. Do chứa Sát tính, thường các cách cục mang tính chất ác hóa về tư tưởng, đặc biệt Cự Kỵ Diêu Kình Linh là cách cục bản thân hàm chứa tính chất nguy hiểm khi thành cách. Cự Môn khi xấu là bản thân gặp họa ly biệt, từ biệt. 




Trong tự nhiên, sự sinh tồn biến hóa theo nguyên lý mạnh yếu, ngay cả loài mạnh cũng cần sự tinh tường, kiên nhẫn chờ thời cơ để săn mồi. Trong tình thế xã hội là âm mưu, thủ đoạn để triệt hạ kẻ khác, hoặc để thu lợi về bản thân. Sự tinh tường do Sát tinh khi đắc cách là một khuynh hướng thường ít được đề cập chuyên sâu trong khi luận giải tử vi, đa phần xét tới tính tai nạn. Bản thân ta thường thấy những sự thực phơi bày ra trước mắt, ngoài cuộc sống xã hội hiện tại, về lòng tham để thực hiện được mục đích . Âm mưu, tính toán có thể xuất hiện trong tình cảm, do tài sản,....Trong các cách cục về nữ mệnh, bố cục liên quan tới sao Thiên Đồng và Thái Âm khi Sát Kỵ trùng hội mang ý nghĩa âm ám rất lớn. Thái Âm đắc cách khi Hóa Quyền tượng chủ người phụ nữ quyền lực, với khả năng tinh tường, nhìn thấu rõ được vận hành bên trong thể âm của các sự vật. Thí như việc âm thầm liên kết để loại trừ kẻ khác trong kinh thương, hoặc trong chính trị. Thiên Đồng tượng là nhi đồng, tuy nhiên khi giao hội Sát Kỵ trùng phùng thành cách lòng dạ thâm sâu. Cơ Nguyệt Đồng Lương là nhóm sao hiền hòa, tuy nhiên rất dễ phá cách trước Sát Kỵ. Khi Đồng Âm ngộ Kiếp Đà không có trợ tinh hội họp, ta có thể luận nhân mệnh thâm sâu, có tính âm ám, mưu tính sâu bên trong. Nghiên cứu tử vi để phòng tránh, để nắm rõ về bản mệnh, tính cách để chấn chỉnh, khắc phục khuyết điểm để thành tựu. Cổ nhân luận " Địa Kiếp độc thủ, thị kỷ phi nhân". Tức luận về tính chất khi thành cách của Địa Kiếp. Các cách cục còn được dẫn hóa bởi khuynh hướng của tinh đẩu, lý tưởng, mục tiêu do Chính Tinh và tổ hợp hướng tới. Có nhân mệnh hướng tâm tới cuộc sống bình ổn, vật chất đủ. Có nhân mệnh hướng tới tham vọng địa vị cao của xã hội, hoặc tham vọng về tiền bạc. Các cách cục dựa vào tham muốn để ứng hợp nội ngoại số mệnh. Người nghiên cứu tử vi thường nghe thấy cách cục Mệnh Không Thân Kiếp, đây là cách cục mang ý nghĩa khác hoàn toàn Mệnh có Địa Kiếp. Trong câu phú trên ứng hợp với mệnh cách có Địa Kiếp độc tọa, trường hợp Không Kiếp đồng cung tại Tị Hợi tính chất hoàn toàn khác. Địa Kiếp tượng do âm hỏa cực vượng tác động, thế của Địa Kiếp khi ngộ Chính Tinh chủ âm ám dễ hướng tới khuynh hướng cực đoan. Âm Đà Kiếp khi Thái Âm tại vị trí lạc hãm nhân mệnh bị Sát tinh tác họa, khi Thái Âm tại vị trí sáng hóa Quyền cách cục mang ý nghĩa rất tốt đẹp, chủ nữ mệnh có quyền lực lớn do tính âm hiểm, mưu kế khiến Hóa Quyền thành quyền sát. Trong xã hội, song song với những việc bên ngoài nhìn thấy công khai là một xã hội ngầm với những nguyên tắc riêng biệt, vì vậy cách cục Khoa Minh Lộc Ám hoặc Minh Lộc Ám Lộc được đánh giá tốt đẹp hơn cách cục Khoa Lộc và Lưỡng Lộc tại cùng tổ hợp. 





Tính chất Địa Kiếp mang tính âm hỏa tư tưởng có phần bộc phát, khi hội Thiên Không thường muốn phá bỏ những suy nghĩ lối mòn. Tính chất này có phần tương tự cách cục Cự Tồn bất mãn, tạo cách cục của Địa Kiếp âm hỏa tồn tại, ắt sẽ mang tính bộc phát trong tư tưởng. Với cặp Không Kiếp tùy hội tổ hợp Chính Tinh để luận định tính chất. Sự xung đột của xã hội gắn với đạo đức có phần lệch lạch do tính chất của tiền. Khi đất đai giai đoạn trở nên đắt giá, việc người thân trong gia đình do mâu thuẫn, xung đột dẫn tới xuống tay làm hại diễn ra nhiều. Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh là tứ sát bởi tính chất loạn động khi bộc phát rất lớn. Tả Hữu Xương Khúc là tứ trợ tinh do tạo sự ổn định trong các bố cục. Lá số tử vi tốt đẹp là giao hòa của Sát Tinh và Trợ Tinh với các bố cục Chính Tinh hợp lý. Sự nguy hiểm luôn tồn tại xung quanh hoàn cảnh mỗi nhân mệnh, khi cách cục ứng hợp, sẽ mang họa lớn hay nhỏ tùy độ số của mệnh tạo. Với nữ mệnh, cách cục Đồng Âm là cách thuần âm, giữa sự giao hội của Thiên Đồng và Thái Âm thành cách cục bổ khuyết lớn cho nhau. Nữ mệnh Đồng Âm thực tế trong tất cả các mệnh cách này đều có khả năng suy tính sâu sắc do Thái Âm và Thiên Đồng là hai tinh đầu chủ lòng dạ và cơ tính, trái với Thiên Lương ưa phơi bày, nông nổi ra bên ngoài. Trong xã hội cũng vậy, cách cục Đồng Âm được đánh giá tốt đẹp do tính chất âm nhu tạo ra, tuy nhiên cũng sẽ dễ trong tình cảm ẩn chứa sự suy tính, tính toán. Thiên Đồng là cùng chung, Thái Âm là tư tưởng, lắng nghe. Tại thời kỳ phong kiến, mệnh nữ chu tác động bởi những vấn đề đức hạnh, hoặc đạo đức theo hệ thống chuẩn mực Nho Giáo, tuy nhiên giai đoạn hiện nay là thời kỳ dân chủ, các tinh đẩu biến hóa theo hoàn cảnh xã hội, tuy nhiên bản chất cách cục sẽ không thay đổi. Thiên Lương đắc cách vẫn thường ưa bày tỏ quan điểm, lối sống của bản thân ra bên ngoài, ưa sáng hơn tới. Thiên Đồng trái nghịch tính chất, chủ bên ngoài có tính nhi đồng, trong nội tâm sẽ suy nghĩ sâu sắc. Tượng của Thiên Lương là người già, niên lão. Tượng của Thiên Đồng là nhi đồng. Khi Thiên Đồng đồng độ với Thái Âm sẽ tăng tính suy tính, tùy tinh đẩu giao hội có thể hóa thành âm hiểm, lòng dạ sâu xa. 




Cách cục Đồng Âm cư Tí được đánh giá tốt hơn cư Ngọ. Do cách Đồng Âm tại Tí với Thái Âm sáng, là cách cục chủ có tính thành tựu sớm, gặp may mắn, phúc phận hơn bố cục Đồng Âm cư Ngọ. Đồng Âm cách là cách cục thượng cách tại can Đinh, khi hội Khoa Quyền Lộc Thanh Long. Tại vị trí cư Tí thành cách Lưỡng Lộc đối củng, có Thanh Long lợi cho Đồng Âm. Cách cục Đồng Âm cư Ngọ tại đây cũng vẫn được đánh giá rất tốt khi Song Lộc tại bản cung, có Khoa Quyền tam hợp chiếu. Trái với Cơ Nguyệt Đồng Lương khi tốt là hòa hợp, ngày tháng vui vẻ về tinh thần và may mắn về vật chất. Bố cục Cự Nhật ngay cả khi đắc cách cũng hàm chứa ý nghĩa cự ly. Can Đinh nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương luôn gặp Tam Hóa và nhóm Thanh Liêm Phục hoặc Lộc Tướng Ấn mang ý nghĩa rất hay thì cách cục Cự Nhật với Cự Môn Hóa Kỵ đặc biệt trong tam hợp Dần Ngọ Tuất là cách cục hạ cách, cự ly, tư tưởng thường tự tạo khổ cực, không có một ngày yên ổn về tinh thần. Mệnh tạo có Chính Tinh tọa thủ mệnh là Cự Môn thuộc can Đinh là cách không mấy hay, trường hợp Cự Môn cư Thìn được đánh giá giảm hung do có Thanh Long đồng độ Hóa Kỵ. Cự Môn thường ưa phản đối, cho tới làm phản, là sao đứng đâu trong các bố cục ý nghĩa cự ly. Âm mưu là Đồng Âm, cự ly là Cự Nhật. Thế đứng của Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật tại can Đinh là hai thái cực của cách cục. Âm mưu hãm hại, hay mưu kế giữ vững chủ quyền cho đất nước, tại mọi vị trí xã hội trong các công việc đều mang tính chất này, là các sao chủ ẩn. Trong vận nước, khi sự phá hoại của bên ngoài và bên trong. Âm mưu tới từ bên trong khó phòng bị hơn bên ngoài. Cơ Nguyệt Đồng Lương với Thiên Đồng là trong tổ chức, Thái Âm phối hợp với Vũ Khúc có thể tạo tai họa từ bên trong. Cự Nhật cách không mang ý nghĩa âm mưu dù Cự Môn hóa Kỵ thành cách Cự Kỵ do Cự Nhật cách mang ý nghĩa chống đối công khai, trừ trường hợp hội thêm bàng tinh mang ý nghĩa ẩn tàng. Cự Cơ Đồng là nhóm sao mang rõ ý nghĩa âm mưu từ bên trong, với phối hợp của Cự Môn và Thiên Cơ dễ khiến Thiên Đồng tổ chức tan rã. Sự xung đột, phá tán là duy trì trật tự thiết lập của vạn vật, có sinh phải có diệt, có tụ ắt phải tán. Là hai mặt đối lập của âm dương không thể tách rời. Người nghiên cứu tử vi thường lưu ý để xét vận số thời của bản thân. Vật phát triển tới cực vượng, cân bằng, thoái lui, rồi diệt, không có ngoại biệt. Tuy nhiên thời gian thịnh vượng có thể kéo dài trong giai đoạn cần thiết của cuộc đời là việc cần hướng tới. Bất luận khởi tạo một kế hoạch hoặc lý tưởng lớn, nếu duy trì được thời gian tồn tại và liên tục táo bạo thay đổi, giai đoạn tích lũy càng lớn thì sức bộc phát càng lớn, thăng hoặc trầm. Sự bất ổn và khó khăn luôn tồn tại trong mỗi sự việc là tất yếu. 




Mỗi thời các thể chế chính trị khác nhau dẫn tới các thay đổi khác nhau về Quan cách. Có giai đoạn đất nước chiến tranh, hoặc giai đoạn còn tồn đọng các vấn đề sơ hở về quản lý, giai đoạn loại trừ các ung nhọt. Tác động của thời cuộc trực tiếp. Người viết có truy cập qua một số trang mạng diễn đàn, có rất nhiều người nghiên cứu tử vi có tri kiến thâm sâu với mệnh lý, tuy nhiên cũng có một số người nghiên cứu tử vi xét đoán cho những nhân mệnh chưa thực chuyên sâu về xét giao hội các cách cục của tử vi, dẫn tới lo lắng tới nhân mệnh. Một trường hợp gần đây người viết có gặp một trường hợp khi bình giải cho lá số nam mệnh VCD cư Mùi ngộ Không Triệt với nội cách Dương Lương cư Mão và Thái Âm cư Hợi hội Khoa Lộc Đà Linh Không Kiếp đắc vòng Trường Sinh là mệnh hung họa, hành vận VCD nội Cự Cơ Đồng hội Kình Kỵ Hỏa, ngoại cách Dương Lương là hành vận hung họa, khó khăn, khó có thể thành tựu. Thực tế đây là cách cục khá hay, thế đứng của Âm Dương thường thiếu tính kích phát của Sát Kỵ, đặc biệt trong trường hợp Âm Dương nhập miếu có Khoa Lộc lưu tới hành vận Cự Cơ Đồng rơi vào thế bế tắc buộc nhân mệnh phải đưa ra các quyết định táo bạo để khai thông, cách cục Cự Kỵ Kình khi định bố cục Sát rất lưu ý về tính chất của toàn bố cục. Câu phú thường luận về can Canh " Kình Dương đối thủ tại Dậu cung, Tuế điệt Dương Đà canh mệnh hung" và cách " Cự Môn Hóa Kỵ giai bất cát, Mệnh Thân Vận kỵ tương phùng". Trong tử vi khi nghiên cứu không nằm ngoài quy luật sáng tối của cuộc sống, xã hội, những tri kiến, kiến thức bên ngoài công khai rộng rãi thường có khuyết điểm về tính xác thực. Nhìn độ số của cách cục là nhìn vào tham muốn, lý tưởng và bản tính của mệnh tạo để xác định cát hung, bại thành. Lá số tử vi phân định cách cục hiển hiện để luận định bản tính khởi phát, tuy nhiên phần ẩn bên trong chỉ có thể xác định khi xét tương ứng các sự kiện của nhân mệnh để nhìn hướng đi của toàn bộ cách cục mới có thể luận đoán. Khám phá về huyền học mệnh lý đã rất nhiều thế hệ qua nhiều giai đoạn lịch sử cả nghìn năm, những tri kiến trong kinh điển phổ biến bên ngoài là một phần nhỏ trong kho tàng lớn về dịch lý Âm Dương Ngũ Hành. Khi nghiên cứu huyền học rất dễ tự ngộ nhận về tri kiến, khả kiến của bản thân, tự đánh giá bản thân cao dẫn tới bỏ qua những kiến thức giá trị. Khi nghiên cứu tử vi, người nghiệm lý thời gian lâu dài sẽ nhìn thấy sự vận hành của lý nhân duyên quả hợp rất thâm sâu, tử vi chỉ là một môn toán mệnh, là hóa thực lý về kiến thức của tiền nhân với thuyết Âm Dương Ngũ Hành, nối tiếp vào tri kiến của huyền học Phương Đông, nơi những sự huyền bí vẫn chưa sáng tỏ. Ngoài tham vọng về tiền bạc và địa vị, là tinh thần, ý thức, một phần song song với vật chất, như Mệnh và Thân, nối tiếp của cuộc sống là cái chết hay sự luân chuyển của số kiếp ?.