Sunday, January 21, 2018

Vấn đề luận nam mệnh VCD nội Cự Nhật



1. Ổn định sẽ giúp chế hóa cách cục nặng ở THÂN/PHÚC như là Hình Kỵ Linh Hỏa: theo tôi hiểu, Kỵ sẽ làm bộc lộ những khiếm khuyết của các sao, nên nếu hành động nóng lạnh (Hỏa Linh) thất thường sẽ phát sinh tai họa. Như vậy nếu không có Hỏa Linh, chỉ có Hình hoặc chỉ có Hình/Kỵ thì cách chế hóa có còn là Ổn Định hay không? Nếu không, lời khuyên của Tử Vi Luận Giải ở đây là gì? (Qua kiến thức trên trang luantuvi, chế hóa Hóa Kỵ có thể là sự kín đáo, quyền biến, đa nghi, cẩn thận, tính toán rủi ro ..., nhưng chế hóa Hình thì tôi không thấy nói nhiều, chỉ là Riêu gặp không tinh thì hết mờ ám và Hình sẽ là hình mẫu. Điều này có áp dụng với mệnh số của tôi không?  Mệnh cách có Riêu ngộ Thiên Không tại bản cung)

Ở đây mệnh cách VCD có nội là Cự Nhật, ngoại cách Đồng Âm do đó cung độ an Thân cùng là cung Thiên Di ứng hợp quan trọng khi luận cách, do đó đương số cũng sẽ rất quan tâm tới cung độ này vì tính quan trọng. Nội cách Cự Nhật Kiếp Phi tính động lớn do giao hội với nhóm Thanh Phi Phục. Ở đây mệnh cách có Binh Hổ là bố cục có thể hóa được Kiếp Kỵ với nội Kiếp ngoại Kỵ. Cung an Thân tính động lớn, do cách cục Đồng Âm ngộ Linh Hình Kỵ giao hội Mã Khốc Tuyệt Tồn Không. Quan trọng nhóm sao an theo Thiên Can là Tồn Ấn Bệnh kỵ ngộ bố cục Tuyệt Kiếp Mã là bế tắc, tồn tại khó khăn, cũng là cách phù động. Tuy nhiên lại hình thành bố cục Lộc Mã giao trì, ở đây nếu dụng ổn định cẩn trọng, tránh phù hợp nhập vận tránh được họa không ngờ đến. Cách cục Cơ Lương Hỏa Linh Hình Kỵ Không Kiếp Tuyệt giao hội với Mã nên càng động thì dễ gặp họa, Cơ Lương là thời cơ,cũng chủ đầu cơ mạo hiểm,mệnh cách tính ổn định tức không nên ưa việc vận dụng cơ hội ngắn để thành tựu nhanh chóng. Với bố cục tổ hợp không thể luận tách riêng rẽ, xét toàn bộ phối hợp chế hóa của từng nhóm giao hội, phân định ra ý nghĩa của toàn tổ hợp. Ở đây bố cục không phải Không Diêu mà là Hình Kỵ Hỏa Linh Tuyệt giao hội Cơ Nguyệt Đồng Lương và Không Kiếp tác động, nhóm sao theo Địa Chi là Phượng Khốc Mã và Thiên Can là Tồn Ấn Bệnh, Khoa có tính cứu trợ, ổn định cách cục. Cách Khoa Ấn nếu không có tại đây thì họa rất nặng nề, có thể vong mạng. Với Phượng thì hai mặt, ở đây thiên về cát hung tương bán, do Phượng Khốc là tổ hợp của nhóm sao này. 

2. Mã Hình Tuyệt Linh Hỏa có tính sát rất nặng. Nhưng cũng vẫn câu hỏi trên, nếu chỉ xét riêng Mà Tuyệt  (hỏng việc, khó khăn ...) thì chế hóa nên là gì?

Không thể xét riêng bố cục một hai sao mà cần xét toàn tổ hợp phối hợp với Chính Tinh, đầy đủ nhóm sao an theo Địa Chi và Thiên Can, tính tác hóa của Sát Kỵ, khả năng chế hóa của Trợ tinh với bố cục, phối hợp như vậy luận cần có thực lý, việc cơ bản hay gặp khi luận tử vi là lắp ráp các sao, luận tách riêng nên không rõ tính chất, đôi khi nhìn cách Kiếp Kỵ trên lá số luận mệnh xấu, yểu tử. Cách cục này cần sự cẩn trọng, giảm động, ổn định cách trước cơ hội ngắn, cẩn trọng không nên suy tính quá nhiều ảnh hưởng tới đầu óc. 

3. Ngoài các sát tinh tại THÂN (Di) PHÚC PHỐI, cũng còn Ấn, Khoa, Tướng (Binh Hình Tướng Ấn đứng từ góc độ của Di). Có vẻ như các sao này cũng có một số tác dụng chế hóa (Ấn Hình), Khoa Kỵ/Linh. Nghiệm lý của tôi trong đại vận 23 - 32 là mặc dù bị phá sản nặng nề năm Mậu Dần 1998, nhưng năm 2000 (Canh Thìn) được đinh cư ở nước ngoài theo cách rât rất đặc biệt, và may mắn này đã khởi phát cách này từ năm  trước 1999 (Kỷ Mão) (Tôi được định cư dưới dạng người có kỹ năng đặc biệt; tại thời điểm đó, tôi là người Việt đầu tiên thành công trong chuyện này, đây cũng là bước ngoặt trong cuộc đời).

Vậy tôi có thể vận dụng các sao trên (Ấn, Khoa, Tướng)  được không ? và như thế nào? 

Đây có bố cục Sát đã được hóa cục sau khi tác họa, đương số tăng cường khí hình, thích nghi và bắt đầu dụng Sát cách. Do đó cổ nhân thường luận đại họa không chết thì phát hồng phúc tức phúc lớn. Hay câu nói khi bản thân chuẩn bị thất bại với khó khăn không thể vượt qua thì đây cũng là lúc cơ hội thành công rực rỡ nhất. Bố cục Sát có đặc tính khi bị chế hóa một phần, nếu cách cục khí hình vượng sẽ thành tựu trong khó khăn. Đúng khi luận bố cục này được dụng do cách Binh Hình Tướng Ấn, tuy hình thành cách Tướng Binh Tử Tuyệt ngộ Khoa Phượng. Ở đây luận theo Tướng Binh Tử Tuyệt do gốc đại vận là Tuyệt Mã Khốc. Chữ Khoa ở đây cứu giải mạnh, cách Lương Khoa thường không gặp đường tuyệt do Thiên Lương khí hóa rất lớn, lại có Khoa  và Hình Ấn trong cái ẩn tàng Sát gặp chữ Quý cứu giải. Tuy nhiên đương số vẫn rất vất vả vì chữ Tuyệt tại đây, sẽ giảm dần theo thời gian của vận khi trợ tinh bắt đầu tăng sức cát hóa. Dụng cách Binh Ấn Khoa là sự kỷ luật của Thiên Hình, cách cục này mang ý nghĩa nghiêm khắc với bản thân trước khi đưa ra quyết định khi gặp cơ hội trước mắt. 


1. Vì tôi tuổi Canh nên Khôi Việt sẽ là Mùi Sửu (Khôi tại Phụ Mẫu), nhưng nhiều chương trình an sao an Khôi tại Mệnh của tôi (Tại Ngọ).  Về thực tế nghiệm lý như sau:

Tôi là cháu đích tôn (Con trai cả, và tất nhiên bố tôi cung là con trai cả). Cũng là người học hành khá chỉnh chu, làm việc khoa học. Cũng là thủ khoa ở trường Đại học lớn ở nước ngoài. Hay có khuynh hướng/hoặc thích khác biệt. Điều này 'có vẻ' ứng với KHÔI tại mệnh (nhưng cũng có thể giải thích bằng CỰ nội cách và KHOA ngoại cách).

Ơ cung Phụ Mẫu, bố tôi là con cả, hiền lành một cách đặc biệt, cả cuộc đời nhường anh em (vật chất và tinh thần). Theo tôi hiểu, tính chất này có thể ứng với Đà Khôi (tại phụ Mẫu). Năm 2015, tiểu vận cung Sửu mua nhà, tôi tự luận là do Việt Vũ phát sinh tài sản.

Nếu có thể xin thầy cho một vài nhận xét để xác định hoặc tiếp tục nghiệm lý về vị trí Khôi Việt đối với tuổi Canh của minh.

Thiên Việt đi cùng nhóm sao Vũ Tham là cách phát triển tham muốn, ở đây toàn bố cục là tinh hệ Tử Vi và Phá Quân xung đột với cách Kình Việt Đại Quyền. Bố cục này chủ sự xung đột và phát triển định hướng. Do cách cục này được kích hoạt bởi Việt và thay đổi bởi cặp Kình Đại, động cách do xung đột giữa hai nhóm sao lớn nên tiểu vận nhập tới hạn Hợi Mão Mùi đều xuất hiện những thứ mới, thay đổi mới, quan trọng nhất là khó khăn mới. Nếu không có Việt tại đây thì cách cục Kình Đại biến đổi không mạng, cũng không phát sinh cái mới, xung đột mới. Nếu ở mệnh cách có bố cục Khôi Việt hình thành cách Cự Nhật Tuế Thanh Khôi Việt là bố cục đứng đầu rất mạnh, cách cục này phát danh lớn, và Việt là phát sinh đi với Cự Nhật khi nhập tới tiểu vận năm Thân bất cứ đại vận nào sẽ xuất hiện khuynh hướng tạo mới, khai tạo, khởi sự. Nhóm Khôi Việt mang tính chất tăng cường tính chất cho nhóm sao, bản thân cũng mang ý nghĩa sự quý hiếm. Ở đây người viết có đăng tải bài viết về Khôi Việt an theo Dịch Lý. Lưu ý Khôi Việt đi với nhóm Cự Nhật rất mạnh về tính khởi tạo. Khôi Việt đi với nhóm Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham là cách phát sinh xóa bỏ, thay đổi hay xây dựng, ở đây là cách Việt Kình Đại. 

2. Đối với tôi vì cuộc sống có khá nhiều gian truân, bôn ba vất vả, tình cảm riêng cũng vậy, nên rất quan tâm đến việc chủ động chế hóa sát tinh (chắc là do dương cách chủ đạo như thầy đã nói). Đây thực sự là điểm vô cùng thú vị của trang Luantuvi. 
Vì sang năm có Lưu Đà, Lưu Kỵ, và Hình tại Tiểu vận, nên tôi muốn hỏi chủ động cách chế hóa của Riêu Đà Kỵ (nếu chỉ xét riêng) có thể là gì? Đọc bài gần đây nhất của Luantuvi có nói, việc nghiên cứu huyền học, lý số có thể là một cách cho Riêu Đà Kỵ. Với thực tế xã hội hiện nay liệu có thể có các cách chế hóa Riêu Đà Kỵ khác nữa không?

Cách chế hóa của Tam Ám là tính chất ngầm, Diêu Đà Kỵ mang tính chất ám, lại mang tính cản trở, thị phi hình khắc. Thực chất ở đây là giao hội của nhóm Đà Hao an theo Thiên Can, tính chất hiển hiện ở bản tính với Hình Diêu và Hóa Kỵ. Trong đó khi luận Tam Ám mạnh ở bố cục Hình Kỵ Đà chủ sự thay đổi và bị ngăn chặn, bế tắc. Tính âm ám tức sự cản trở rất mạnh, cũng cần xét các bố cục Đà Kỵ đồng cung khác, Diêu Kỵ đồng cung khác, việc có một sao xung chiếu và củng chiếu khác. Trường hợp đúng cách xét riêng bố cục này là sự khắc phạt và cản trở, không mang dương tính mà mang âm tính, sự nhẫn nhịn, nhẫn nhục của Đà La. Ở đây nếu mệnh dương tính thì dụng bằng cách chủ động trong dụng tính ám. Như việc một kẻ quyền lực trong bóng tối, danh tiếng khiến nhiều người kính nể khi nhắc tới là một cách chế hóa mạnh của Tam Ám. Cách hay là Kỵ Khốc Đà giao hội Quyền và trợ tinh, bố cục mang tính chủ động. 

3. Các ý kiến luận về tam hợp rất hay. Tôi cũng hơi băn khoăn về mức độ ảnh hưởng của nhị hợp. Với cung nhị hợp của mình có Đà Khôi,  ảnh hưởng sao này tới mệnh cách thế nào?
Một câu hỏi thêm có tính chất hiếu kỳ, nếu Đà Khôi Hình đi với Thiên Lương liệu có thể nói là hợp với nghề như kiến trúc xây dựng (Đà)  hình ảnh (Hình và Lương) đẹp (Khôi) được không (nếu chỉ xet riêng 4 sao này thôi)?  

Với bố cục của nhị hợp là tác động liên quan như người bên cạnh. Bản thân và môi trường là quan trọng, cung nhị hợp có giá trị khi cách cục thuộc trọng điểm và đại vận qua cung độ này. Bằng không nếu xét tiểu đại vận tới mệnh thân là đủ khó khăn để luận, nhị hợp không cần chú trọng lớn trừ các trường hợp mạnh như Ám Lộc,...

4. Thêm một điểm nữa là: Lưu Tuần cho từ 2014 đến 2023 sẽ ở Thìn Tỵ, cũng rơi vào cung tiểu hạn sang năm của tôi. Ảnh hưởng của Lưu Tuần trên thực tế nghiệm lý có mạnh không? và được hiểu thế nào khi đọc tiểu hạn/đại hạn?


Lưu Tuần trên thực tế không đủ sức tác động tới các bố cục Chính Tinh và Trợ Tinh trừ Tử Vi và Thiên Phủ, với hai sao này cũng không quá nặng nề. Qua nghiệm lý và luận đoán không dùng nhiều tới bố cục Lưu Tuần Triệt ở lưu đại vận. Có thể hiểu như Tử Vi ngộ Lưu Tuần là thiếu tính tự chủ, quyết đoán trong một thời gian. Nếu Tử Vi gặp Tuần cố định là tính cố hữu, bản thân thường bị che lấp, làm bình phong cho kẻ khác trục lợi, mất đi thực quyền lại phải chịu nhiều trách nhiệm. Tử Vi kỵ Triệt Tuần do nhiều lý do. Khi xét Lưu cung cần xem tiểu vận các bố cục trọng điểm có mạnh hay không, các sao tăng tính quan trọng, quan trọng nhất là Lưu Kỵ, Lưu Lộc Tồn. Nếu phân các lưu thì phân theo các nhóm sao luận phân bố vào cung độ tiểu vận, đại vận và mệnh thân cố định. 

0 comments: