Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Wednesday, January 24, 2018

Tử vi với trận đấu hay vận nước



Ý chí và quyết tâm là quan trọng, nhưng chữ khát vọng là yếu tố quyết định để xác định thành tựu, vì khát vọng là biến hóa, là hành động hợp cùng tư tưởng. Nếu ý chí và quyết tâm có thể chưa thực hiện một cách mạnh mẽ như khát vọng. Việc này liên quan tới Sát. Trên lá số tử vi luôn tồn tại thế đối đầu giữa Tử Vi, Phá Quân và Cự Môn. Với Tử Vi là trách nhiệm, gây dựng khai sáng là sao đứng đầu trong khoa tử vi. Phá Quân là sự phá bỏ, xung đột đối đầu với đế tinh. Sức mạnh của Tử Vi nằm ở chữ chính, tình nghĩa, trách nhiệm và luôn bám nắm. Phá Quân giành được thế khi Cự Môn tác động tới Tử Vi, gây rối loạn trong nội bộ. Tất cả mọi vật nội phản tất loạn, hay chỉ là sự xung đột sẽ gây phá hoại. Phá Quân và Cự Môn hợp hóa và khi Tử Vi trở nên xấu thì bố cục bắt đầu tan rã. Người viết và đa phần người dân nước ta đều xem các trận bóng đá Việt Nam gần đây. Ở nước ta, việc làm nên kỳ tích do nỗ lực, sức quyết tâm, cùng hướng đích lại thể hiện qua các trận đấu gần đây. Qua các trận đấu hay trong chiến trận từ thời nhà Trần chống Nguyên Mông, việc chống quân Pháp Mỹ thu nhỏ như thế trận của tử vi. Phân địch ta là Tử Vi và thế Phá Quân và Cự Môn. Tất nhiên Phá Quân không phải là xấu, nhiều khi cần thiết sự phá bỏ những thứ lạc hậu, những tham lam, hư hỏng. Ở Phá Quân hay Tử Vi đều mạnh ở tính đồng lòng, cùng chung chí hướng. Và sự liên kết này gắn liền với bố cục Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật. Trong thời loạn, ngay khi chống các thứ quân xâm lược rất hùng mạnh nếu lý tưởng là chính, được quần chúng, tức có hộ ứng là tất thành. Nếu gặp phản cách, ngay trong thời bình, hay chỉ trong những việc nhỏ ắt bại. Tử vi đông a lấy cái dụng của tiền nhân, cái diệu dụng của mệnh lý để luận trợ cách chế hóa Sát. 



Ở đây Sát là nỗ lực, cũng là khó khăn, cản trở nặng nề. Khi Sát cách được chế hóa bất luận cách cục đều là mệnh quý. Do vậy nhiều kẻ học không rõ chữ, theo man thư an thêm các sao, luận lấy cát tinh làm trọng, bố cục Lục Sát, Kỵ Hình đều luận mệnh hung, khiến không giải thích được nhiều trường hợp, sáng tạo ra các thuyết mới, lại các trường hợp phản vi kỳ cách khiến tử vi ngày càng rối loạn. Đặc biệt là thay đổi vị trí của Kình Đà, Hỏa Linh, Không Kiếp luận sai cơ bản. Tử vi đông a từ thời Trần, lấy đạo dụng mệnh lý huyền học mà tạo nên thành tựu lớn, chế hóa được Không cách mà đánh bại cả đội quân hùng mạnh Nguyên Mông qua 3 lần tấn công, 3 đời vua. Sức mạnh của cách cục này không nằm ở bố cục cát tinh. Trong tử vi lưu rõ những dấu tích sử dụng mệnh lý chế hóa vận. Đứng đầu khi luận mệnh cần xét ở khí, tức mang tính dòng, không rối loạn, chuyển động mạnh. Hào khí đông a, khí mạnh như vũ bão,... ứng với Sát cách. Trên lá số tử vi ứng mỗi cách cục khí hình là gốc của sự phát triển. Các môn phong thủy, tướng số, mệnh lý đều luận lấy khí làm gốc. Từ khí vượng tụ mộ, khí vận trên tướng số,... tới tiết khí ngũ hành trong Tử Bình đều là gốc để luận biến hóa. Trong tử vi nếu không rõ khí hình thì luận ắt sai. Khí tuyệt thì mệnh vong, khí vượng ắt trường thọ. Vòng trường sinh là gốc của khí, do đó làm gốc của mệnh lý, lấy âm dương ngũ hành để phát triển. Trong trận bóng đá thì sức cổ vũ là ngoại cách tác động tăng nhuệ khí, trong chiến tranh lấy tư tưởng, văn chương như hịch khích lệ, âm nhạc, lời hiệu triệu như vạn binh mã. Những lời hịch đa phần mang tính Sát vượng, kẻ tội kẻ thù, bất công tức Cự Môn chúng mang lại, về phe tà tức Phá Quân gây ra, khí thế như câu " Đánh một trận sạch không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông" là lời nói mang tính uy lực tăng sĩ khí lớn. 



Trong cuộc sống mỗi người thì ngoại cách tác động lớn tới khí hình. Tuy nhiên về tham vọng,  lý tưởng của mỗi người trong nội cách là gốc để khí hình biến hóa. Trong nội cách tức chính bản thân, trong bản thể của mệnh cách tạo ra. Hai lá số giống nhau gốc khí hình khác nhau, biến hóa ứng hợp của bố cục sao như Tham ngộ Tam Không Sinh Kỵ Hỏa khác nhau, một bên mang ý nghĩa tham vọng không đáy, khí hình rất vượng, một bên mang ý nghĩa sự từ bỏ về tham muốn. Một chữ Tam Không có thể khiến kẻ này chết nhưng kẻ khác làm được việc không tưởng. Như mệnh cách của tướng quân thời này bố cục trên có thể tạo nên võ cách uy chấn. Tuy nhiên với lá số như vậy thời bình lại yểu mạng. Một mệnh khác theo nghiệp kinh thương hoạch phát phú cách rất lớn. Tử vi đông a hướng tới trợ cách chế hóa mệnh tạo do đó trước đây không phổ biến ra ngoài tránh gây rối loạn, chỉ truyền ra ngoài tử vi đẩu số lấy cát tinh làm trọng, luận lục cát hay bố cục chính tinh vượng làm mệnh cát. Thực chất bố cục Sát Kỵ thường mang hai mặt, khi biểu hiện khuynh hướng cái là tính phản, gây tai họa cho xã hội. Thực tế ngoài cuộc sống ta vẫn gặp trường hợp kẻ ác, bóc lột vẫn sống thành tựu, tất nhiên sẽ gặp phản cách tuy nhiên nhiều trường hợp về sau già chết nên không rõ tội phúc. Trong bố cục Sát thì bố cục chế hóa Không cách là mang tính chất mạnh nhất. Bố cục này được dụng từ Triệt Không, Tuần Không và Thiên Không ( Địa Không theo nhiều sách). Sức mạnh của Không cách mạnh ở chữ bất. Đa phần các thành tựu rất lớn, hoạch phát ở chữ bất ngờ, bất thường. Thứ đến là trường hợp mang tính trường tồn, do nằm ngoài vòng Trường Sinh nên bố cục Không có tính chất biến hóa rất mạnh, bất diệt, sống mãi. Do bố cục Sát cách này là bố cục Sát nặng, mang tính chất Không nhưng gắn với chữ Vong là Tuần Trung Không Vong, Triệt Lộ Không Vong và Thiên Không Không Vong, tức mất, trường hợp xấu nhất là mất mạng, vong mạng, cái hay ta thường gặp là biến không thành có, biến không thể thành có thể nằm trong chữ bất thường của Không cách. 



Cái danh trường tồn, hào khí đông a chính là một chữ Không lớn. Nơi tử vi đông a phát khởi, nơi Không cách được dụng bởi Phật Giáo mở rộng tới toàn thể, bản thân của ba vị vua Trần tức Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông đều là thiền sư. Khi vận nước vượng thì trăm họa tự lui, phát phúc, khi vận nước suy trăm họa tự tới. Sát cường mệnh vượng tắc phát bất nghi, Sát cường mệnh suy ắt lụi bại. Lộc Tồn là trường tồn, cần thiết trong bố cục mệnh tốt do nắm vòng Lộc Tướng Ấn, là vị trí Lâm Quan trong vòng Trường Sinh theo Thiên Can, vượng tiến khí, không ở vị trí cực vượng như Đế Vượng rồi Suy. Quốc Ấn mang tính quốc gia, tổ chức. Lộc Tồn mang tính ổn định, cố giữ cần thiết để cát hóa bố cục Sát, khi cát là quyết tâm nỗ lực, khi hung là tai họa tồn tại không dứt. Một trận bóng luôn có yếu tố của thời vận, tức thời cơ. Nếu kiên trì trong định hướng sai lầm là mù quáng. Như trường hợp đào hố tự chôn bản thân. Bản chất của dụng Sát tùy bố cục. Vạn vật biến hóa đều trải qua thịnh suy, giữ cố chấp là diệt, biến hóa ứng hợp là cửa của sinh. Do sinh diệt tương tục nên thay đổi cũng liên tục rõ lý hợp tình. Sát cách phải động, nếu cách cục bế tắc là Tuyệt, nếu có cứu giải là Tuyệt xứ phùng sinh, bố cục này bạo phát lớn. Kẻ thành tựu lớn rất rõ việc khó khăn, thay đổi, tìm ra giải pháp lại gặp khó khăn lớn hơn, khí hình càng vượng. Tới ngay công ty, tổ chức lớn, hay thậm chí quốc gia tưởng như trường tồn vẫn phải suy và diệt. Dịch lý chữ Bĩ khi động hết thời thành Thái, xoay vần liên tục. Từ quy mô nhỏ tới lớn , lớn như quốc gia cũng sẽ được định hướng bởi hai phần, nhà nước chủ hoạt động, đảng chủ tư tưởng như Mệnh và Thân. Cái Nhỏ là bản thân mỗi người cũng ứng hợp với các cách như vậy,  cái tư tưởng của bản thân thường khó điều phục, rõ biết việc bình tĩnh trước mọi việc là cách thức của thành tựu tuy nhiên đa phần người thấy cơ hội sẽ khó quan sát được toàn cục. Phần còn lại là hoạt động, như lý trí suy nghĩ và hành động. Tách rời nhưng gắn kết, Mệnh và Thân tương tự như vậy. 




Bố cục của tử vi để đánh phá mệnh cách cũng như cục diện một trận chiến hay trận đấu là thế của Tử, Phá, Cự. Mệnh cách có ba sao này thủ mệnh ưa đứng đầu, lý tưởng sống làm đầu. Tổ chức như một khối thống nhất là Tử Vi sẽ tan rã ở các cách. Thứ nhất nội phản, ngoại ứng. Thứ hai phòng bị nhiều hướng, nhiều mục tiêu dẫn tới rối loạn. Đây là hai cách phản của Cự Môn, tức trong nội cách. Thứ đến gặp chia cắt, đánh phá bên ngoài là cách của Phá Quân. Do đó Cự Môn nằm lục hội với Tử Vi, tức lục hại. Phá Quân phân hai trường hợp, bên ngoài chưa xâm phạm thuộc cách Tử Vũ Liêm giao hội Phủ Tướng thành cách Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, đối xung Sát Phá Tham, Cự Môn giao hội Cơ Đồng, chưa tiến khí. Trường hợp thứ hai Phá Quân xâm phạm với Tử Vi tác động bên trong khi đó Cự Nhật hình thành ứng hợp chủ công khai phản đối, cách cục này rối loạn, xung đột lớn. Những trận chiến, trận đấu với ý nghĩa sao ứng hợp khác, cũng bố cục như vậy mô tả chính nội tâm mỗi người. Xét lớn mang ý nghĩa tổ chức, đoàn thể , xét nhỏ cách cục trên là chính là bản thân nội tâm, tư tưởng mỗi người. Do đó người luận tử vi đa phần thấy mệnh cách trong bố cục Sát Phá Tham giao hội Tử Vũ Liêm thường mệnh cách gặp nhiều khó khăn, bế tắc, mâu thuẫn nội tâm, bất ổn là do vậy. Bố cục của lá số Tử Vi là bố cục ứng hợp với mỗi cá nhân, do mỗi người đều có một lá số nên cũng ứng với toàn xã hội. Trận bóng đá hay trận chiến cũng có thể mô tả bởi bố cục tử vi. Điều hay là những thứ như vô tri cũng có số mệnh của chúng, âm dương ngũ hành bao trùm vạn vật, do đó vạn vật có thể biểu diễn, dự đoán được biến động vượng suy. Khởi tạo là sinh, ắt phải trải qua diệt. 

Monday, January 22, 2018

Mệnh cách VCD nội Cự Nhật, ngoại Đồng Âm



Nam mệnh ngũ hành Kim, mệnh cách thuộc vô chính diệu với nội cách là Cự Nhật đồng độ tại Dần và ngoại cách là Đồng Âm cư Tí tại đối cung. Ở nội cách tức nội lực bản thể của mệnh, nhưng khả năng tư chất của bên trong. Cự Nhật cách ngộ Tuần Phi Kiếp Liêm. Cách cục tổ hợp Cự Nhật giao hội với nhóm Tuế Hổ Phù và cách cục Thanh Phi Phục là bố cục khá phù hợp với Cự Nhật cách. Tuy nhiên vị trí của Thanh Long bất hợp, vị trí cần ở tại cung độ Cự Nhật hóa Cự Môn thành Quyền, chủ linh hoạt không gặp. Cự Nhật may được Hóa Lộc lại có Phi Liêm chủ thị phi, cách cục VCD có bản cung Bạch Hổ và Phục Binh là cách cục Binh Hổ chủ lời nói có phần thể hiện quan điểm, khả năng hùng biện, diễn đạt tốt. Sao Bạch Hổ và Phục Binh đồng cung khá hợp cách, điểm mạnh là đương số có sự cương quyết, táo bạo khi hành động, các chủ trương và lập luận quan điểm tốt. Cung độ Thanh Long ngộ Thái Tuế hình thành cách cục làm thầy, truyền đạt các kiến thức, chuyên môn là Cự Môn tới người khác, tuy nhiên bố cục này không dụng được thực cách của mệnh tạo. Cách cục Cự Nhật có Không Kiếp tại Dần Thân là sát cách, Cự Môn và Thái Dương có thể dụng được Không Kiếp hóa Kiếp thành sự khác lạ, vượt qua khuôn khổ, trái truyền thống. Cung độ VCD là bản cung mệnh qua đó ngộ Tam Không có Hóa Lộc và Hổ Binh tại bản cung là cách cục mạnh, thuộc cách Vô Chính Diệu kiến Nhị Không.



Ở đây may mắn khi Cự Nhật gặp Tuần Triệt là nội tâm ổn định. Lưu ý mệnh cách VCD nội cách ngộ Triệt Tuần có Cự Nhật thì có thể phòng tránh tốt trước những việc không ngờ tới trong cuộc sống, bố cục này may mắn khá ổn định, điểm tốt là Cự Môn  được cát hóa bằng Sát cách. Cự Nhật ngộ Kiếp Không bất kiến Sát Kỵ giao hội là cách cục khá tốt. Sát cách hóa thành Quyền tuy nhiên không mấy toàn vẹn do trợ tinh không mạnh, đương số khi Không Kiếp tác họa do đại tiểu vận bố cục ổn định biến thành do tham muốn nhanh chóng mà gây ra thất bại. Ở đây Cự Môn là miệng lưỡi, lời nói, là chuyên môn, điền sản, sự phản đối, đứng lên là tính chất được cát hóa. Đặc biệt với Cự Môn phản đối và khai sáng rất vượng, đương số nếu khí hình mạnh tự kinh thương, gây dựng sự nghiệp, tự đứng đầu khai sáng tuy gặp hoạch phát, hoạch phá nhưng thành tựu khi qua khó khăn rất lớn. Một biến cố do quá khứ bất dụng đúng trợ cách và do khí hình mà mệnh tạo theo Tài Cách khai phá vào thời điểm vận xấu và khuynh hướng nỗ lực không lớn nên gặp thất bại khiến khí hình trở thành suy. Nội cách Cự Nhật ở đây thuộc cách cục phẩm chất tốt, hướng vào khả năng làm chủ tình huống, tính chất khám phá, đi sâu vào vấn đề tốt nhưng điểm yếu của bố cục này là sự giữ vững tâm lý khi gặp bất ngờ do cách cục Tam Không gặp Cự Môn thành lo âu.



Bố cục nội cách cần lấy sức nỗ lực và nắm giữ, giữ vững ý chí tìm hướng thay đổi, phản ứng là trợ cách. Do Cự Môn luôn cùng trợ lực với Phá Quân và Tử Vi xung đột với Cự Phá là toàn bộ bố cục của các sao đứng đầu và khai mở các sự việc ban đầu trong tử vi. Do đó Cự tốt khi Phá Quân giỏi phá cũ đổi mới tốt, cũng do Phá Quân chủ giữ vững đường lối tuy nhiên luôn thay đổi để phù hợp. Khác với sao Tử Vi chủ sự ổn định với đường lối. Cách cục Cự Nhật đầy đủ khi Cơ Nguyệt Đồng Lương hoàn chỉnh và Sát Phá Tham đang xung đột với Tử Vũ Liêm do lý tưởng mâu thuẫn giữ xây dựng và phá bỏ, thay đổi và ổn định. Cự Môn tại đây mang ý nghĩa khai sáng, dẫn đầu thì phù hợp do trong thời cảnh Phá Quân và Tử Vi xung đột lớn, cơ hội của Cự Môn xuất hiện do phản đối với Tử Vi, và Cự Nhật cách là phản đối cách, chủ đứng lên can gián, phản đối như thời phong kiến theo Quan Cách. Cự Nhật theo Quan Cách thường theo nghề nghiệp liên quan tới ngôn luận, các tổ chức ngoại giao. Với Cự Môn ở đây do cách cục là Cự Phi Lộc theo Quan Cách có thị phi. Cự Môn cũng chủ sự tài năng, am hiểu cặn kẽ do luôn bất mãn và tự vấn trước các kiến thức và tình hình thực tế. Tuy nhiên bố cục này là cách cục Cự Tồn hay trong nhóm Cự Cơ Đồng. Với cách Cự Nhật ngộ Thanh Long chủ danh, cách cục Thanh Tuế có thể theo ngành tư pháp, tư vấn, từ lời nói sinh ra tài lộc. Cự Nhật nội cách tại đây hợp với Tài Cách kinh thương hoặc theo nghiệp tư vấn, môi giới sử dụng ngôn ngữ phù hợp, với Quan Cách thực chất đương số do có khả năng linh hoạt, thay đổi tốt và Thanh Long ở đây khá tốt đẹp nên Cự Nhật quan phong tam đại là bố cục khi Cự Nhật đắc cách. Ở đây tuy thăng trầm do Không Kiếp và bố cục trợ tinh không mạnh nhưng về thành tựu cũng không xấu. Tuy nhiên vòng đại vận ở đây khiến quan cách chỉ trở nên tốt đẹp khi mệnh tạo tầm trung niên.


 VCD ở đây ngoại cách là Đồng Âm cư Tí ngộ Khoa Tang Phượng Linh Kỵ, trong bố cục Cơ Nguyệt Đồng Lương ngộ Hỏa Linh Hình Kỵ Tồn Không là bố cục mang ý nghĩa tai họa nhiều hơn may mắn với cách Mã Khốc Khách Tồn Tuyệt là bế tắc, chuyển động nhưng khó thoát khỏi bế tắc, tính động mạnh. Điều quan trọng là cung Thiên Di tại ngoại cách tuy nhiên cung an THÂN an tại cung này, cung an THÂN là sự tác động liên quan tới hành động, chủ sự ý thức khi tiềm thức, tính cách ban đầu của Mệnh chủ xây dựng lớn dần. Cung an THÂN gắn liền với cái nghiệp, cái bản thân và thân phận của nam mệnh. Cung an THÂN tại Đồng Âm với bố cục Sát tinh hội họp gồm Hỏa Linh Hình Kỵ Tồn thì hành động thường mang tính bộc phát, đi liền với tai họa. Về mặt tình cảm hay về việc gắn liền với ra ngoài thường không gặp yên ổn, đặc biệt với cung an THÂN tại Thiên Di hội họp cách Mã Tuyệt Hình Kỵ Hỏa Linh là cách cục càng chuyển động càng mắc lưới, chỉ xét bố cục Mã Hình Kỵ Tuyệt đã là cách cục xấu. Với nội cách là Cự Nhật khi tới vận này càng mang nhiều mâu thuẫn, sự khó khăn chật vật do hình thành hai cách cục bất lợi cho nhóm Cự Nhật không có Thanh Long là Cự Kỵ và Cự Tồn Kiếp. Cũng bất ổn với mệnh Vô Chính Diệu. Chữ chuyển động, nỗ lực khi gặp nghịch cảnh cần rất lớn tuy nhiên cũng không có được kết quả tốt đẹp.


Sao Thiên Mã trong nhóm Tang Mã Khách là nghị lực vượt qua nghịch cảnh nhưng ở đây là cách cục Hình Kỵ Tuyệt đương số thường gây thái quá, tính chất ổn định không có nhiều. Do đó mệnh cách cần thiết ổn định và thời cơ. Thiên Mã là lao động, mệnh cách hướng tới vạch đường lối rõ ràng sẽ tránh được khó khăn gặp phải. Một sao Phượng Các đi với Đồng Âm, sự nhất trí đồng lòng được giúp đỡ là quan trọng để hành động, thực hiện các quyết định. Lưu ý đương số nên tránh tự động sẽ tự tạo khổ cực cho bản thân, làm việc cùng chung sẽ mang ý nghĩa tốt đẹp hơn. Tài cách ở đây trục Tài Phúc có Không Kiếp Song Lộc ngộ Cự Nhật là trọng điểm của Tài Cách. Hình thành bố cục Lộc Mã giao trì là bố cục hay thuộc phú cách do Tài động, tuy nhiên Thiên Mã phá cách nên tiền vào chưa tích tụ đã phải sử dụng, tiền cũng thăng trầm do thêm cách Không Kiếp Hình Kỵ ở đây. Phúc Đức cung không mấy tốt nên tai ách gặp phải tuy mệnh cách có bố cục khá may mắn nhưng đa phần lại gặp nhiều tai họa mới được trợ giúp. Do đó cách cục phát may phá cách ở tại Thân và Phúc, đương số không nên cầu cạnh vào may mắn mà dụng cách Binh Hổ Cự tức bản thân đưa ra quyết định một cách chắc chắn không trông chờ trước mọi việc. Quyết sách hành động của bản thân tự tạo sẽ mang lại kết quả khả quan do ở đây Đồng Âm cư Tí ngộ Tang Phượng Khoa Kỵ, trong khi ngôi sao may mắn Cơ Lương gặp Hỏa Hình tức cơ hội tới nóng vội sẽ dẫn tới thất bại. Ổn định là cần thiết để bố cục này chế hóa được cách cục nặng như Kỵ Hình Linh Hỏa ngộ Cơ Lương ở tại cung an THÂN tức hành động, bản thân của đương số.



Do đó nếu đương số vận theo Tài Cách tuyệt đối không nên có khuynh hướng đầu cơ hay làm việc thiếu cẩn trọng, trông chờ vào may mắn ắt khó thành tựu, tổn thất lại lớn . Đương số cần chú trọng với bản thể nội cách là Cự Nhật Binh Hổ, chờ đợi đúng thời điểm là quan trọng, luôn cẩn trọng trước những lợi ích trước mắt, nhanh chóng vì cách cục không may mắn nằm ngay tại cung an THÂN. Bố cục Cơ Nguyệt Đồng Lương phá cách sẽ ảnh hưởng tới khả năng thụ hưởng của bản thân, mệnh cách đa phần luôn ứng hợp phải lao lực, vất vả ít được thảnh thơi.  Do đó nếu không dụng trợ cách phù hợp hóa cách cục thành nỗ lực phấn đấu, gây tạo sự nghiệp thì cách cục lao lực trở nên phí hòi công sức. Chữ chờ thời điểm và chủ động tránh do yếu tố bên ngoài như tham muốn nhanh chóng tác động là rất quan trọng với đương số. Mệnh tạo có cách cục tốt về hậu vận. Đương số ở tại hai đại vận sau bố cục càng ngày tốt, đặc biệt vận Thiên Phủ độc tọa ở cung Hợi. Nam mệnh với cách Cự Nhật Lưỡng Long. Thiên Mã là sao chủ nghị lực nhưng cũng mô tả khó khăn bản thân gặp phải. Qua đại vận của Mã Tuyệt và đại vận Liêm Tham mệnh cách Cự Nhật có khuynh hướng tăng tính chất trầm ổn, dần ứng hợp được với Địa Kiếp tại cung độ Cự Nhật và ngoại cách Kỵ Tồn. Mệnh cách VCD có nội Cự Nhật và ngoại Đồng Âm xung các đại vận hiện tại rất nên tự khởi tạo, xây dựng sự nghiệp hay tổ chức riêng, cách cục của Cự Môn chủ gừng càng già càng cay, Cự Môn là hiểu biết, Cự Nhật cách ở đây tuy không có Khoa Quyền Lộc nhưng được Không Kiếp, ngoại cách lại gặp Song Lộc có thể dụng được cách Cự Nhật.

Sunday, January 21, 2018

Vấn đề luận nam mệnh VCD nội Cự Nhật



1. Ổn định sẽ giúp chế hóa cách cục nặng ở THÂN/PHÚC như là Hình Kỵ Linh Hỏa: theo tôi hiểu, Kỵ sẽ làm bộc lộ những khiếm khuyết của các sao, nên nếu hành động nóng lạnh (Hỏa Linh) thất thường sẽ phát sinh tai họa. Như vậy nếu không có Hỏa Linh, chỉ có Hình hoặc chỉ có Hình/Kỵ thì cách chế hóa có còn là Ổn Định hay không? Nếu không, lời khuyên của Tử Vi Luận Giải ở đây là gì? (Qua kiến thức trên trang luantuvi, chế hóa Hóa Kỵ có thể là sự kín đáo, quyền biến, đa nghi, cẩn thận, tính toán rủi ro ..., nhưng chế hóa Hình thì tôi không thấy nói nhiều, chỉ là Riêu gặp không tinh thì hết mờ ám và Hình sẽ là hình mẫu. Điều này có áp dụng với mệnh số của tôi không?  Mệnh cách có Riêu ngộ Thiên Không tại bản cung)

Ở đây mệnh cách VCD có nội là Cự Nhật, ngoại cách Đồng Âm do đó cung độ an Thân cùng là cung Thiên Di ứng hợp quan trọng khi luận cách, do đó đương số cũng sẽ rất quan tâm tới cung độ này vì tính quan trọng. Nội cách Cự Nhật Kiếp Phi tính động lớn do giao hội với nhóm Thanh Phi Phục. Ở đây mệnh cách có Binh Hổ là bố cục có thể hóa được Kiếp Kỵ với nội Kiếp ngoại Kỵ. Cung an Thân tính động lớn, do cách cục Đồng Âm ngộ Linh Hình Kỵ giao hội Mã Khốc Tuyệt Tồn Không. Quan trọng nhóm sao an theo Thiên Can là Tồn Ấn Bệnh kỵ ngộ bố cục Tuyệt Kiếp Mã là bế tắc, tồn tại khó khăn, cũng là cách phù động. Tuy nhiên lại hình thành bố cục Lộc Mã giao trì, ở đây nếu dụng ổn định cẩn trọng, tránh phù hợp nhập vận tránh được họa không ngờ đến. Cách cục Cơ Lương Hỏa Linh Hình Kỵ Không Kiếp Tuyệt giao hội với Mã nên càng động thì dễ gặp họa, Cơ Lương là thời cơ,cũng chủ đầu cơ mạo hiểm,mệnh cách tính ổn định tức không nên ưa việc vận dụng cơ hội ngắn để thành tựu nhanh chóng. Với bố cục tổ hợp không thể luận tách riêng rẽ, xét toàn bộ phối hợp chế hóa của từng nhóm giao hội, phân định ra ý nghĩa của toàn tổ hợp. Ở đây bố cục không phải Không Diêu mà là Hình Kỵ Hỏa Linh Tuyệt giao hội Cơ Nguyệt Đồng Lương và Không Kiếp tác động, nhóm sao theo Địa Chi là Phượng Khốc Mã và Thiên Can là Tồn Ấn Bệnh, Khoa có tính cứu trợ, ổn định cách cục. Cách Khoa Ấn nếu không có tại đây thì họa rất nặng nề, có thể vong mạng. Với Phượng thì hai mặt, ở đây thiên về cát hung tương bán, do Phượng Khốc là tổ hợp của nhóm sao này. 

2. Mã Hình Tuyệt Linh Hỏa có tính sát rất nặng. Nhưng cũng vẫn câu hỏi trên, nếu chỉ xét riêng Mà Tuyệt  (hỏng việc, khó khăn ...) thì chế hóa nên là gì?

Không thể xét riêng bố cục một hai sao mà cần xét toàn tổ hợp phối hợp với Chính Tinh, đầy đủ nhóm sao an theo Địa Chi và Thiên Can, tính tác hóa của Sát Kỵ, khả năng chế hóa của Trợ tinh với bố cục, phối hợp như vậy luận cần có thực lý, việc cơ bản hay gặp khi luận tử vi là lắp ráp các sao, luận tách riêng nên không rõ tính chất, đôi khi nhìn cách Kiếp Kỵ trên lá số luận mệnh xấu, yểu tử. Cách cục này cần sự cẩn trọng, giảm động, ổn định cách trước cơ hội ngắn, cẩn trọng không nên suy tính quá nhiều ảnh hưởng tới đầu óc. 

3. Ngoài các sát tinh tại THÂN (Di) PHÚC PHỐI, cũng còn Ấn, Khoa, Tướng (Binh Hình Tướng Ấn đứng từ góc độ của Di). Có vẻ như các sao này cũng có một số tác dụng chế hóa (Ấn Hình), Khoa Kỵ/Linh. Nghiệm lý của tôi trong đại vận 23 - 32 là mặc dù bị phá sản nặng nề năm Mậu Dần 1998, nhưng năm 2000 (Canh Thìn) được đinh cư ở nước ngoài theo cách rât rất đặc biệt, và may mắn này đã khởi phát cách này từ năm  trước 1999 (Kỷ Mão) (Tôi được định cư dưới dạng người có kỹ năng đặc biệt; tại thời điểm đó, tôi là người Việt đầu tiên thành công trong chuyện này, đây cũng là bước ngoặt trong cuộc đời).

Vậy tôi có thể vận dụng các sao trên (Ấn, Khoa, Tướng)  được không ? và như thế nào? 

Đây có bố cục Sát đã được hóa cục sau khi tác họa, đương số tăng cường khí hình, thích nghi và bắt đầu dụng Sát cách. Do đó cổ nhân thường luận đại họa không chết thì phát hồng phúc tức phúc lớn. Hay câu nói khi bản thân chuẩn bị thất bại với khó khăn không thể vượt qua thì đây cũng là lúc cơ hội thành công rực rỡ nhất. Bố cục Sát có đặc tính khi bị chế hóa một phần, nếu cách cục khí hình vượng sẽ thành tựu trong khó khăn. Đúng khi luận bố cục này được dụng do cách Binh Hình Tướng Ấn, tuy hình thành cách Tướng Binh Tử Tuyệt ngộ Khoa Phượng. Ở đây luận theo Tướng Binh Tử Tuyệt do gốc đại vận là Tuyệt Mã Khốc. Chữ Khoa ở đây cứu giải mạnh, cách Lương Khoa thường không gặp đường tuyệt do Thiên Lương khí hóa rất lớn, lại có Khoa  và Hình Ấn trong cái ẩn tàng Sát gặp chữ Quý cứu giải. Tuy nhiên đương số vẫn rất vất vả vì chữ Tuyệt tại đây, sẽ giảm dần theo thời gian của vận khi trợ tinh bắt đầu tăng sức cát hóa. Dụng cách Binh Ấn Khoa là sự kỷ luật của Thiên Hình, cách cục này mang ý nghĩa nghiêm khắc với bản thân trước khi đưa ra quyết định khi gặp cơ hội trước mắt. 


1. Vì tôi tuổi Canh nên Khôi Việt sẽ là Mùi Sửu (Khôi tại Phụ Mẫu), nhưng nhiều chương trình an sao an Khôi tại Mệnh của tôi (Tại Ngọ).  Về thực tế nghiệm lý như sau:

Tôi là cháu đích tôn (Con trai cả, và tất nhiên bố tôi cung là con trai cả). Cũng là người học hành khá chỉnh chu, làm việc khoa học. Cũng là thủ khoa ở trường Đại học lớn ở nước ngoài. Hay có khuynh hướng/hoặc thích khác biệt. Điều này 'có vẻ' ứng với KHÔI tại mệnh (nhưng cũng có thể giải thích bằng CỰ nội cách và KHOA ngoại cách).

Ơ cung Phụ Mẫu, bố tôi là con cả, hiền lành một cách đặc biệt, cả cuộc đời nhường anh em (vật chất và tinh thần). Theo tôi hiểu, tính chất này có thể ứng với Đà Khôi (tại phụ Mẫu). Năm 2015, tiểu vận cung Sửu mua nhà, tôi tự luận là do Việt Vũ phát sinh tài sản.

Nếu có thể xin thầy cho một vài nhận xét để xác định hoặc tiếp tục nghiệm lý về vị trí Khôi Việt đối với tuổi Canh của minh.

Thiên Việt đi cùng nhóm sao Vũ Tham là cách phát triển tham muốn, ở đây toàn bố cục là tinh hệ Tử Vi và Phá Quân xung đột với cách Kình Việt Đại Quyền. Bố cục này chủ sự xung đột và phát triển định hướng. Do cách cục này được kích hoạt bởi Việt và thay đổi bởi cặp Kình Đại, động cách do xung đột giữa hai nhóm sao lớn nên tiểu vận nhập tới hạn Hợi Mão Mùi đều xuất hiện những thứ mới, thay đổi mới, quan trọng nhất là khó khăn mới. Nếu không có Việt tại đây thì cách cục Kình Đại biến đổi không mạng, cũng không phát sinh cái mới, xung đột mới. Nếu ở mệnh cách có bố cục Khôi Việt hình thành cách Cự Nhật Tuế Thanh Khôi Việt là bố cục đứng đầu rất mạnh, cách cục này phát danh lớn, và Việt là phát sinh đi với Cự Nhật khi nhập tới tiểu vận năm Thân bất cứ đại vận nào sẽ xuất hiện khuynh hướng tạo mới, khai tạo, khởi sự. Nhóm Khôi Việt mang tính chất tăng cường tính chất cho nhóm sao, bản thân cũng mang ý nghĩa sự quý hiếm. Ở đây người viết có đăng tải bài viết về Khôi Việt an theo Dịch Lý. Lưu ý Khôi Việt đi với nhóm Cự Nhật rất mạnh về tính khởi tạo. Khôi Việt đi với nhóm Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham là cách phát sinh xóa bỏ, thay đổi hay xây dựng, ở đây là cách Việt Kình Đại. 

2. Đối với tôi vì cuộc sống có khá nhiều gian truân, bôn ba vất vả, tình cảm riêng cũng vậy, nên rất quan tâm đến việc chủ động chế hóa sát tinh (chắc là do dương cách chủ đạo như thầy đã nói). Đây thực sự là điểm vô cùng thú vị của trang Luantuvi. 
Vì sang năm có Lưu Đà, Lưu Kỵ, và Hình tại Tiểu vận, nên tôi muốn hỏi chủ động cách chế hóa của Riêu Đà Kỵ (nếu chỉ xét riêng) có thể là gì? Đọc bài gần đây nhất của Luantuvi có nói, việc nghiên cứu huyền học, lý số có thể là một cách cho Riêu Đà Kỵ. Với thực tế xã hội hiện nay liệu có thể có các cách chế hóa Riêu Đà Kỵ khác nữa không?

Cách chế hóa của Tam Ám là tính chất ngầm, Diêu Đà Kỵ mang tính chất ám, lại mang tính cản trở, thị phi hình khắc. Thực chất ở đây là giao hội của nhóm Đà Hao an theo Thiên Can, tính chất hiển hiện ở bản tính với Hình Diêu và Hóa Kỵ. Trong đó khi luận Tam Ám mạnh ở bố cục Hình Kỵ Đà chủ sự thay đổi và bị ngăn chặn, bế tắc. Tính âm ám tức sự cản trở rất mạnh, cũng cần xét các bố cục Đà Kỵ đồng cung khác, Diêu Kỵ đồng cung khác, việc có một sao xung chiếu và củng chiếu khác. Trường hợp đúng cách xét riêng bố cục này là sự khắc phạt và cản trở, không mang dương tính mà mang âm tính, sự nhẫn nhịn, nhẫn nhục của Đà La. Ở đây nếu mệnh dương tính thì dụng bằng cách chủ động trong dụng tính ám. Như việc một kẻ quyền lực trong bóng tối, danh tiếng khiến nhiều người kính nể khi nhắc tới là một cách chế hóa mạnh của Tam Ám. Cách hay là Kỵ Khốc Đà giao hội Quyền và trợ tinh, bố cục mang tính chủ động. 

3. Các ý kiến luận về tam hợp rất hay. Tôi cũng hơi băn khoăn về mức độ ảnh hưởng của nhị hợp. Với cung nhị hợp của mình có Đà Khôi,  ảnh hưởng sao này tới mệnh cách thế nào?
Một câu hỏi thêm có tính chất hiếu kỳ, nếu Đà Khôi Hình đi với Thiên Lương liệu có thể nói là hợp với nghề như kiến trúc xây dựng (Đà)  hình ảnh (Hình và Lương) đẹp (Khôi) được không (nếu chỉ xet riêng 4 sao này thôi)?  

Với bố cục của nhị hợp là tác động liên quan như người bên cạnh. Bản thân và môi trường là quan trọng, cung nhị hợp có giá trị khi cách cục thuộc trọng điểm và đại vận qua cung độ này. Bằng không nếu xét tiểu đại vận tới mệnh thân là đủ khó khăn để luận, nhị hợp không cần chú trọng lớn trừ các trường hợp mạnh như Ám Lộc,...

4. Thêm một điểm nữa là: Lưu Tuần cho từ 2014 đến 2023 sẽ ở Thìn Tỵ, cũng rơi vào cung tiểu hạn sang năm của tôi. Ảnh hưởng của Lưu Tuần trên thực tế nghiệm lý có mạnh không? và được hiểu thế nào khi đọc tiểu hạn/đại hạn?


Lưu Tuần trên thực tế không đủ sức tác động tới các bố cục Chính Tinh và Trợ Tinh trừ Tử Vi và Thiên Phủ, với hai sao này cũng không quá nặng nề. Qua nghiệm lý và luận đoán không dùng nhiều tới bố cục Lưu Tuần Triệt ở lưu đại vận. Có thể hiểu như Tử Vi ngộ Lưu Tuần là thiếu tính tự chủ, quyết đoán trong một thời gian. Nếu Tử Vi gặp Tuần cố định là tính cố hữu, bản thân thường bị che lấp, làm bình phong cho kẻ khác trục lợi, mất đi thực quyền lại phải chịu nhiều trách nhiệm. Tử Vi kỵ Triệt Tuần do nhiều lý do. Khi xét Lưu cung cần xem tiểu vận các bố cục trọng điểm có mạnh hay không, các sao tăng tính quan trọng, quan trọng nhất là Lưu Kỵ, Lưu Lộc Tồn. Nếu phân các lưu thì phân theo các nhóm sao luận phân bố vào cung độ tiểu vận, đại vận và mệnh thân cố định. 

Sunday, January 7, 2018

Luận vận cách nam mệnh Liêm Phủ


Đại vận đầu tiên luôn nhập tại cung Mệnh. Đây là đại vận đánh dấu bước đầu của vòng vận hành chuyển động lá số. Những tư tưởng cá tính đầu hình thành tại đây và phát triển liên tục qua các đại vận cho tới khi tuyệt khí. Khi chồng chất các thói quen trưởng thành cung an THÂN sẽ càng mạnh tức ý thức bắt đầu kết hợp với bản chất hay tư chất của mệnh cách. Ở đại vận thứ nhất bắt đầu xuất hiện Mệnh Thân đồng tác động tuy nhiên tính chất chưa biểu hiện rõ ràng. Lý của tiền nhân khi luận cung an THÂN tác động từ 30 có phần nhỏ khiên cưỡng tuy nhiên nếu xét tại mức độ trưởng thành chịu phối hợp mệnh của Mệnh Thân thì không sai. Đại vận đầu tiên mệnh cách nhập Liêm Phủ cách cư Thìn có Phượng Khách Quả theo Địa Chi và Ấn theo Thiên Can. Đại vận đầu tiên đánh dấu sự ghi nhớ, lưu giữ khả năng, năng lực ngay của mệnh cách. Đây là một trong các lý do chính mà nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm hoàn chỉnh ưa gặp Lộc Ấn Bệnh do các tính chất, lý tưởng định hướng được ổn định và để lại lưu giữ để hành vận tác hóa. Khuyết điểm bộc lộ tại đây là bố cục không có Sát Kỵ và khí hình mệnh cách bất vượng, không thể dung nạp bố cục tốt này mà hóa thành ổn định. Như một kẻ dân thường tự được ngồi trên ghế quan không thể thực hiện công việc.



Bố cục này với gốc ban đầu của mệnh cách không dụng được Phủ Tướng là kế tục, Phủ Tướng Ấn là thừa hưởng cách nhưng tổ tiên truyền lại tước vị hay lộc khố bất vượng. Quan trọng bố cục này thuộc Tử Vi cư Tí là tinh hệ tốt đẹp tuy nhiên không thể so sánh với Tử Vi cư Ngọ và quan trọng là các đại vận chuyển động gặp nhiều khó khăn cho tới đại vận Vũ Tướng. Lưu ý với mệnh cách Liêm Phủ và cung an Thân là Tử Vi đứng đầu và quan tròn nhất là lý tưởng, cũng là cách cục sử dụng tình cảm, tính chất tương trợ mà tạo nên thành tựu. Mệnh cách không có Sát Kỵ điểm hóa thì khả năng thu quần chúng không lớn, đặc điểm của Sát Kỵ là tính chất Quyền và khả năng hoạch phát khi khí hình ở mức độ thấp. Với mệnh Liêm Phủ cần thiết gặp Hỏa Linh hay Hình Việt hay Kỵ để cát hóa mệnh cách. Đại vận cung Mệnh mang lại tư chất, khả năng cho mệnh cách. Một điểm không hay là sao Tử Vi rất kỵ Không Vong và Thiên Hư, trong đó ngộ Thiên Hư phá cách hơn gặp Triệt. Tử Vi là lý tưởng, là sao chủ đứng đầu luôn đối đầu với Cự Phá. Khi Tử Vi ngộ Thiên Hư trong lúc đủ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm thì Sát Phá Tham ngộ Thái Tuế. Mệnh cách Tử Hư là lý tưởng hão huyền, chủ tính chất định hướng bị mất phần lớn, tức nôm na từ vua quyền thật ta gặp vua hư quyền, lại có Ấn Quyền tức chỉ mang tính biểu tượng.



Như một số quốc gia hiện nay thì ta thường gặp chế độ quân chủ có tính hình tượng như Nhật hoàng, từ giả thành thật có thể được hay không là do bản thân có thể tăng mức độ khí hình biến hóa bố cục. Và nếu xét trên lá số cần thiết nắm trợ cách và các đại vận Sát Kỵ chính là đại vận khó khăn trùng trùng nhưng là nơi để hoạch phát. Một cung an Thân này là Thân gốc, phối hợp với Mệnh thành cái rễ ban đầu. Tiếp tục là khuynh hướng lựa chọn của đương số sẽ khiến các cách cục bắt đầu thực hiện ghép ứng với hoàn cảnh bên ngoài tạo ra tính chất. Nhìn Phụ Mẫu sẽ ra bố cục của Âm Dương Lương. Ở đây cách cục Âm Dương Lương trong toàn cục lạc hãm, không đắc lực, do đó các mối quan hệ xã hội sẽ gặp hạn chế. Mệnh cách thay đổi từ Quan Cách sang Tài Cách là hợp cách, do đó cách cục Tử Hư được chế hóa mang ý nghĩa khác, tức ở đây là bố cục Tử Vi ngộ Tang Hư Mã Khách, lấy Mã là gốc thì tốt, tính linh hoạt của Mã rất cần để xác định khả năng của Liêm Phủ. Ở đây bố cục mạnh là Lộc Mã giao trì có Phượng Khốc là Mã Khốc Khách Lộc có thể biến hóa cách cục để mệnh cách theo Quan Cách, tuy nhiên người viết đánh giá theo Tài Cách lấy Tử Vi làm lý tưởng thì tốt hơn, tránh được bố cục Tử Hư mang ý nghĩa thiếu tính thực quyền, trong khi Tài Cách dụng bố cục Vũ Phủ Lộc Mã Phượng giao huy, Liêm Phủ ở đây tính chất ổn định và linh hoạt với Tang Lộc là kho tiền.



Ý nghĩa tượng cách này rõ nét tài cách. Đại vận thứ hai, cung độ đại vận thứ hai nhập cung độ Thái Âm cư Tị. Bản cung có cách cục Âm Khoa Hỏa Đại nhập cung độ Trường Sinh, tam hợp chiếu gặp Kình Lộc Hồng Quang Quý. Đại vận thứ hai này Thái Âm nhập hãm tạo ra khó khăn và tinh thần, tuy nhiên tính phấn đấu, nỗ lực không kém. Dương Lương có Kình Lộc Hỏa Khoa thì tranh giành tốt, thường được hưởng lợi sớm, cũng sớm có được tài năng mọi người biết đến. Đại vận này hay vì tạo ra môi trường để Liêm Phủ tác hóa. Ở đây Hỏa Kình cũng không quá khắc kỵ với Liêm Phủ. Sao Thiên Phủ là sao chủ sự ổn trọng, khả năng cẩn trọng tốt, tuy nhiên Liêm Trinh tới đây thường lại kém suy xét mà ưa làm việc dựa vào nhiệt huyết, với sự bốc đồng của tuổi thiếu niên ở đại vận thứ hai thì Khoa Sinh cát hóa cách cục này khiến mệnh tạo chịu khổ về tinh thần nhưng sự quyết tâm tốt. Đại vận này thuộc Âm Dương Lương không đắc vị lại có Kình Hỏa thì chuyện tình cảm cả tình cảm gia đình và nam nữ rất khó tốt đẹp. Cách cục Âm Lương có Sinh trong cái họa tìm được cái may mắn. Thái Âm có Kình chủ sự phản kháng bên trong, là sự chống đối ngầm, do đó nội tâm gặp mâu thuẫn, khó có thể tạo định hướng tốt cho cách cục.



Ở đây sự hiểu biết được tăng cường, nếu Liêm Phủ theo tài cách thì ứng hợp cách Âm Lộc ngộ Trường Sinh khá tốt, đặc biệt có Hỏa dễ phát tài theo khuynh hướng chuyển động, tức nắm thời cơ may mắn, chù sự thay đổi do cách cục Âm Hỏa Lộc giao hội Kình Hao, đặc biệt là Kình Đại. Đại vận này sự thay đổi là quan trọng để định hướng cách cục, nếu Liêm Phủ hình thành cách cục tranh giành, ham muốn được bằng kẻ khác, đặc biệt ở đây mức độ của mong muốn thúc đẩy lực cát hóa của Kình Đại. Ở đại vận này sức khỏe không tốt đẹp, lại dễ gặp cách nhân ly tài tán, khắc kỵ với gia đình ảnh hưởng lớn tới cách cục tình cảm của Liêm Phủ. Do đã qua đại vận nên các cách cục đã thuộc quá khứ, một cách cục mâu thuẫn tình cảm, sự nóng nảy và bộc phát ảnh hưởng tới toàn diện bố cục mệnh tạo. Đại vận này là những sai lầm, hóa Khoa đã cứu giải cách cục tình cảm rất lớn, Thái Âm hóa thành Khoa sự âm thầm, im lặng có phần tốt hơn là chủ động, tranh cãi. Và cũng chính Thái Âm này, nơi cực hãm ngộ Kình Hỏa lại nhập Trường Sinh khiến năng lượng rất lớn, nếu trong quá khứ đã tạo những tai kiếp với con gái thì chắc chắn sẽ gặp phải tai họa sau này. Thái Âm ở trên lá số mọi vị trí đều ứng với tác động mệnh tạo.  Cách cục Âm Kình có Hỏa Sinh này khó chế hóa, do nơi phản cục nhập tại Tị cung rất tối, hỏa vượng thêm Hỏa Tinh khiến tính chất biến đổi mạnh, đặc biệt khi nhập đại vận tại bố cục Âm Dương Lương là trả nợ, ân tình hay oan khốc là Quang Quý.



Ở đại vận tiếp theo, nhập cung độ Tham Lang cư Ngọ ngộ Xương Tuế Triệt có Thất Sát có Lưỡng Long. Tham Lang là sao mạnh nhất của tham muốn. Nhập cung vận tới Tham Lang chủ sự tác động của các tham muốn, Tham Lang khi trong bố cục Sát Phá Tham hoàn chỉnh thì tính chất tác động mang ý niệm của tham vọng, cũng bố cục này không có cách cục tình cảm, hay ổn định nên thực chất thuộc cách cục hành động. Bố cục Sát Phá Tham là sự định hướng không ổn định, tức khi nhập đại vận này thực hiện các hành động có tính đột phá, tùy thuộc vào bố cục giao hội với các bàng tinh, nếu có Khốc Hình Kình Hỏa chủ tác động mang tính bộc phát. Trong bố cục này với Tham Lang trong cách Tham Xương ngộ Triệt là cách cục hạ quyết tâm. Ở đây Thái Thế trong nhóm Tuế Hổ Phù là quan niệm cho Tham Lang. Phá Quân nhập Tuyệt có Phi Hổ là cách cục không lợi cho phá bỏ, thay đổi. May ở cung độ Thất Sát được cách Tuần ngộ Lưỡng Long. Bố cục Lưỡng Long chủ danh, cũng chủ sự linh hoạt tác động biến đổi Thất Sát trở nên linh hoạt, khả năng nhìn nhận vấn đề, hành động tốt hơn. Với Tham Xương Triệt, ứng hợp với Liêm Phủ là ham muốn được hạnh phúc về tình cảm và lý tưởng được xây dựng, phát triển ở hành động của cung an Thân. Đại vận Tham Lang này không mấy tốt với mệnh Thiên Phủ, đặc biệt tại đây gặp Nhị Không thì Tử Phủ mang ý nghĩa sự thật, tìm nguồn gốc của bản thân, bản mệnh.



Cách cục này đại vận có duyên với những việc liên quan tới huyền học, về mệnh lý do cách cục này thuộc cách Không Vong ngộ Tử Phủ. Tuy nhiên nếu xét về thành tựu thì cách cục Tham Xương Triệt ở đây không gặp các bố cục mạnh nên khó có thể thành tựu lớn trong vận này, lại Phá Quân nhập Tuyệt lý tưởng khó thực hiện. Cách cục Tham Lang tại đây khi Sát Phá Tham không mạnh như Tử Phủ Vũ Tướng Liêm. Đại vận tại đây gặp nhiều khó khăn, dễ thất bại, tham vọng không đạt được do tính chất của Sát Phá Tham không được chế hóa. Tuy nhiên đại vận này không mang tai họa, tai kiếp tới mà ở đại vận là đại vận xấu. Đại vận Tham Lang từ 24 tới 33 có thể dụng trợ cách trước khi nhập vận Cự Đồng. Ở đây cung độ Tham Lang và đại vận Cự Đồng ở vận sau có tính Sát lớn do hội đủ cách cục Sát Kỵ. Tham Lang có điểm mạnh là định hướng. Ở đại vận sau gặp bố cục Đồng Cự Tam Không Đào Kiếp có Tam Ám Diêu Đà Kỵ ngay tại bản cung là trả nghiệp, Đồng Cự ấy chính là đứa trẻ, và tam ám và Đào Kiếp Hình ngộ Tam Không là tác họa của quá khứ tai kiếp do bản thân tạo ra. Số mệnh đôi khi đơn giản là hướng ta tạo tác nhân và đại vận sau nhận lại quả. May mắn mệnh cách chưa qua đại vận sau nên còn có thể cứu vãn. Đại vận Cự Đồng đại hung, vận này ắt nếu không có trợ cách thì khó có thể giữ được mạng huống gì luận tới tài quan.


Bố cục Cự Đồng này gắn với kiếp nạn, cũng ứng với bố cục ám cách, chủ tác động tai họa cả về bệnh tật lẫn tai nạn bất ngờ khiến vong mạng. Thực chất chỉ cần cách cục Cự Đồng ngộ Kiếp Đào Hình đã mang ý nghĩa rất xấu. Thiên Đồng là chung, Cự Môn là phản, cách cục này mang tính phản rất mạnh, người viết luận các cách cục Sát thì  đây là cách cục ít gặp do hội tụ đa phần Sát Kỵ. Một chữ Triệt tại đây không ngăn chặn mà chủ bị loại trừ triệt để. Sát tính cách cục này hoàn toàn không thể chế hóa, chỉ có thể dụng cách một phần để giảm họa, tuy nhiên dụng cách cũng rất mạnh, khiến đương số phải gặp khó khăn lớn. Cách cục này trọng điểm là bố cục mang ý nghĩa của Cự Đồng giao hội Diêu Đà Kỵ Triệt tại bản cung vận và cách cục VCD ngộ Kiếp Hình Đào có Thiên Sứ tại Ách. Cự Đồng là sự bất đồng, tính mâu thuẫn có sẵn trong nội cách, do đó đại vận sau nên thu bản thân về nội tâm, cách cục Diêu Đà Kỵ có thể giải bằng âm ám cách, tức theo con đường tâm linh hay huyền học. Diêu Đà Kỵ tại đây gặp Không Kiếp Hình với bố cục Tam Không là kiếp nạn, chính cách cục này rất khó chế hóa, đặc biệt khi có Linh Cơ ở đây là vận kiếp. Đại vận này ngay khi nhập vận sẽ mang lại tai ách lập tức. Tam Không là bất ngờ, không thể phòng tránh là ý nghĩa của cách cục này. Cũng không may tại đây Tam Không thành Vong tối kỵ với mệnh Tử Phủ.


 Đại vận này lại có Đào Hoa dẫn cách tạo tác. Đương số nên học cách buông bỏ, hướng tới chữ Không trong bản thể, tuy nhiên do tác động của Sát cách dẫn nên khó có thể khiến tâm biến chuyển. Tác họa của Sát là dẫn dắt, trọng tâm của Sát cách là Hóa Kỵ và Cự Đồng làm chính cách, phụ cách bổ sung ý nghĩa của cách cục. Mệnh là Thiên Phủ, Thân là Tử Vi thì nguy khốn khi tới vận này, do ý nghĩa của vận là biến hóa của mệnh cách. Chữ không tồn tại, hay bị Sát trong âm ám là ý nghĩa cách cục tổng thể khi phối hợp, tất nhiên cần thiết tiểu vận trùng phùng mới có thể tác họa lớn. Ở đại vận hiện tại tức vận Tham Lang, cần rõ trợ cách là Không cách để chuẩn bị tới đại vận sau. Ở ngay năm đầu khi nhập đại vận sau cần rõ ràng nhìn toàn diện cách cục và ý nghĩa của tổ hợp tác họa để tránh. Dụng Không cách là quan trọng từ ngay hiện tại, tạo nên sự khởi đầu tức Tử Vi để tới vận sau bố cục vận ứng cách, tránh ứng với cách cục xấu của Cự Đồng. Cự Môn là khởi sự, là sao chủ thị phi do tính chất tò mò, ưa tìm hiểu và bất mãn của sao này.


Cự Tam Ám là khẩu nghiệp, nhìn chung cách cục ở đây là mâu thuẫn, khác biệt về nhận định khiến đương số dễ phải chịu tai họa từ đây. Đại vận này cũng là họa do bản thân tạo ra, cách cục này chữ Không giải được họa một phần lớn. Chữ Không khiến Tam Không mất đi chữ Vong. Trợ cách cho bố cục Sát nhiều để hướng theo Tài Cách hay Quan Cách. Tuy nhiên với Sát cách trùng trùng một chữ Không tạo tác là việc tốt nhất để tránh họa, cũng ứng hợp khi Tử Phủ ngộ Tam Không là không khởi sự. Tuy nhiên như người viết đã luận ở phần trước, ở đây đương số phải giành thế chủ động thì dụng được Sát, nếu ở vị trí bị động thì họa ập tới. Chủ động tức từ bỏ các hành động mà Đào Cự gây ra, âm thầm theo dõi, không tác động mà chủ động tránh động. Đại vận này thực chất dụng cách cục khó tránh khỏi tổn thất, về danh và tài nên theo Tài Cách, nếu theo Quan Cách thì khó tránh họa. Một điểm cứu giải bố cục là sao Thiên Đồng. Ở đây Thiên Đồng có thể cát hóa một phần của Tam Ám do có Linh Tinh hình thành cách cục Đồng Linh Kỵ. có cách Tọa Khôi hướng Việt nếu làm chuyện phúc thiện thì cứu được nửa phần họa, nếu động tới Cự Môn thì họa lập tức tới. Cách cục này tâm linh rất lớn, nhập vận sẽ nhận ra. Đại vận sau nhập cung độ Vũ Tướng cư Thân ở cung Quan Lộc ngộ Tang Quyền Mã Khúc với cách Lưỡng Khúc đại vận này thích hợp với chuyển động, thay đổi. Lộc Tồn tại đây hợp cách, chủ đắc được thời cơ, phát triển ổn định, bền vững. Đại vận Dương Lương cư Dậu có Kình bản cung,  Kiếp Hình xung. Cách cục này khá tốt đẹp, do nhập Vượng nên Thái Dương trở nên tốt đẹp, Dương Lương ở đây may mắn, chủ sự thành tựu về danh. Cách cục này tốt đẹp tuy có phần khó khăn tới mệnh tạo do hoàn cảnh của cách Âm Dương Lương tại đây là chuỗi ngày cố găng, quyết tâm, các bố cục được cát hóa bởi Khoa Sinh tạo thành tựu lớn khi quyết tâm, ở đại vận cần lưu ý tới sức khỏe là quan trọng.

Thursday, January 4, 2018

Tết Dương lịch năm 2018




Sang năm 2018 trước đây đất nước ta thường chỉ quen với tết Âm Lịch truyền thống. Ngày nay xã hội mở cửa thông tin truyền đi khắp thế giới, lịch dương cũng trở thành lịch phổ biến để thống nhất với toàn thế giới. Tính dương lịch đơn giản là việc đếm ngày trong năm không phân biệt đầy đủ Can Chi như trong âm lịch. Thiên Can gồm 10 can phân làm năm dương, năm âm. Địa Chi gồm 12 địa chi lấy Âm Dương Ngũ Hành để phân biệt thành Lục Thập Hoa Giáp. Cổ nhân lấy âm lịch để luận thiên văn, địa lý, toán mệnh,.... Tứ trụ cũng được xác lập bởi bốn trụ Can Chi của Giờ, Ngày, Tháng, Năm sinh. Thực chất vạn vật đều thông linh, tức đều có linh tính. Dịch lý là lẽ biến hóa với vòng Trường Sinh, vạn vật biến đổi không ngừng nghỉ là lý của cổ nhân. Thường có những biện chứng cho rằng lý bất biến là có thực. Tuy nhiên tới hiện nay khoa học nhận ra bất kỳ mọi thứ đều biến đổi, ngay cả trời đất, vũ trụ cũng không vẹn toàn. Một khắc qua vạn vật đều thay đổi, trong bản thân mỗi người nhìn nhận xung quanh một cách khác nhau, mặc dù bản thể không đổi. Cũng do tính chất sai biệt đó từ tư tưởng nhận định, tham muốn khác nhau, tác động của hoàn cảnh bên ngoài khác nhau mà số phận khác nhau. Tử vi cổ nhân luận giáo dục, hoàn cảnh tác động tới nội cách, biến hóa và tạo nên kết quả.



Thành tựu chịu tác động của nội tâm và ngoại cách, nội sinh ngoại ứng. Mệnh cách có tư chất về kinh thương theo quan cách do tác động của gia đình thì khó thành tựu lớn. Đại vận nguy hiểm lục sát giao hội ưa làm nghề nghiệp nguy hiểm khó tránh mạng vong. Tuy nhiên người luận tử vi hay gặp việc cũng vận Sát Kỵ nhưng kẻ tạo nên thành tựu vĩ đại trong khó khăn bế tắc, kẻ phải chịu cách cục mạng vong, kẻ lại bình yên vô sự là do sự ứng hợp của khí hình. Khí hình luôn biến đổi, lá số tử vi cũng không vững chắc, rõ ràng như an trên tờ giấy mà liên tục biến hóa theo gốc khí hình mà sinh ra kết quả. Việc này khác biến hóa theo đại vận hóa hợp của các sao trên lá số. Biến hóa của lá số tức ngay bản thân đương số gặp các hoàn cảnh khác nhau các Chính Tinh hay tổ hợp ứng khác nhau. Thí như mệnh Cự Kỵ Hình Tồn mệnh cách gặp ắt là kẻ hay nói vạ miệng, hay chê bai người khác, bất mãn, bất cẩn ngôn. Bố cục này rất đặc trưng với Cự Môn. Trong một số trường hợp đây là xấu, nhưng trong ứng hợp với hoàn cảnh khác là bố cục tốt. Cách cục Cự Kỵ Hình Tồn rất khó để chế hóa, nhưng trong nội cách ở đây hàm chứa một tính chất rất quan trọng của mệnh quý. Đó là khả năng hiểu biết sâu về chuyên môn, lĩnh vực hiểu biết. Giải thích dễ hiểu cũng do bất mãn nên Cự Môn luôn tìm cách đào sâu giải thích các vấn đề, sinh ra các vấn đề khác, tức tính chất khai sáng của Cự Môn.



Ngoài thực tế, ta làm việc, bất mãn và tìm ra hướng giải quyết mới. Cự Môn là sao khai sáng tốt, do đó Cự Kình Hao là cách cục hay. Ở đây Cự Kỵ là cản trở, một đứa trẻ trên vùng núi hẻo lánh an phận với cuộc sống của chúng. Tuy nhiên nếu có Cự Kỵ Tồn thì các bất mãn về cuộc sống, trình độ giáo dục, văn minh khiến bản thân tự phải tìm ra lối đi cho cuộc sống. Khí hình đã thay đổi. Chính bố cục Sát Kỵ mang tính Sát là họa nhưng cũng là phúc vì khiến khí hình thay đổi rất mạnh. Vì vậy, khi luận tử vi ta thường gặp người luận bàn về cách cục Cự Kỵ Hình Tồn là xấu. Việc luận mệnh cách như vậy là cảm tính, không có căn bản về khí hóa ứng mệnh. Sát Kỵ căn bản quan trọng tính chủ khách, thực chất là tính chủ động hay bị động gây ra. Cự Kỵ bị động là bản thân gây ra họa bất cẩn ngôn, khi chủ động là kẻ có miệng lưỡi đa xảo. Bị ghét hay được ghét bỏ cũng là tính chất khác biệt của khả năng chế hóa. Người viết cố gắng trong mỗi bài viết đưa ra các thí dụ để người muốn nghiên cứu có thể hiểu rõ về tử vi đông a tránh việc hiểu lý bất hiểu biến hóa. Lá số tử vi cũng như một loạt các phối hợp các sao với nhau, tổ hợp tính chất khó luận. Điều quan trọng nhất là khí hình của bản mệnh qua các tổ hợp trọng điểm. Thí như một cách cục Diêu Đà Kỵ trên mỗi lá số giao hội với câc bố cục khác nhau là luận phối hợp tổ hợp cách. Luận Diêu Đà Kỵ trên cùng một lá số hai người sinh trùng giờ, nhưng rõ ràng tính chất khác nhau tạo kết quả ứng hợp khác nhau là luận khí hình tổ hợp sao. Có thể một kẻ gặp họa với Diêu Đà Kỵ, phải vong mạng. Nhưng kẻ kia hoạch phát trước vận này. Tính chất cơ bản không đổi, ý nghĩa ứng hợp thay đổi.



Tết dương lịch 2018 tức năm Mậu Tuất chúc các học trò sắp kết thúc năm nay có thể tự xem tiểu vận hoàn chỉnh cho bản thân, tự luận dự đoán cuộc đời chi tiết, chiêm nghiệm khí hình trợ cách khi dụng cách cục là tinh hoa của tử vi đông a, có thể biến chữ học tập thành tự nghiên cứu, tự tạo cho bản thân một triết lý khi luận tử vi hay trong huyền học mệnh lý. Không còn ai phải nhờ người viết xem lá số tử vi vì bản thân tự xem lá số của mình sẽ hay hơn để người khác luận. Tết dương lịch xem pháo hoa các quốc gia khác nhau,  các thời điểm khác nhau liên tưởng tới giờ sinh của mỗi lá số. Thời buổi công nghệ hiện đại nếu sinh giờ khe đương số lấy giờ Chính Ngọ ở địa phương thời điểm khi sinh để luận phân các canh giờ. Nếu không việc khán hạn quá khứ là cần thiết trước khi xem lá số tử vi. Người nghiên cứu tử vi hay học tử vi quan trọng nhất là việc lấy đúng lá số tử vi của bản thân, kế đến mới luận giải lá số.