Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Friday, December 22, 2017

Khởi nghiệp tuổi 50 và cuộc sống


Bài viết luận cách chuyên sâu về mệnh lý và bố cục tử vi. Thời nay có khác biệt khi xét các bố cục mệnh cách tùy thời, từ thời chiến, thời bình hay theo quá trình tiến bộ của xã hội, các bố cục của Tử Vi tính chất cơ bản vẫn không thay đổi, tuy nhiên cách cục mệnh thành tựu đã có phần biến đổi tạo thành một số bố cục rất mạnh, mang ý nghĩa đầy đủ của cách cục thượng cách. Sao Tử Vi tức đế tinh đắc cách đầy đủ nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm đứng đầu, bố cục mạnh tính ổn định, quan trọng là cách cục này mang ý nghĩa lãnh đạo, người đứng đầu, sáng lập, các trợ tinh như Khôi Việt Tả Hữu Xương Khúc và Tam Hóa trợ lực cho bố cục vẫn mang đầy đủ tính chất tốt đẹp. Khi luận giải tử vi, một điểm thay đổi rõ ràng ở xã hội là khi quyền của con người bình đẳng hơn, tự do lập nghiệp với hướng đi kinh thương theo Tài Cách và Quan Cách cùng với tính chất mạnh về quyền của tiền, sản do xã hội sản xuất ra rất nhiều vật chất hưởng thụ, giao thương với toàn bộ thế giới, các ham muốn là động lực của quyền, theo thứ tự Lộc Quyền Khoa Kỵ, có sai biệt với giai đoạn lịch sử phát triển của tử vi đa phần nằm trong chế độ phong kiến, quân chủ. Hiện tại xét tới hoàn cảnh bên ngoài là xã hội tư bản hay xã hội chủ nghĩa khác biệt hoàn toàn với chế độ quân chủ, cùng với phát triển của máy móc và trao đổi thông tin khiến các cách cục Sát trở nên rất mạnh, thực chất quá khứ mệnh cách dụng được Sát là mệnh quý nhưng khó khăn hơn.



Việc bệnh tật gây ra do Sát Kỵ Hình tác họa đã được cứu do thành tựu y học, rất nhiều lá số mệnh xấu không phải vong mạng vì cách cục bệnh tật, từ đó mệnh cách có cơ hội phát triển với cách cục Sát Tinh thủ mệnh cách. Như dễ thấy nếu gặp trường hợp Vũ Sát Hình Kỵ Đà Linh nếu thời trước luận yểu cách, chỉ cách Kỵ Hình Thất Sát tương phùng, thiếu niên yểu chiết như dòng Nhan Uyên. Hiện nay việc thương tích nặng, hay bệnh tật dụng tới Sát Kỵ Hình tức dao kéo như mổ ruột thừa, mổ khối u đã được thực hiện, thậm chí Sát cách còn tác hóa tới mức độ ghép thay các tạng của người. Bố cục Sát không còn chỉ là võ cách hay mang tính tác họa, hay hoạch phát tức thời, trong khi phần nhiều thời trước Sát Kỵ chủ mang họa do chế độ luật pháp thời trước không rõ ràng, được đặt ra bởi các triều đại lấy chữ trung nghĩa làm đầu, những mệnh cách chịu tác động rất nặng của khí hình gốc, sinh ra mệnh nô bộc, nô lệ khó có thể cát hóa trở nên tốt đẹp dù cách cục tốt, trừ việc xuất hiện các biệt cách lớn. Trong khi đó hiện tại vào thời kỳ xã hội bây giờ tuy vẫn còn một số bất công nhưng đã bình đẳng hơn đủ để đa số người, từ nghèo hay mệnh cách bình thường có thể tiến thân, hoạch phát khi bố cục Sát được hóa. Ngược lại, trong khi đó mệnh cách ổn định nhưng khí hình thấp, thường có khuynh hướng hưởng thụ, ổn định gia đình, tình cảm và ưa yên ổn nên khó thành tựu lớn mạnh khi động lực bất mãn, năng lượng của trợ tinh khó có thể so sánh với Lục Sát, các câu phú tiền nhân đều luận với các cách cục Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp đắc cách phát dã như lôi. Ở đây chữ đắc cách ngắn nhưng khó luận, chịu tác động của các bố cục tử vi và khí hình với trợ cách của mệnh tạo.


Cũng do vậy, khí hình thay đổi rất mạnh do tính tiếp thu của mệnh tạo, những kinh nghiệm và những chia sẻ của người tỉ phú hay danh nhân xuất hiện chia sẻ rất nhiều trên mạng, dẫn tới cơ hội thành tựu từ tay trắng, tức phát phú cách tự lập xuất hiện nhiều do tài cách tạo ra, cũng do bố cục Sát được hóa thành sự cương quyết, nỗ lực. Tử vi phân rõ thành tựu cách. Mệnh cách có sao Tử Vi tọa thủ đắc cách được trợ tinh cát hóa theo khuynh hướng ổn định vẫn tốt đẹp hoặc Sát Tinh được chế thì tốt do toàn bộ cách cục này có Phủ Tướng chủ sử dụng tình cảm để tạo nên trợ giúp, phò tá. Vũ Khúc có tính chất thay đổi cho phù hợp nên khi đại vận trung niên vẫn đạt thành tựu lớn về tài danh. Còn lại các bố cục cần thiết mệnh linh hoạt, chế Sát được lệnh mới có thể thành tựu lớn. Trong đó nghiệm lý tác hóa của Hóa Kỵ, Không Kiếp và Kình Đà Hỏa Linh rất quan trọng để xét nội lực. Hóa Kỵ là hóa khí chủ nỗi sợ, cũng chủ sự cản trở tuy nhiên uy lực rất lớn. Cách cục đắc cách hình thành bố cục quyết tâm vượt qua sợ hãi, cản trở để thực hiện kế hoạch. Cũng như vậy nếu đã nghiệm lý có thể thấy Hóa Kỵ là cách cục cần thiết để văn cách thành tựu, chủ sự học hỏi, không ngừng nhìn vào thất bại và đứng dậy. Cách duy nhất thoát khỏi đói nghèo là giáo dục, do đó mệnh tốt là mệnh giỏi việc tiếp thu và học hỏi. Các thông tin về những nhà tỷ phú trên thế giới như Mã Vân hay Lý Gia Thành thế hệ trước được phổ biến trên internet nhưng không mấy người sử dụng cái gọi là giáo dục, học hỏi từ những lời khuyên của họ một cách kỹ càng mà đa phần tìm kiếm thông tin giải trí và mạng xã hội.



Như hiện nay cũng là cách cục Tham Hỏa Kỵ ngộ Tam Không, không cần thiết ngộ Tam Hóa hay Khôi Việt Xương Khúc là bố cục rất mạnh, cách cục này mang ý nghĩa tham vọng lớn dần do đố kỵ, cạnh tranh. Đặc biệt có Hỏa trợ lực cho Tham Lang nên tính chất tăng cường khí hình rất mạnh. Tính chất cơ bản vẫn không thay đổi, mang ý nghĩa là tham vọng lớn mang tính khác biệt và bản thân luôn mang nhiệt huyết với tham vọng vậy. Nếu gặp Thiên Hình cũng hoạch phát một thời. Mỗi người sinh đa bình thường đều có một cơ hội lớn một thời. Tuy nhiên có kẻ biết sử dụng, có kẻ khi được thành công nhỏ lại ưa hưởng thụ hoặc dừng lại không thay đổi nên dẫn tới cuộc đời bình thường. Người viết luận một lá số gần đây mệnh cách có VCD nội cách Cự Nhật tốt đẹp ngộ Xương Bật Khoa Quyền Lộc và Đà Đại, ngoại cách là Đồng Lương cư Dần ngộ Trường Sinh có Việt hình thành cách Đồng Việt. Bố cục này rất mạnh, nếu luận theo tử vi cơ bản là thượng cách tuy nhiên đương số khí hình thấp nên có cách Đào Hồng tại mệnh không thể chế hóa được mà mang tính ổn định. May mắn là mệnh cách trẻ tuổi có thể thay đổi trợ cách theo khuynh hướng Quan Cách không theo Đào Hoa Cách thì lá số thuộc quý cách. Tuy nhiên mệnh không có Sát Kỵ thì khó bắt kịp hay hoạch phát lớn, thuộc cách cục ổn định và có danh tiếng tốt.



Cũng một lá số nam mệnh có một cuộc sống ổn định nhưng mong muốn được khởi nghiệp kinh thương lúc tuổi 50 vì sự ham muốn rất đáng trân trọng. Cũng như câu chuyện về ông chủ KFC rất hay trên báo. Khi luận tử vi nên lưu ý rõ khí hình biến đổi mạnh nhất là do chính bản thân đương số, phàm mọi sự việc nếu nắm giữ không buông thả, liên tục đổi mới thì phát triển không ngừng mà hoạch phát. Việc thoái trào cũng như vậy, nếu không có cuộc đổi mới với khẩu hiệu "Đổi mới hay là chết" 30 năm trước khi lớn như một quốc gia như nước ta cũng sụp đổ. Cũng như vậy, qua thông tin trên internet sự phát triển luôn đi liền với khó khăn, vượt qua và tạo bước vọt mạnh hơn. Sự thoái trào cũng như vậy, như từ Đế Vượng và Suy rồi Tuyệt. Vòng Trường Sinh luôn thăng trầm tạo cơ hội cho mỗi người. Thỉnh thoảng ta lại nghe một đế chế bị phá sản do cạnh tranh, xung đột, không kịp thích ứng. Phàm mọi vật trên thế giới đều tuân theo quy luật Sinh Diệt không ngoại trừ. Trái đất rồi đến lúc cũng phải diệt, mỗi người đều phải chết. Các triều đại lớn như Ba Tư, La Mã, Mông Cổ, và Anh với Nhật Bản gần đây là Trung Quốc và Mỹ. Với Mỹ đã suy giảm so với trước đó mặc dù cố gắng thay đổi và liên tục mở rộng. Trung Quốc đang vươn lên. Vật tới hồi phải kết, lâu đời như các ngôi sao cũng tới lúc tự hủy diệt, luôn dời đổi là bản chất cũng được đúc kết bởi sự chuyển dịch trong tử vi, mô tả của Vòng Trường Sinh cũng là sự chuyển dịch. Thực chất là sự thành lập tên riêng và thay đổi. Một quốc gia được thành lập là Xô Viết, tới khi sụp đổ, tên đổi nhưng người vẫn vậy, đều là sự gắn tên phát khởi tức Thai, khai sinh cũng là Thai. Tới thời kết thúc là Tuyệt nhưng thực chất luôn có sự thay đổi và khi biến đổi toàn phần là Tuyệt và khởi đầu là Thai.



Đây là gốc của vòng duyên khởi trong tử vi. Bản chất của thành tựu là sự khởi tạo, khởi đầu được định cách bởi Tử Vi và hai sao Cự Môn và Phá Quân sẽ có tác động thay đổi, do đó Tử Vi mang tính ổn định. Một cái đồng hồ sau khi hoàn chỉnh là tạo vật hoàn thành, là Thai tức khởi tạo hoàn thành. Tháo từng bộ phận hay sau thời gian dần tan rã là chuyển dịch, không mất vẫn là đồng hồ, cuối cùng khi gần biến đổi  hay hoàn toàn biến mất là tan rã, tức Tuyệt. Thực chất đồng hồ tính theo thời gian rất nhỏ, thí như mỗi giây luôn thay đổi, thành lập các Thai và Tuyệt tức sự vật mới liên tục, tới khi Tuyệt hoàn toàn biến mất. Lý của dịch Phương Đông có phần mang tính thực tiễn và gắn với nhận thức nhiều hơn. Bản chất của lý số cũng như vậy, mệnh cách khi chồng chất tác động bởi các ý niệm thì thực chất không thể Tuyệt, người xưa sử dụng các môn huyền học toán mệnh mà ra các tư tưởng đang tồn tại thì chết cũng là hình thức thay đổi tiếp theo của tâm khi biến hóa mạnh thời gian dài, nhập về Không tạm thời , dòng tư tưởng sẽ tái lập tức Thai, không phải dạng biến mất như đồng hồ. Đơn giản ở đồng hồ là sự ly tán, tức các vật chất bị bào mòn ra bên ngoài phân thành các mảnh nhỏ như vi trần từng giây, qua thời gian biến hóa phân chia ra thì chiếc đồng hồ không mất mà biến hóa ra bên ngoài, các vật chất được phân ra lại tiếp tục tương tác. Cách hiểu của mệnh cách tư tưởng cũng như vậy, khi bản thân ta chết thì cung an Thân diệt, ảnh hưởng tác động Mệnh Thân, tuy nhiên tư tưởng bản tính là Mệnh không biến mất, không tan rã một cách bất ngờ mà biến hóa về Không cách tạm thời, có thể dụng nạp và phát khởi ở giai đoạn Thai đi với vật chất. Mệnh lý của phương Đông đã tới mức rất uyên thâm, không chỉ Tử Vi, Tử Bình hay Bát Tự, Mai Hoa, Dịch Lý mà ở Thiền Định, Y Lý không thua kém khoa học phương Tây về sự nghiên cứu, luôn lấy nghiệm chứng làm gốc không phải thứ mê tín dị đoan, hoang đường, vô căn cứ. Cũng như tử vi thứ lưu truyền bên ngoài đa phần là cách luận thiếu căn cứ, an nhiều sao gây rối loạn khó có thể kiểm chứng với một loạt sao mới có tác động cứu giải như Tài Thọ, Quan Phúc, Thiên Trù, Thiên Không,... Tính chất của các sao cũ sai lệch nên khó tự kiểm nghiệm. Đa phần người ngoài hay đã xem tử vi man thư nhận định đây là bói toán mê tín. Do đó một lá số khởi nghiệp 50 hay trẻ tuổi không nên sợ hãi và cũng không có lý do để sợ hãi dù ở bất kỳ địa vị nào, ước mơ lớn hoặc nhỏ, khởi tạo sự việc qua tư tưởng. Ở tư tưởng là mệnh cách suy nghĩ, luôn cần Thân để hoạt động, tức biến suy nghĩ khởi tạo thành hoat động thì theo vòng Trường Sinh không cái này được thì cái khác được. Quan trọng là có thể khởi tạo tức Tử Vi để Cự Môn và Phá Quân gây mâu thuẫn để phát triển nhảy vọt hay không. Và có những luật không được phạm do xã hội đặt ra, như buôn lậu hay các việc phạm pháp khác. Tử Vi chịu tác ứng bởi hoàn cảnh, do đó rất nhiều những thứ có thể khởi tạo. Như một câu nói nổi tiếng người viết có đọc trên mạng là " Thế giới luôn có sẵn các hạt giống cơ hội".

Saturday, December 16, 2017

Lá số tử vi bình thường và biệt cách


Khi xét tất cả các lá số tử vi, mệnh cách đúng tứ trụ gồm giờ ngày tháng năm sinh luôn nhìn ra các đặc điểm khái quát tổng quan của lá số, tuy nhiên xét chi tiết hoàn toàn sai lầm với các biệt cách khác nhau. Mệnh cách là tư chất, bố cục tổ hợp Mệnh cách khi xét chung là toàn bộ sự giao hội của các bố cục Chính Tinh với Bàng Tinh tạo nên tính cách ban đầu, tính cách bản thể sâu trong tiềm thức. Mệnh có Cự Môn là sao rất dễ nhận ra do sao này chủ sự bất mãn, là sao mạnh luôn chống Lục Hội với Tử Vi nên tính chất hiển hiện rõ ràng. Mệnh cách có Cự Môn xấu đặc biệt là Cự Kỵ thuộc cách vạ miệng với tất cả các lá số mệnh Cự. Đây là tính cách bản tính, ứng hợp với bên ngoài họa từ miệng vào, khẩu ngôn khó giữ, tuy nhiên khi nghiệm lý nhiều các lá số mệnh Cự Kỵ xuất hiện các cách chế hóa khác nhau, biến hóa muôn dạng do sự tác động phát triển của xã hội, hoàn cảnh. Một Cự Kỵ từ vu vạ, oan khuất thời nay một số mệnh cách lại mang giá trị như tiền bạc, phát phú cách khi nhờ sự thị phi mà mang lại sự nổi tiếng, nhờ tài nằn lớn do luôn tự mâu thuẫn của Cự Môn, khi Cự Môn trong thời bình đẳng, pháp quyền hiện nay thì Cự Môn không gặp phản cách, tức bất trung mà ý nghĩa có phần tốt đẹp hơn thời phong kiến rất nhiều. Đặc biệt nhiều mệnh Cự Kỵ được Lộc Tồn hình thành bố cục rất xấu là Cự Tồn và Cự Kỵ với câu phú.
" Cự phùng Tồn tú, cát xứ tàng hung".
" Cự Môn tối hiềm Hóa Kỵ, Mệnh Thân Hạn kỵ tương phùng".
Hai cách cục trên xấu nhưng thời nay với tài cách gặp bố cục trên nếu gia hội vài cách cục tốt thì luận mang ý nghĩa hay. Thực chất do Cự Môn tính chất chủ điền sản, tuy nhiên là sao chủ thị phi, với cách cục thời trước chủ kiện tụng, cửa quan nên mang ý nghĩa xấu. Hiện nay do Cự Kỵ Tồn là bố cục mang tính dương mạnh, chủ sự đố kỵ, lại mang thị phi, luôn bất mãn nếu mệnh cách khí hình vượng như Cự Kỵ Khốc Hình cư Thìn Tuất mà A Man xuất thế.




Cách cục Cự Kỵ Tồn là sự không ngừng tiến lên, nếu giao hội văn tinh là cách cục tốt, nếu thêm Thiên Hình phá cách chủ sự vi phạm pháp luật. Có cách chính do khả năng tầm quan trọng vận số mệnh cách. Mệnh cách mạnh được dụng khi khí hình của mệnh tạo thấp, nếu xấu thì cửu lưu, sống lợi ích, làm việc bất hậu quả, vi phạm pháp luật, như các trường hợp cướp của giết người, trộm cắp là bố cục Sát hóa Tuyệt cách. Nếu khí hình thấp cần thiết mệnh cách chế hóa được Sát Kỵ. Nếu mệnh cách ổn định, bố cục tốt đẹp giao hội cát hóa khó có thể đạt được thành tựu lớn. Trường hợp khí hình vượng có thể tự vượng chế hóa nhiều cách cục xấu. Như mệnh cách Cự Môn được giáo dục khuynh hướng nghiên cứu khoa học truyền thống của gia đình thì cách cục Cự Kỵ Kình Hình hợp cách. Nếu gia đình kinh thương và định hướng đương số theo khuynh hướng này tuy gặp nhiều bế tắc nhưng vẫn có thể thành tựu. Với Cự Kỵ Hình Kình nếu theo khuynh hướng chính trị tới vận xấu ắt đổ vỡ, phá cách nặng nề. Mệnh cách vận hành luôn lấy phần cách cục lá số làm thể, ứng hợp thực tế làm dụng. Tuy nhiên có thể tác động lẫn nhau, cùng là cách cục Cự Kỵ nhưng kẻ thiên tài, kẻ tâm thần. Quan trọng là hướng đi của mệnh cách khi chuyển động. Như giáo sư Ngô Bảo Châu mệnh Cự Môn khuynh hướng nghiên cứu khoa học rất tốt đẹp, khí hình cực vượng do bản thân xuất phát từ giáo dục gia đình và dòng họ nghiên cứu khoa học, tuy nhiên khi mệnh cách lên tiếng về một số vấn đề chính trị lập tức cách cục ứng hợp ý nghĩa, chịu họa của bố cục Cự phùng Tồn tú cách, thuộc cách cục bất cẩn ngôn mà tự mang thị phi cho bản thân.



Luận tử vi trường hợp do bố cục khí hình mạnh cát hóa toàn bộ lá số, thí như kẻ sinh ra làm hoàng tử bất luận cũng xét mệnh phú quý, tuy nhiên tử vi trong man thư thường không xét rõ, ưa đưa ra cách cục phản vi kì cách nhưng sai lầm, xét tổ hợp rối ren, xen nhiều tầng lớp rất khó luận, đặc biệt trường hợp ngoại lệ đa phần đều sáng tạo ra các bố cục mới như Thất Sát ngộ Kỵ Hình có Linh Kình là phản vi kỳ cách. Do hoàn cảnh giáo dục, môi trường, phụ mẫu, bản thể mệnh cách luôn ứng hợp ý nghĩa bố cục. Các tác động thực chất tới mức Nguyệt Hạn hay Nhật Hạn tức tới tháng và ngày, lá số tử vi luôn biến đổi và chuyển động. Xét về tổng quan thì một lá số luôn là sự phân bố của Chính Tinh và Bàng Tinh, mỗi người đều gặp phải những mặt khó khân riêng rẽ, ngay cả vua chúa luôn trong tâm trạng lo lắng giữ vững địa vị, dẹp phản loạn. Kẻ có tiền thì luôn lo lắng giữ, kẻ ít mong nhiều, thăng trầm liên tục. Hay gặp kẻ giàu nhưng đau buồn về tình cảm. Hay gặp nhất là bố cục bị áp lực, ép buộc, phải trở thành người này kẻ nọ hay gặp trong tầng lớp đứng đầu. Không được chọn lựa bản thân, là công cụ chính trị khi hôn phối, ngay thời phong kiến gặp rất nhiều việc giao hữu các quốc gia. Tùy vào quan niệm cách nhìn để xét mệnh tốt hay xấu. Có người nhìn mệnh cách Cơ Nguyệt Đồng Lương đắc cách, ý nghĩa bất phạ tai ương, cuộc sống êm đềm, ít phấn đấu lớn yên ổn tới khi nhắm mắt. Có kẻ tâm niệm một lý tưởng xây dựng, tham vọng thay đổi xã hội, vượt qua khó khăn tới trung niên thành tựu địa vị lớn. Có kẻ ưa việc giàu có, có nhiều tiền là mệnh tốt.


 Biệt cách trong tử vi là phần luận mệnh cách ứng khí hình để xét bố cục, các điểm chế hóa của lá số. Một mệnh cách khí hình vượng nhìn nội lực bởi tính chất ứng hợp bên ngoài khi đại tiểu vận trùng phùng Tứ Sát Kỵ Hình Không Kiếp giao hội các cách xấu khác. Như tính Sát rất vượng tuy nhiên mệnh cách không gặp tai họa lớn mà hướng đi chế hóa hoàn toàn bố cục này ứng trợ cách rất mạnh,là ứng mệnh biệt cách. Cũng mệnh biệt cách với khí hình suy tức mệnh tạo gặp tai họa nặng nề với các bố cục Sát Kỵ bình thường, hay biến hóa tính chất tốt đẹp của cách như Khôi Việt Tả Hữu Xương Khúc thành cách cục ổn định, trợ cách bất đối ứng nên cần thiết thay đổi khuynh hướng tăng cường khí hình đương số. Trợ cách gắn liền với khí vận của quốc gia, của xã hội hay địa lý sinh sống. Tới thời vận kim tiền tài cách nắm lệnh có thể sinh Quyền hơn Quan Cách, khi Quan Cách trở nên phức tạp như trường hợp thắt chặt vi phạm thì như luận mệnh Cự Kỵ Khốc Hình là tù tội cách. Đắc thời là quan trọng trong tử vi. Cự Môn đắc lệnh với khí vận của xã hội thì điền sản mang ý nghĩa phú cách. Như trường hợp đất đai nhà cửa tăng giá rất mạnh sau những đầu năm 2000 trở đi, nhiều mệnh Cự Môn trở thành đại phú, do Cự Môn chủ điền sản, các nghề nghiệp liên quan như buôn bán, xây dựng, thuê kinh thương khiến Cự Môn rất mạnh. Như giáo sư Ngô Bảo Châu nhận giải thưởng do mệnh Cự Môn Lộc Tồn ứng với điền cách được tặng ngôi nhà không phải là thứ khác. Nhiều bố cục tử vi có thể trợ cách, theo khuynh hướng tốt đẹp trên tính chất của mệnh cách, chỉ trừ trường hợp tuyệt khí thì khó, như việc cơ thể ta bất thường mắc bệnh ung thư tới cái chết khó phòng tránh.

Sunday, December 10, 2017

Luận nữ mệnh cách Cự Cơ hóa Kỵ

Nữ mệnh thuộc ngũ hành Hỏa, mệnh cách gặp bố cục Cự Môn giao hội với Cơ Đồng hình thành cách cục Cự Cơ Đồng, bất hoàn chỉnh cách cục Cự Nhật do đó bố cục này cần giao hội cách cục tốt đẹp hoàn chỉnh ý nghĩa. Với cách Cự Cơ Đồng thì bố cục Cự Cơ cư Mão Dậu được đánh giá hay nhất của cách cục này do sự giao hội giữa Cự Môn và Thiên Cơ tạo thành các ý nghĩa khá tốt đẹp. Ở đây Thiên Cơ và Thiên Đồng là hai sao chủ hiền hòa, bố cục này mang tính chất ổn định, ít gặp sóng gió do tính chất bằng lòng, và sự ham muốn về hưởng thụ tinh thần của bố cục. Tuy nhiên khi giao hội với Cự Môn thì sao Cự Môn đinh chủ thị phi tác động lớn tới bố cục của mệnh cách. Cự Môn là sao tài năng của nhóm Cự Nhật, do đó nhóm sao này chỉ gồm hai sao hoàn chỉnh tác động mạnh như ba nhóm sao lớn còn lại. Cự Môn hỉ đồng độ với Thiên Cơ do sao Cự Môn chủ thị phi tuy nhiên là một trong ba sao đứng đầu, có khả năng khai sáng dẫn đầu do khả năng, tiềm năng của bản thân. Do đó mệnh cách có sao Cự Môn tọa thủ tuy biến hóa khác biệt nhưng vẫn có nét khác thường, đặc biệt là cách cục Cự Môn giao hội với các bàng tinh tăng tính chất quan trọng. Cự Cơ là sự giao hội của Cự Môn và Thiên Cơ có tính chất phối hợp khá tốt đẹp.


Sao Thiên Cơ chủ sự lễ phép, cũng chủ hỏi, nghi vấn, từ đó Thiên Cơ là khôi sao chủ bí mật, chủ thời cơ do đặc tính cơ bản tạo thành. Thiên Cơ chủ hiền, chủ lợi ích riêng, nhóm riêng khi phối hợp với Cự Môn. Do đó cách cục Cự Cơ có phần chế hóa thành hữu dụng nột số tính chất của Cự Môn thành tốt đẹp. Cự Cơ thủ mệnh cách cục này chủ biến đổi, thay đổi khi gặp thời cơ, lợi ích trước mặt. Cũng chủ nghiên cứu sâu về học thuật, hay khám phá nghiên cứu. Cự Môn hay chê bai khi luôn cảm thấy bất mãn, bất công và Thiên Cơ chủ sự suy nghĩ, câu hỏi tác động liên tục lẫn nhau nên mệnh cách có khả năng tốt về nghiên cứu chuyên sâu. Mệnh cách chọn khuynh hướng của Cự Môn và Thiên Cơ với các hướng đi khác nhau mang lại cuộc đời khác nhau. Mệnh cách khuynh hướng Cự Môn thường có khả năng đặc biệt khi tập trung chú ý sâu vào sự việc sẽ nhận ra được những khuyết thiếu hay đặc điểm chỉnh do luôn tự đặt câu hỏi và mâu thuẫn với bản thân. Do đó Cự Môn trở thành văn tinh, nếu giao hội với các sao Khoa, Khôi Việt, Xương Khúc hoàn toàn có thể theo khuynh hướng nghiên cứu học thuật. Cự Cơ ở đây gặp Khoa Quyền Kỵ, đặc biệt cách cục Khoa Kỵ Triệt Đại Tuế tại bản cung khiến mệnh tạo có khả năng sử dụng miệng lưỡi, tức khả năng ngôn luận tốt hơn người khác.


Tuế Hổ Phù ở đây là cách bày tỏ quan điểm của bản thân tới bên ngoài, và do có được Phượng Khốc là một điều may mắn khiến mệnh cách trở nên tạo được sự chú ý của bên ngoài cũng vì cái miệng của bản thân, ở đây thuộc cách cục nổi danh do hình thành bộ Kình Đại Việt Quyền Khốc. Nổi danh đi liền với thị phi là đặc điểm đặc trưng của bố cục này. Cách cục này cũng mang lại chữ to lớn, khả năng thành tựu cao khi Cự Môn có Kình Dương, đặc biệt là Kình Đại thì ưa khởi tạo, làm chủ, bản thân có thể giành thế chủ động. Trong khi cung an THÂN với Đà La thì nhiều khi hay nghe lời một cách mù quáng, không suy nghĩ cẩn trọng. Cách cục Cự Cơ ngộ Kình Đại tức hoàn toàn đắc cách Song Hao là bố cục hoạch phát tài danh, nữ mệnh có bố cục này cũng luận hay do cách Cự Cơ hợp với cả nam lẫn nữ. Ở đây bố cục xấu là cách Cự Kỵ Kình Hình Việt chữ thái quá là thích hợp cho tổ hợp này. Đương số dễ thực hiện một cách thiếu kỷ luật mà theo khuynh hướng tự do, cách cục này dẫn tới vượt quá thời gian, chữ thái quá này như việc cố gắng làm một việc, hay quá giờ, hoặc quá sức. Tuy nhiên cách cục này lại mang khuyết điểm của Âm Dương cư Sửu  ở cung an Thân và Cự Cơ tại đây thuộc cách cục khá trễ nải, lười biếng, thường việc sắp đến thời hạn mới thực hiện, khả năng sắp xếp kế hoạch, thực hiện theo khuynh hướng ổn định trước kém.



Như cách cục này tương tự việc trễ giờ làm, đến muộn do bản thân thường sai lầm khi đánh giá các công việc. Tuy nhiên cách cục Thế Hổ Phù tại đây tạo ra đường lối nên chế hóa một phần của tính chất do bố cục mệnh thân tạo nên. Bản cùn Mệnh có Thiên Khốc, cách cục Mã ngộ Tam Thai khi bản thân tính dương lớn, nữ mệnh ưa xông pha, cũng ưa chủ động, tính chất tò mò, khám phá. Ở đây mệnh cách có Thiên Cơ giảm tính dương, tuy nhiên không đủ và khiến mệnh tạo gặp bệnh tật về phổi. Cách cục này mang ý nghĩa táo bạo, ưa đứng đầu và chỉ đạo, cũng giỏi việc cạnh tranh, tranh giành lợi thế cho bản thân do đó nếu theo Tài Cách là hợp mệnh. Cự Cơ hiểu biết tốt do đó nhìn ra các cơ hội. Ở đây cách Cự Cơ Kỵ Việt Quyền chủ tìm ra hướng đi khác lạ, cũng ưa việc này nên thường đạt được mục tiêu nhanh hơn, tuy nhiên mệnh cách lại ưa danh hão, chủ cố gắng cầm chừng, được một không lấn tới hai mà có phần do dự, tự mãn nên ảnh hưởng lớn tới cách cục phát của Cự Cơ. Mệnh cách có Cự Cơ với cung an Thân tại cách Âm Dương Lương thường trong họa không lường sẽ gặp phát may do Cự Cơ chế hóa được một phần tính bất ngờ của Không Kiếp, tuy nhiên cung an Thân tại vị trí Vô Chính Diệu thì không mấy hay ảnh hưởng lớn tới sức khỏe do gặp Cự Kỵ xung, nội cách có Đà ngộ Tang Hư Mã Khách là bố cục sức khỏe không ổn định.


Thân gặp Khôi Vượng Hư thì sức khỏe tuổi trẻ cũng ổn định, tuổi già gặp nhiều vấn đề, tuy nhiên một Lương ngộ Trường Sinh thì trong cái nguy hiểm sẽ được cứu không tới mức gặp bệnh nan y. Nữ mệnh có Cự Cơ ngộ Triệt Kỵ Khoa Đồng Quyền thì nội tâm dễ xúc động, cũng có tính cách thương người do ảnh hưởng của Thiên Đồng, tuy nhiên nếu xét trên lợi ích thì xét bản thân trước mới tới người khác, do đó dễ gặp sự ghen ghét, mệnh cách cũng mang tính chủ động giỏi cạnh tranh càng tăng mức độ xung đột. Mệnh cách dụng Quyền do Thiên Đồng hóa để chế hóa Kình Hình, cách cục Kình Kỵ Hình rất dễ bị người khác ghét bỏ, khi chế hóa thành thì biến hóa tính chất trở thành uy tín, danh tiếng khiến kẻ khác nể phục, với bố cục Cự Cơ dương tính hoàn toàn có thể chế hóa được cách cục này, tuy nhiên nữ mệnh không luận trước tùy khuynh hướng của đương số đặt vấn đề gia đình hay vấn đề sự nghiệp lên trên. Cự Kỵ Khốc Hình có Quyền là bố cục nổi tiếng của Tào Tháo thuộc cách cục. " A Man xuất thế do hữu Cự Kỵ Khốc Hình Thìn Tuất". Ở cung độ Thìn Tuất âm hiểm nên tạo nên tính cách của Tào Tháo. Mệnh cách tại đây ưa việc khoa trương, do hóa Khoa được chế mà thành, đây là cách cục khá hay khi thành thương nghiệp cách do hình thành bố cục tài năng được thổi phồng khi nhập vận phát, chủ phát danh hơn tài cách.



Mệnh cách nữ mệnh tuổi Đinh không thích hợp với Cự Cơ mão dậu ở phần tình duyên và phẩm chất ở thời xưa do cách cục này chứa nhiều thị phi của Cự Môn và cung phu thê luôn gặp cách cục Âm Dương Lương bị Đà Hao xâm phạm, đặc biệt vị trí cung Phu Thê là Âm Dương cư Sửu Mùi luôn gặp phải bộ sao kỵ gặp là Kình Đà. Đường tình duyên ắt gặp trắc trở với nữ mệnh là đúng với cách cục này. Nữ mệnh có Cự Cơ thì hợp hơn các sao khác do Thiên Cơ gặp nữ cách hợp với tính cách. Sao Thiên Cơ chủ suy nghĩ khi gặp Kỵ Hình Kình thường suy nghĩ thái quá, hay lo âu, đây là ngôi sao của cơ hội. Cách cục này tốt ở phần điền sản, mệnh cách có bộ sao này luôn không lo lắng về vấn đề nhà đất, hợp với ngành nghề liên quan tới điền sản, chủ sự luân chuyển, buôn bán tạo ra lợi ích. Nhìn chung mệnh cách nữ với Cự Cơ cư Mão bố cục khá tốt, ngộ Song Hao và Khoa Quyền Việt Phượng tuy nhiên kiến Kình Kỵ Triệt Hình không được chế hóa nên có khuyết điểm lớn, cuộc đời thăng trầm, bất ổn định, dựa vào đại vận để thành tựu. Một chữ Kình Phượng Việt thì khởi đầu, khởi tạo dù gặp nhiều khó khăn nếu nắm bắt thời cơ sớm muộn sẽ thành tựu vì đây là cách được ngưỡng mộ.

Sunday, November 26, 2017

Bệnh tật nan y chuyện đời và tử vi



Sự phòng vệ của cơ thể : http://m.vietnamnet.vn/vn/khoa-hoc/can-canh-te-bao-bach-cau-chien-dau-voi-ung-thu-238286.html
Bệnh ung thư gây ra tai họa đa phần mang tính bất ngờ cho chính bản thân người mắc phải. Tử vi luận mệnh cách bệnh nan y xét cách cục bệnh ung thư rất hay xuất hiện ở một số bố cục trong tử vi. Khoa học nghiên cứu với bệnh tật dựa vào thực lý bằng những thiết bị hiện đại cảm quan được. Trong khi đó thì y học phương Đông sử dụng các cách thực lý thuyết của Ngũ Hành sinh khắc chế hóa và Âm Dương cũng tạo nên hệ thống y lý có cơ sở mà khoa học cũng đã công nhận. Có thể nhìn thấy việc nhiều bệnh tật chữa bằng các bài thuốc cây cỏ chỉ dựa vào các nguyên lý trên đã chữa rất nhiều bệnh tật, có tác dụng nhiều trường hợp hiệu quả hơn sử dụng trong thuốc tây y, nếu về chữa mang tính cấp cứu ở các phần bên trong thì thường thấy tây y chữa trị rất tốt. Ở mệnh lý việc xét bệnh tật hay tật ách của người do tà khí xâm nhập, ở đây tà khí tức những thứ gây độc, mang tính chất ngưng trệ, cản trở xâm nhập qua các đường vào như bệnh từ miệng vào, từ việc hấp thụ hít thở hay ăn uống, hoặc cách sống không hợp lý gây ứ tắc, ngưng trệ khí huyết, hoặc các khiếm khuyết bẩm sinh. Thân thể luôn tự có khả năng phòng vệ, gọi là vệ khí nêu rõ do khí huyết lưu thông thì trăm bệnh tự khắc tan, tất nhiên là còn phải xét mức độ của bệnh tật. Các bộ phận không cần tới máu huyết thì không tác động ảnh hưởng tới cơ thể, hệ thống khí huyết tức máu và khí dẫn, luôn tuần hoàn khắp để kịp thời sửa sai và tác động phòng vệ. Các bệnh ngay cả bệnh nan y cũng do các bộ phận  bệnh tật gây ra và máu huyết không đáp ứng được việc tự phục hồi, trong máu chứa hệ thống đề kháng. Các nhà khoa học phương Tây sử dụng kính hiển vi trong đoạn băng trên cho thấy việc các thành phần trong máu, bạch cầu có thể tiêu diệt cả các mầm bệnh nặng như ung thư khi xâm nhập, hay bệnh nan y khác như HIV do bộ phận Bạch Cầu bị tác động khiến khả năng phòng vệ không còn. Đội quân có tính Sát vượng này tồn tại với đúng ý nghĩa cần thiết, chính khí, không tác họa như tính Sát xâm lấn như Đà La xấu của các vi trùng, hay tự làm phản Cự Môn của tế bào chính bản thân với Tử Vi.


Ở đây bệnh ung thư nguy hiểm vì mầm bệnh rất tinh vi, tế bào tự tạo phản đa phần bị chết do sự phát hiện của hệ thống phòng vệ, tuy nhiên một số có thể vượt qua thì khả năng tác họa rất lớn. Cơ thể cũng chính là thu nhỏ của xã hội, nếu tạo phản thành thì trong gắn liền chữ loạn, tức chiến tranh. Trong cơ thể mỗi người bình thường đều tự thực hiện mệnh lệnh ẩn chứa ý niệm sâu xa là ham muốn sống, cũng ý niệm ấy chính là sao Tử Vi. Cơ thể cũng luôn cố phòng vệ, kháng lại các sự xâm nhập hay tác họa ngay trong bản tính chính là Tử Vi cư Mệnh, chữ mệnh ở đây hàm chứa tính vô thức, như mệnh Cự Môn thì ta không để ý, trong vô thức phản xạ cũng gặp chuyện hớ hênh khi ăn nói, đặc biệt là Cự Môn ngộ Lộc Tồn. Còn ở cung an THÂN là cái ta có thể điều khiển, nhận thức, điều chỉnh. Điều này người viết đã viết nhiều, rất đơn giản nhưng nhiều khi những người nghiên cứu tử vi lý thuyết sách vở lại giải thích rất khó khăn, lý thuyết kinh dịch vào đây như việc viết sách các từ chuyên môn thuật ngữ với giải thích dân dã. Cũng như vậy với Tử Vi cũng là sao nằm sâu kín trong cơ thể, Tử Vũ Liêm chính là hệ thống phòng vệ của cơ thể. Cũng nhận định rất rõ không phải tính Sát là xấu, tức Sát tinh đôi khi cũng chính là hệ thống phòng thủ của bản thân, với Đà La tốt ở cung an Thân thì mọi bệnh tật cũng không thể xâm phạm, đặc biệt là Đà La ngộ Trường Sinh gia cát. Ngoài cuộc sống cũng vậy, các bất công phân ra chiến tranh, từ lớn tới nhỏ, phân ra các phe và chính tà. Nhiều bệnh nếu người đã nghiên cứu tử vi nhiều lá số ắt cũng rõ rằng trên lá số có thể nhìn ra bệnh tật. Tất nhiên là tùy mệnh mà biến hóa khác nhau, cũng từng thời gian ứng hợp mà khác nhau, tất nhiên cái nhìn ở đây cũng nên chỉ mang tính tham khảo, nếu không lại khép tử vi vào mê tín dị đoan gây hại cho xã hội. Như nhìn thấy Cơ Kỵ Hình Việt, trọng tâm là Kỵ Hình thì sớm muộn cũng gặp bệnh dị ứng da nặng, cũng nổi dị ứng với thực phẩm lạ, hay bụi bẩn. Hoặc cách Thiên Cơ ngộ Khốc Kỵ Kiếp đặc biệt đồng cung ắt bệnh về phổi. Nhìn Hóa Kỵ và Không Kiếp sẽ ra một phần khuyết điểm trên cơ thể. Do đó để gặp bệnh tật thì ngũ hành ắt gặp thiên lệch tính chế hóa tương sinh khắc và Âm Dương thiên lệch.


Trong tử vi, sao chủ phòng vệ là sao Liêm Trinh. Mệnh cách có sao này thủ mệnh nếu phá cách thì hệ thống phòng vệ, dò xét gặp vấn đề, dễ gặp các bệnh liên quan tới khối u, hay ung thư. Thứ đến là các cách cục Sát không được chế dễ gặp cách nhầm lẫn, sai sót, Sát quá vượng dễ gặp họa. Các chứng viêm, đặc biệt bệnh về máu trắng do bạch cầu tấn công quá mạnh không kiểm soát dẫn tới phá hủy các hồng cầu. Ở đây tính kiểm soát rất quan trọng để xét cách cục tật ách. Sao Liêm Trinh cũng là sao chủ kiểm soát, cai trị nên khi xấu là Tù Tinh. Mệnh cách có Liêm Trinh ngộ Hồng Loan chủ máu hay Liêm Trinh gặp Bạch Hổ là xương, màu trắng nếu phá cách thường mắc bệnh nan y khó chữa. Các bố cục thiên lệch do Sát Kỵ Hình tác động rất dễ gây bệnh tật nặng nề khi đại tiểu hạn trùng phùng. Thời nay thì y khoa đã xâm nhập để chữa trị các bệnh rất sâu trong cơ thể như não bộ hay mức độ thấp hơn, kích thước rất nhỏ tế bào mà y lý phương Đông không thể tác động tới, tức các chứng thuộc dạng nan chứng. Do đó nếu bị bệnh nên kết hợp cả hai phần Đông Y và Tây Y vì mỗi bên đều có khiếm khuyết là điều mà nhiều người nhận định với người viết. Hiện nay sự nguy hiểm do chiến tranh lớn tạm lắng, cũng ít tai họa nặng nề hàng loạt do nguyên nhân thiên tai, hỏa hoạn hay tai nạn. Sát Tinh lại tác họa bằng bệnh tật với số lượng người chết với các tính chất nặng nề về tật bệnh càng lớn. Từ kẻ giàu có nhất tới người nghèo nhất đều không trừ, ngay cả vua chúa thời cổ đại với thần dược thảo quý hiếm cũng không thoát khỏi nhiều kẻ yểu mệnh. Các loại thuốc cũng vậy hợp từng căn cơ, như việc sinh lão bệnh tử là chuyện hiển hiện. Mệnh quý hiển không hẳn đã thọ, mệnh nghèo hèn nhưng nhiều kẻ lại được chữ này. Một cách mệnh hay được chữ thọ là Thiên Lương ở mệnh hoặc thân nếu gặp Trường Sinh thì khó lâm vào cảnh khốn cùng, tuyệt khí do sức cát hóa của Lương Sinh dù hãm chính là ý nghĩa của tuyệt xứ phùng sinh hay luận với Mã Sinh ở Hợi.

Wednesday, November 15, 2017

Phá Quân bí cấp luận chế hóa cách




Bài viết này luận có phần khác với các cách giao hội cơ bản với bàng tinh của Phá Quân, nếu nghiên cứu tử vi ở mức sơ khai chỉ nên tham khảo ở phần kiến thức cơ bản của các tinh hệ Phá Quân tránh luận sai lầm với một số trường hợp đặc biệt của Phá Quân thủ mệnh khi luận giao hội tính chất biến hóa bất định và mức khí hình của đương số khác nhau chịu ảnh hưởng tính cách xã hội nơi sinh sống. Ở câu phú thường được luận " Lộc phùng xung Phá cát xứ tàng hung". Trong đa phần các trường hợp mệnh tạo khi luận thì cách cục Phá Quân ngộ Lộc Tồn là cách cục mang ý nghĩa xấu vì sự xung đột tính chất của chính tinh Phá Quân và sao Lộc Tồn  đứng vị trí quan trọng của nhóm sao an theo Thiên Can. Tuy nhiên nếu người nghiên cứu tử vi nghiệm lý một thời gian dài với các lá số mệnh Phá Quân ngộ Lộc Tồn sẽ gặp các trường hợp đặc biệt biến hóa với mức độ khí hình ban đầu thấp, tức mệnh tạo thuở nhỏ trợ lực ở về kiến thức lẫn tài sản từ phụ mẫu để lại không lớn, một số trường hợp bôn ba vất vả kiếm sống qua ngày. Tuy nhiên theo vận chuyển động thì mệnh cách có sự tăng cường mức khí hình rất vượng, tham vọng và tầm nhìn trở nên lớn khi tiếp xúc với thành phần địa vị cao trong xã hội hoặc một trường hợp đặc biệt của Phá Quân do chính nội tâm của bản thân tạo ra cách cục này. Với bố cục được tạo ra thì chế hóa được gần như tất cả các cách cục xấu Sát Kỵ Hình giao hội của Sát Tinh.


Phá Quân khi đắc cách là vượt qua thay đổi hoàn toàn, phá vỡ các chuẩn mực với lẽ thông thường, đi tới việc nắm giữ, trụ vững và khám phá sâu cơ hội trong khó khăn lớn. Một số kẻ gây dựng từ tay trắng có cách cục này đều xuất hiện ngã rẽ lớn khi trưởng thành nếu ban đầu Phá Quân có khuynh hướng phá phách, chơi bời, đánh nhau hóa thành văn cách có trợ cách. Trước khi biến đổi Phá Quân việc Tham Lang cần thay đổi tầm nhìn, tham vọng cho nhóm Sát Phá Tham. Cách cục Phá Quân ngộ Lộc Tồn là tạo ra sự mâu thuẫn nội tại của bản thân, một bên cố gắng phá bỏ những khuyết điểm, một bên cố gắng giữ lại, ổn định dẫn tới trong một vài trường hợp, thường có mặt có Hỏa Linh, đặc biệt là Hỏa Tinh nhập cung độ Sinh Vượng tính cát hóa càng lớn. Tức Tham Lang đồng độ với Hỏa Tinh đắc vòng Trường Sinh thì Phá Quân ngộ Lộc Tồn trở thành cách cục tốt đẹp. Một trường hợp khác là Tham Lang ngộ Văn Xương cũng được luận ở cách cục này. Cách cục Phá Quân ngộ Lộc Tồn mang tính mâu thuẫn, nếu gặp thêm Hóa Kỵ tăng cường khuyết điểm. Cách cục này chịu tác động rất lớn từ vận kích phát, đặc biệt với bố cục Tham Hỏa hay Tham Xương khả năng định hướng bố cục theo khuynh hướng tài cách rất mạnh, do đó cổ nhân thường luận Hỏa Tham tương ngộ là bạo phát cách.



Đây xét với Hỏa Tham cách chính yếu chưa biến hóa, nếu giao hội với bàng tinh khiến tính chất thay đổi mang ý nghĩa khác. Phá Quân là sao của thay đổi, tính động nặng do vậy chủ sự thành bại thất thường, nếu gặp Lộc Tồn thành hai khuynh hướng. Thứ nhất biến hóa theo chiều hướng luôn giữ vững, nắm vững mục tiêu khi đặt ra từ Tham Lang, chủ động hướng về phía trước. Cách cục còn lại biến đổi theo chiều hướng thất thường, cần thay đổi lại phần ôm giữ không chịu thay đổi, dẫn tới cách phá sản, thất vọng. Phá Quân thủ mệnh, đặc biệt bố cục Sát Phá Tham giao hội với Tử Vũ Liêm hoặc các cách cục khi Cự Môn giao hội với Cơ Đồng, Âm Lương giao hội với Thái Dương đều cần thiết đắc vòng Trường Sinh là cách tiến khí, phát triển trong khó khăn, mâu thuẫn. Với Phá Quân gặp Lộc Tồn, đặc biệt là Tồn Không Kiếp hay Tồn Kỵ rất cần đắc Sinh Vượng để cát hóa cách cục. Nhược bằng không gặp bố cục trên tránh Hỏa Linh Hư Khốc giao hội, hay Đào Hồng Không Kiếp đều là cách cục xấu. Phá Quân ngộ Tam Không tức Tuần, Triệt, Thiên Không cũng thuộc cách đặc biệt của sao này. Phá Quân nếu trong nhóm Sát Phá Tham hoàn chỉnh rất ưa gặp Tam Không, đặc biệt là cách Tam Không   giao hội với các sao tăng tính chuyển động như Kình Hao, Đà Hao. Với Phá Quân gặp Tồn Kỵ, nếu mệnh cách thuộc Phá Quân chủ nắm giữ, vững với tham muốn của Tham Lang và lý tưởng của sao này thì hoàn toàn khiến Tồn Kỵ thành trợ cách đặc biệt.



Về biểu hiện của cách cục đương số luôn gặp mâu thuẫn với các việc làm, Phá Quân ưa phá bỏ thay đổi tuy nhiên lại xuất hiện bất mãn mới theo chiều hướng phát triển, với Hóa Kỵ ở đây chủ sự cạnh tranh, ghen tị khiến mệnh cách luôn cố gắng hết tham vọng này tới tham vọng lớn hơn, nếu có Tham Hỏa Kỵ ngộ Tam Không tính chất này rất mạnh. Tham Lang thuộc cách Tham Hỏa trợ lực cho Phá Quân phân thành nhiều bố cục đắc cách. Trường hợp này gặp các sao tăng tính quan trọng rất tốt, tuy nhiên kỵ các cách cục ổn định như gặp Khoa Xương Khúc luận xấu do động lực của tham muốn không mang tính liên tục do mâu thuẫn. Nếu Phá Quân ngộ Tồn Kỵ Hỏa có Sinh Vượng ngộ Tam Hóa là cách cục thượng cách, ứng với tài cách rất lớn, mệnh tạo có phẩm chất giữ vững mục tiêu, vượt qua khó khăn, giỏi thay đổi cho phù hợp mà thành tựu. Khi luận giải lá số cần nhận rõ tất cả các bố cục giao hội của mệnh, trợ lực của cung an Thân tới mệnh. Các đại vận đặc biệt đại vận thứ hai khiến bố cục Mệnh cách thay đổi. Nếu Phá Quân ban đầu ngộ các trường hợp kỵ như Lộc Tồn, Kiếp Kỵ,...cơ bản, nếu có trợ lực từ các bố cục khác luận là cách cục được đắc thời. Do vậy, khác với luận thông thường việc xét các trường hợp kỵ của Phá Quân hay các Chính Tinh khác phối hợp để luận kết cục. Ứng với câu phú " Sát tinh đắc địa phát dã như lôi". Đa phần các bố cục này đều xuất phât từ khó khăn, có đặc điểm đặc biệt mà tạo nên kỳ tích. Vòng vận hành đi tối quan trọng với Phá Quân dạng này.

Tuesday, November 14, 2017

Lá số mệnh Thiên Tướng bạo phát phú cách




Người viết nhận được nghiệm lý về vận bạo phát của lá số khá hay tới trang nhà với mệnh tạo của Thiên Tướng. Nam mệnh sinh ngày 10 tháng 12 năm 1993 giờ Tí. Mệnh cách có Thiên Tướng đồng độ tại vị trí cung Sửu có cách Phủ Tướng đơn thủ thuộc tinh hệ Tử Phá cư Mùi. Mệnh Thiên Tướng ở đây có cung an Thân đồng độ nên Mệnh và Thân luận hợp nhất. Ở đây cách cục mâu thuẫn giữa Tử Vũ Liêm và Sát Phá Tham không mấy hay, chủ cuộc sống vất vả, khó khăn khi nhập cung đại vận này. Mệnh cách có Thiên Tướng ngộ Thanh Phi Phục, với Thanh Long đồng cung Mệnh. Tam hợp với nhóm địa chi chỉ gặp Đào Hoa, không có Trợ Tinh khác, tuy nhiên cũng không gặp Sát Kỵ giao hội tại mệnh. Mệnh tạo này đại vận đi khó khăn, ở cung vận Đồng Lương cư Dần ngộ Triệt thiếu thời cuộc sống rất vất vả, cách Đồng Lương ngộ Triệt Hỏa Mã Phượng có Hóa Lộc ở đại vận thứ hai thuộc tài cách, ở đại vận thứ hai quyết định rất lớn tới khuynh hướng định hướng về các cách cục tham muốn của mệnh. Với Đồng Lương ngộ Hỏa Lộc là tham muốn làm giàu, mang ý nghĩa riêng, thiên về khuynh hướng chớp thời cơ để tạo ra lợi lộc. Đại vận gặp Đồng Lương ngộ Đà Hao và Tang Mã Khách nghị lực lớn, tuy nhiên xuất hiện sự chậm trễ và lỡ thời trong đại vận này để thay đổi.



 Đồng Lương ngộ Phượng Mã Hỏa Lộc tính chất nghị lực lớn, cũng chủ sự thay đổi để chống đỡ các khó khăn. Hỏa Tinh một phần được đắc dụng bởi Hóa Lộc. Tuy nhiên do hình thành cách cục Linh Xương Đà Khốc có Địa Võng thì mệnh cách qua vận này phải chịu nhiều cay đắng, một phần do nghe theo, tin theo lời người khác nên có hướng đi sai lầm, ở đây liên quan tới trong gia đình và việc tình cảm. Cách Linh Xương Đà Khốc có Tuần là mắc họa, đại vận này gặp nhiều khó khăn trong việc kinh thương, hay gặp những lời can ngăn mang tính thận trọng, lỡ cơ hội tại đây. Đại vận này cũng gặp khó khăn trong tình cảm, mang nhiều rối loạn và xa cách. Qua đại vận Đồng Lương, ngay khi nhập đại vận Vũ Sát. Mệnh cách bạo phát khi nhập vận Vũ Sát cư Phúc Đức. Nếu mệnh tạo có cách Thiên Phủ cư Dậu với bố cục trên khi nhập cung độ Vũ Sát tai họa rất lớn mang ý nghĩa xấu tới cả tình cảm và có cả nguy hiểm về khả năng định hướng cuộc sống, mất định hướng khi Thiên Phủ tới vận Vũ Sát tính Kim nặng có Tam Không. Tuy nhiên với Thiên Tướng cùng thuộc nhóm Phủ Tướng đơn thủ tại đây, thủ mệnh là thời vận tới. Đương số nhập cung vận này chỉ sau 2 năm từ buôn bán nhỏ trở nên hoạch phát tay trắng có một cửa hàng lớn về linh kiện, tiền bạc rất nhiều, mệnh cách ở đây đắc dụng vì theo hướng kinh thương, nếu theo quan cách thì cũng đạt hoạch phát như trên, tuy nhiên sẽ thăng trầm xuống nhanh.


Khi luận nhiều lá số Vũ Sát thủ mệnh hay Vũ Phá nhiều mệnh cách có bố cục khuynh hướng bạo phát theo khuynh hướng này tuy nhiên do khí hình và trợ cách ban đầu thấp, đại vận thứ hai và mệnh đều thuộc văn cách, nếu khi luận bình thường xét tới Xương Khúc Khôi Việt Khoa là hay như vậy sai lầm khi luận đoán, rất nhiều mệnh cách ưa gặp Lục Sát để cách cục trở nên đủ lực tác động khiến trợ cách phát huy, nếu các cách mệnh trên gặp văn cách hay Lộc Tướng Bệnh trong quá trình luận giải đưa trợ cách theo khuynh hướng Tài Cách đương số không thể dụng, mệnh tạo bản tính và hoàn cảnh khiến ưa làm việc trong tổ chức, ổn định, khó có thể thay đổi. Nếu theo tài cách thì trải qua nhiều vất vả, khó khăn nặng nề tuy nhiên thành tựu lớn. Nhập cung độ Vũ Sát cư Mão ở đây rất tốt, tại bản cung có Việt Khoa Kỵ giao hội Tả Hữu Quyền Hồng Ấn đi với Tử Phá và Không Kiếp Tồn Sinh ngộ Liêm Tham là bố cục Sát được chế. Đặc biệt do cách Liêm Tham ngộ Sinh Không Kiếp tính hóa thành Vượng, tiến khí nên không ngại Sát Kỵ, cho cách cục Tử Vi đồng độ với Phá Quân, sự giao hội các vòng sao hình thành ba cách cục lớn là Tam Không tức Tuần, Triệt Thiên Không. Thứ đến, Đắc vòng Trường Sinh ở vị trí Đế Vượng tại bản cung đại vận và Khoa Quyền Kỵ ngộ Lộc Tướng Ấn. Mệnh cách bình thường tuy nhiên đại vận này tối hỉ hợp Mệnh Thân có Thiên Tướng không kỵ gặp Tam Không và Không Kiếp, mang tính hoạch phát bất ngờ, do đó đương số vừa nhập hạn thời cơ tới chỉ trong thời gian ngắn lấy được tài danh.



Trong bài luận về Phá Quân tiếp theo sẽ đưa ra ý nghĩa biến hóa khác việc của Phá Quân khi gặp hung cách. Trường hợp mệnh cách Thiên Tướng này gặp đại vận rất tốt đẹp như trên ít thấy, do sự giao hội của Tam Hóa và hai vòng Trường Sinh và Lộc Tồn với Tam Không có Không Kiếp miếu tại Hợi, bản cung là Vũ Sát không ngại gặp Tam Không và Không Kiếp. Bản mệnh Thiên Tướng chế được Không Kiếp khi có Phụ Bật hỉ với Phủ Tướng. Đặc biệt vòng Trường Sinh hoàn toàn ngăn chặn Tồn Kiếp tác họa. Mệnh cách xuất phát từ khí hình thấp, do đó hoạch phát ở mức độ vượt trội so với khí hình. Nếu đương số có điểm xuất phát tốt hơn thì ắt mức độ hoạch phát bao trùm lớn. Ở đây luận rõ thêm cho người nghiên cứu tử vi nắm vững cơ bản do thuộc cách cục chế hóa cần nắm rõ lý tính của từng sao và từng tổ hợp, xuất hiện một điểm chế hóa lớn ở cách cục thường hay đánh giá xấu là cách Phá Quân ngộ Lộc Kỵ lại có Tồn Kiếp như phú hình thành hai cái cục xấu.
" Lộc Tồn Không Kiếp đồng quy, cũng là vô dụng hóa vi cơ hàn".
" Lộc phùng xung Phá, cát xứ tàng hung".
Nếu luận tử vi như trong sách thì khó có thể đánh giá được các bố cục phức tạp, do đó khi luận cần thiết nghiệm lý nhiều lá số qua nhiều năm sẽ tự rõ tính chất của các tổ hợp. Trong các bố cục đứng đầu là Tam Không, tuy nhiên cũng rất khó đắc cách. Thứ đến là vòng Trường Sinh, tới Hóa Kỵ và Không Kiếp. Các bố cục này phân thành rất nhiều cách cục khi giao hội với tính chất biến hóa nặng, nắm rõ thì luận các trường hợp bạo phát hay nổi danh đơn giản hơn nhiều phần. Trước đó chỉ cần xét tới việc xuất hiện các bố cục này thì mệnh cách không phải mệnh thường.

Wednesday, November 1, 2017

Luận vận cách Tham Lang cư Ngọ

Mệnh tạo ban đầu vận hành với tính chất hay bản tính được xuất phát từ cung vận đầu tiên nằm ngay tại Mệnh. Ở đây cũng hình thành các nhân cách vô thức tức gắn bó suốt đời với đương số. Việc tạo họa hay phúc là một chuỗi dài kết quả của tính cách gây ra khi tác động với hoàn cảnh. Như hình thành tính cách nóng nảy, ưa gây gổ thì khi đại vận chứa Sát tính của kim khí sẽ tạo tai họa thương tích cho người khác hoặc chính bản thân tùy vào cách cục chủ động hay bị động gây ra. Ở đây Tham Lang hay khi bản cách cục Chính Tinh không đặc sắc nhưng trợ lực rất tốt. Tham Lộc ngộ Kình Tang Phượng Khúc lại nhập vị trí Đế Vượng là cách cục tốt đẹp, có phần tiếc nuối khi không gặp đủ Khôi Việt Tả Hữu Xương Khúc Tam Hóa để cát hóa toàn bộ cách cục mà chỉ gặp cách Tả Khúc bên trong gặp Kình Phượng nên có phần thiếu sót. Ở đây Xương Bật mang tính chất quyết đoán trong hành động, trong khi ở cách Tham ngộ Kình Phượng thì có phần chủ động nhưng thường không có sự dứt khoát bắt lấy cơ hội trong khó khăn mà có phần do dự thiếu quyết đoán. Đây là đặc điểm yếu của Tham Lang khi mệnh tạo gặp vị trí Tham cư Tí Ngọ ngộ Tả Khúc. Mệnh cách như vậy có Tham ngộ Kình Lộc Phượng là hay vì được cách Mã Phượng hay Mã Khốc Khách, tuy nhiên Thiên Khốc không ở bản cung mệnh thì không khắc chế được tính do dự, thiếu quyết đoán. Tham Lang thì giỏi nhìn nhận, phát xét trước khi hành động hơn Sát Phá, tuy nhiên cung an THÂN ở tại vị trí của Thất Sát vì vậy hành động dễ mang tính chất tự gây khó khăn, trắc trở hơn so với kế hoạch, dự tính ban đầu. Thuộc cách khi đặt ra mục tiêu và đường lối thì hay nhưng thực hiện thì không tốt, dễ gặp thất bại hay chữ mất tại đây.



Một Tham Lang thiếu Hỏa Tinh và Linh Tinh thì như đã luận chữ táo bạo không thành cách, lưu ý Tham Kình táo bạo khác Tham Hỏa, ở đây Hỏa Tham là ham muốn về vật chất, vật dục làm động lực để Tham Lang tìm kiếm, tạo ra cơ hội riêng ở cái chung. Tham Lang ở đây chủ giỏi về sự cạnh tranh, ở đây tức nếu trong công việc xuất hiện sự cạnh tranh thì Tham Lang tại đây mới phát huy tác dụng, cách Mã Khốc Khách có Phá Đại Kình cũng tùy thức thay đổi theo cho phù hợp. Nhìn chung Tham Lang này nặng tính lợi ích, vì Hóa Lộc nên khó có thể nhường nhịn kẻ khác để tạo đà, ứng với Đà La mà chủ ở phần cạnh tranh, ít thỏa hiệp nên khó có thể tạo thành tựu lớn. Tham Lang nếu ưa lợi ích nhỏ, ít đặt tình cảm lên đầu cũng do ý nghĩa khuyết điểm của bố cục Sát Phá Tham, vì vậy nên Tử Phủ Vũ Tướng Liêm tuy có Tử Vũ Liêm mang tính có phần tương tự như Sát Phá Tham tuy nhiên ở nhóm Phủ Tướng tình cảm, tương trợ nên dễ được thành tựu lớn. Ở đây mệnh tạo cầm lưu ý các tính cách hay bản tính nằm trong vô thức mà hành động dễ dẫn tới các kết quả khó thành công lớn. Nhìn chung cần nhìn thấy khuyết điểm lớn của bố cục để có cách giải quyết. Mệnh Tham Lang qua đại vận đầu tiên hình thành nhân cách, có khuynh hướng ưu điểm mang tính nổi danh nhiều hơn khuyết điểm, tuy nhiên nếu có tham vọng lớn cần thiết rất lưu ý ở tính cộng tác, đồng lòng nếu kinh doanh chung, tuy Kình Dương ở đây tốt là có khuynh hướng rất chú trọng tới sự nghiệp, cần chế hóa các tính chất xấu ở cái nhìn lợi nhỏ, tính cạnh tranh, ương bướng tuy nhiên lại không có sự quả quyết kiên trì. Ở đây Tham Lang đi với Kình Dương muốn tốt đẹp cần Hỏa Linh tại đây.



Đại vận tiếp theo sẽ định hướng sự biến đổi của mệnh Tham Lang, khi đó lá số tử vi chuyển động mạnh hơn và tính chất hoàn toàn thay đổi. Cung mệnh như hiện tại là gốc để phát triển khi chịu tác động của các đại vận, nhưng sự phát triển này qua các đại vận tiếp theo không mất đi mà tiếp tục luận kế tiếp với gốc ở vận trước. Đại vận tiếp theo từ 16 tới 25 ngộ Cự Đồng Diêu Kỵ bản cung có Thanh Long hình thành cách Cự Thanh. Khôi an tại Mùi hình thành cách Cự Thanh Khôi Kỵ thì bản thân có sự khác biệt, thường tìm ra hướng đi khác lạ so với bình thường xung quanh. Cách Cự Kỵ Diêu hình thành cũng dễ bị coi là gàn dở, lập dị nếu trong vận này. Cách cục Cự Cơ Đồng mang tới bất ổn, là đại vận gặp nhiều lo lắng, tự bản thân gây khó khăn cho chính mình, ở đây là cách cục của sự bế tắc, thêm bộ Diêu Kỵ rất ngại đi với Cự Môn, may ở đây là cách Cự Thanh có một phần chế hóa Nhị Ám. Đại vận này chủ khiến mệnh tạo thay đổi các khuynh hướng, tham muốn của bản thân. Một chữ Cự Khôi thì tham vọng được đặt lớn hơn, ở tính khởi tạo rất lớn, có tham vọng mở cửa hàng hay đứng đầu về một lĩnh vực nào đó, cũng tạo ra hướng đi khác biệt tuy nhiên trợ cách rất quan trọng là Hỏa Linh và Tam Hóa không gặp mà chỉ có Khôi Việt nên khó có thể thành công lớn khi phối hợp với Mệnh Thân. Ở đây cách cục tính Ám khá lớn, nếu lợi thì có cách Cự Thanh là lão bạng sanh châu, thuộc cách sử dụng ngôn ngữ tốt là lợi thể lớn, đại vận này có nhiều khó khăn cần thay đổi là điều kiện để kích phát mệnh cách Sát Phá Tham theo khuynh hướng khám phá, nghiên cứu sâu và chống đỡ với khó khăn để phát triển tiếp theo.



Nhìn chung đại vận này tuy thiếu Hỏa Linh và Tam Hóa để thành cách cục mạnh tuy nhiên do hình thành khó khăn bế tắc và Cự Thanh là hiểu rõ vấn đề bản chất kiến thức sâu rộng và Cự Thanh khả năng quyền biến tốt, với Cự Môn tăng cường tham vọng, tham muốn cho sao Tham Lang ở mặt khởi dựng sự nghiệp, thường hay mở cửa hàng hay làm việc lớn mang tính chất chủ trì, đứng đầu thường tới vận Cự Môn, đặc biệt là cách Cự Nhật. Đương số đang còn trẻ là lợi thế rất lớn để chế hóa sao Tham Lang bằng trợ cách một phần đã luận ở trên. Với sao Tham Lang do tính chất khuyết điểm dễ mang ảo vọng do tham muốn và tham vọng khó hoàn thành mục tiêu bởi sự cương quyết khi có Hỏa Linh, vì vậy thường cổ nhân luận trung niên thì phát nếu đắc cách. Thực chất mệnh cách Tham Lang nếu luận từ gốc thì có thể thành công từ rất sớm, tùy thuộc vào cung độ đại vận thứ hai và gốc đại vận đầu tiên tại Mệnh. Một sự phá cách là cần thiết cho Tham Lang không có trợ tinh mạnh. Đại vận này là nơi để đặt ra những mục tiêu lớn và hướng đi khác, lối đi riêng cho mệnh tạo. Qua đại vận thứ hai với cách Cự Đồng chủ bất ổn, dễ chia rẽ, gặp khó khăn, lo âu bước sang đại vận cung độ Vũ Tướng ngộ Linh Xương Đà Vũ nhập La Võng có Khoa Bật và Tuế Hổ Phù, ở đây Long Trì ở bản cung. Cách Vũ Tướng nằm trong bố cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm có tính cát hóa rất mạnh. Cách cục Vũ Tướng ở đây gặp tổ hợp Sát trọng điểm có chiều hướng biến đổi theo chiều hướng cực đoan, tai họa gặp do tính Kim quá nặng, thường biểu hiện ra thực tế ở những sai lầm khi nghe theo, tin theo lời người khác bằng tình cảm tức Phủ Tướng. Các làm ơn mắc oán cũng dễ gặp tại đây nên cần thiết cẩn trọng. Cổ nhân luận Linh Xương Đà Vũ là cách cục xấu trong các bố cục Sát cách của tử vi. Ở đây Vũ Xương Linh tại bản cung càng chịu tác động mạnh của bố cục này.



Nếu với cung Mệnh khi luận Tham Lang cần thiết táo bạo, liều lĩnh để thành công thì vận hạn này tạo thành bố cục tai kiếp nặng nề nếu mệnh cách hướng như vậy, trong trường hợp này sự cẩn trọng của đương số với mệnh cách Tham Lang như luận lại mang ý nghĩa hợp cách, giúp tránh khỏi phần lớn các tai họa do cách cục Sát trọng điểm gây ra. Đại vận này cần sự cẩn trọng lớn, trong các sự tương trợ, các mối trợ giúp đều cần sử dụng Phá Quân và Thất Sát tinh tường để nhìn nhận. Một cung an THÂN với Thất Sát không mấy giỏi quan sát, nhìn nhận thì lại càng phải cẩn trọng trước những cái lợi trước mắt, hay những cơ hội tưởng chừng dễ dàng. Ở đây luôn tồn tại một cái bẫy giăng sẵn cần dùng hiểu biết tức Khoa để tránh tai họa, ở đây Khoa đi với Hữu Bật thì những lời khuyên của quý nhân hay người thân cũng cần lưu tâm, người viết luận rất nhiều bố cục đại vận như trên đa phần cuối vận đều gặp cách cục rất khó khăn, có trường hợp nặng nề trầm cảm, có ý định tự tử do bản thân cách cục gây ra, do chỉ ở đại vận nên hết đại vận thì không còn tác động mạnh. Các năm Dần, Mão, Tuất nếu gặp trong đại vận thì cẩn trọng hơn. Đại vận này có thể được thành tựu nếu khéo léo, vì bố cục lưỡng Sát tài cách, chứa đựng cách vượng tài do Vũ Phủ Khoa mệnh Lộc tại đây. Do Tham ngộ cả Hỏa Linh tại vận này thì mệnh tạo sẽ có tư tưởng bạo phát, làm giàu nhanh chóng, lưu ý như đã luận ở trên cần sự cẩn trọng rất lớn, nếu không dễ thành tro tàn.



Qua đại vận Vũ Tướng cư Thân tới cung độ Dương Lương cư Dậu ngộ Không Đào Tướng tại bản cung, thực chất là tổ hợp Âm Dương Lương ngộ Không Kiếp Triệt Đào Hồng giao hội Lộc Tướng Ấn Cô Quả. Đặc biệt hình thành cách Đào Cô Việt Triệt có tính biến động lớn với Thiên Việt tạo nên nguyên nhân sự việc. Thái Dương ưa gặp Thiên Không tuy nhiên ở đây là Dương Lương với Thiên Lương tối kỵ giao hội với Không Kiếp. Đại vận này thuộc vận 36 tới 45, vừa vượt qua đại vận Vũ Tướng thì tới vận này có phần chế hóa được một số cách cục xấu mang tính bất ngờ. Ở đây Âm Dương Lương nhập hãm do Thái Dương cư Dậu và Thái Âm cư Tị. Bất ổn căn bản mang ý nghĩa chuỗi thời gian khó khăn phía trước. Cách cục Âm Dương Lương ngộ Đào Hồng Cô Quả là hay nhưng ở đây đi với Không Kiếp thì luận biến đổi theo chiều hướng xấu, là cách phát sinh tai họa do bản thân tạo ra. Chữ Triệt Kiếp Ấn vừa ngăn tai kiếp của cặp Không Kiếp cũng để lại dấu ấn khó quên. Khi Không Kiếp ngộ Đào Hồng lại gặp Lộc Tướng Ấn nếu mệnh xấu là yểu cách.
" Thầy Nhan Hồi yểu tử do hữu Đào Hồng Không Kiếp Đà Linh thủ mệnh ".
Cách cục Đào Hồng Không Kiếp ngộ Lộc Tồn độc hơn khi ngộ Đà Linh, tuy là chỉ ở cung đại vận, bản mệnh vững nhưng cũng cần đề phòng các tai kiếp dễ gặp bất ngờ trong vận này. Ở đây với mệnh Tham Lang khá tốt nhưng đại vận đi gặp nhiều khó khăn phải vượt qua, quan trọng khí hình phải vượng thì cách cục biến đổi theo chiều hướng tốt, chủ vượt qua khó khăn trắc trở mà bạo phát. Cung Tật Ách được Triệt nhưng có Việt Triệt Kiếp nên ắt có bệnh rồi mới được chữa khỏi, ở đây chủ dễphát sinh bệnh và chữa trị.



Cách cục Âm Dương Lương là thời gian biến động lớn trong vận này. Lưu ý khi có Đào Tướng tại bản cung đại vận là cách tự tạo ra tai họa cho bản thân, ở đây tính chất không nặng như đại vận trước với cách Vũ Tướng mà ở cách cục này mang tính thăng trầm, đúng sai bất phân vì vậy nên tạo bất ngờ. Đào Hoa chủ tình ái nên cũng lưu ý chuyện tình cảm tránh các mối quan hệ không tốt, ảnh hưởng tới sự nghiệp của bản thân. Một điểm tốt là Thất Sát ở cung an THÂN có thể dụng được Không Kiếp, với Thất Sát là hành động táo bạo, quyết liệt có suy xét rõ ràng, cũng hàm chứa tính Sát ở trong đi với Không Kiếp thực chất là sự bất thường, trái truyền thống nên dễ gặp thất bại tuy nhiên Thất Sát này có thể dụng được. Vì vậy đại vận này có phần hơn đại vận trước ở điểm dụng Sát để thành tựu trong khó khăn. Mệnh cách tự mâu thuẫn khá lớn ở các cung đại vận thì có khả năng gây dựng được cơ đồ lớn theo tài cách, tuy nhiên khó khăn rất nhiều không thuận lợi, gặp thời cơ mà dễ gặp nhiều cạm bẫy trong các đại vận này. Ở vận Dương Lương thì có sự không may mắn ở đây, với Thái Dương cũng không sáng, tối tăm nên cần chuẩn bị trước khi nhập vận này, khi qua vận Vũ Tướng cần định hướng lại tham vọng và kế hoạch nhằm thay đổi mức khí hình cơ bản. Đại vận Dương Lương này cũng dễ gặp vấn đề về tật bệnh cần lưu ý trước, mệnh cách tốt khi vận không tốt đẹp thì để thành tựu phải qua thăng trầm nhiều, ở đây cũng là khi Tham Lang trung niên nên khả năng cát hóa cách cục cao hơn các vận trước.


Sau vận Dương Lương cư Dậu tới vận Thất Sát trùng với cung an THÂN thì tăng tính quan trọng của cung độ này vì là Mệnh Thân lưu động tác động lên cung an THÂN cố định. Cung độ Thất Sát cư Tuất tránh được Kỵ Hình Hỏa Linh Không Kiếp nên luận tốt đẹp. Ở đây Thất Sát ngộ Tả Phụ có Hữu Bật xung gia hội Đà Hỏa thì không xấu. Vận này tới Thất Sát thì gặp thời, cách Sát Phá Tham ở đây khá tốt, có thể đối trọng với Liêm Phủ bên ngoài. Thất Sát tại đây tính Sát không lớn, xét về công danh có chiều hướng tốt đẹp. Tuy nhiên cung an THÂN tại đây thì cẩn trọng với thân thể, thương tích. Câu phú có luận " Thất Sát lâm Thân chung thị yểu". Tuy nhiên là khi trường hợp gia Sát Kỵ Hình, ở đây chủ gặp áp lực tới bản thân, dễ bị đè nén. Đại vận này khá tốt, dễ nổi danh vì gặp bố cục Mã Khốc Khách Phượng Kình. Sát Tuần nhập tại cung Mộ ở vị trí suy của vòng Trường Sinh. Ở đây bố cục này cũng mang ý nghĩa khó khăn phải trải qua ở mặt tinh thần, thành tựu ở vận này lớn, đặc biệt nếu các đại vận trước vượt qua thì vận Thất Sát đi qua khá dễ dàng tuy sẽ gặp một số thất vọng, sai lầm.

Monday, October 30, 2017

Tử vi luận hạn phối hợp mệnh


Luận giải lá số tử vi cần rất nhiều kinh nghiệm luận đoán đặc biệt khi luận về chuyển động bắt đầu của lá số tử vi qua các cung đại vận theo chiều nghịch tức qua cung Phu Mẫu tới cung Phúc Đức, cung Điền Trạch và cung Quan Lộc là qua nửa đại vận tới tuổi trung niên, ở cách này mệnh cát luận theo chiều hướng Quan Lộc cách, đường đi của mệnh qua các cung độ có các tên riêng mang ý nghĩa đặc trưng của lá số tử vi. Hướng đi theo chiều thuận qua các cung Huynh Đệ, tới cung Phu Thê, cung Tử Tức và tới cung Tài Bạch theo chiều nghịch với cung Quan Lộc. Ở đây hướng đi thuận theo chiều Tài Cách. Ở bố cục này cũng mang tính đặc trưng đặc biệt khi hội họp bố cục mệnh tạo theo các tổ hợp phát về tài thì tài vượng, trung niên thành tựu về tài. Ở đây lá số tử vi Mệnh tốt thì cần tới trung niên tức từ tuổi 42 hoặc muộn nhất tới 46 bắt đầu nhập Tài Bạch cung hoặc Quan Lộc cung nhìn về cung Mệnh. Hợp với ngoài thực tế nếu xét tới năng lực của bản thân của đa phần, ở đây mệnh tạo qua các cung vận đầy đủ này cũng mang ý nghĩa hoàn toàn đã được nhận ít nhất một cơ hội vì nếu mệnh tạo xấu nhất sẽ yểu mệnh khi qua các vận, bằng không dù cách cục Sát thì cũng đã được một lần hoạch phát tài danh trong đời, quan trọng có biết nắm giữ, hóa cách cục Sát vi Quyền, lấy táo bạo để làm thực hiện mục tiêu lớn, giữ vững và phát triền tài danh.



Thực tế người viết luận chưa thấy việc một người bình thường tới tuổi trung niên chưa có một lần cơ hội, không được một lần cơ hội trong đời mà đa phần đã được may mắn lớn trong một giai đoạn, quan trọng như việc khi ta có một khoản tiền lớn thời gian ngắn tức là vận phát thì ưa tiêu pha, sử dụng nên số tiền dần mất không còn khả năng tái sản xuất, mệnh tạo thường có khuynh hướng bằng lòng với bản thân hoặc không thay đổi khi gặp khó khăn hay nắm chắc phát triển mạnh hơn. Ở đây khi vận chuyền theo hai chiều hướng đại vận đi thuận tới Tài Bạch hay nghịch tới Quan Lộc nhấn mạnh tính chất của mệnh tạo. Nhua cung Thiên Di khi vận chuyển theo hai hướng đi thì qua 7 cung đại vận dù thuận nghịch tới tuổi 62 đến 66 tùy theo cục đa phần thường mệnh tạo nhìn lại về cuộc đời, tính cách của bản thân, nếu ở xa có khuynh hướng trở về quê hương bản xứ, tức cung Thiên Di mang ý nghĩa tác động rất mạnh do vận hạn tới đây. Ở các cung độ khác cũng luận như vậy. Lưu ý một đường đi tới cung Nô Bộc trước Thiên Di hoặc cung Tật Ách trước Thiên Di mang ý nghĩa khá hay khi luận tác động tới mệnh tạo, như nhiều người quan trọng xã hội bàn luận về bản thân khi qua cung Quan Lộc, nhiều người quan tâm tới Tật Ách tai nạn, bệnh tật khi qua cung Tài Bạch. Tên riêng của các cung độ mang tính chất lớn nhất, và đặc biệt khi vận hành đi qua theo các chiều hướng mang tính chất đặc biệt khi phối hợp cho lá số, khi chuyển động tức theo chiều cuộc sống.




Khi luận lá số tử vi cũng cần nhìn việc khó khăn lớn gặp là phối hợp Mệnh tạo ý nghĩa cách cục với cung an Thân để đặt tác động lên vận hạn, suy xét sự tổ hợp bố cục đại vận, tiểu vận giao hội với cục nguyên thủy của Mệnh tạo để luận biến đổi phối hợp. Như vậy mỗi cách cục gồm sự phối hợp ít nhất ba cách cục Chính Tinh kết hợp với Bàng Tinh biến hóa đa dạng khiến luận đoán trở nên khó khăn mặc dù người luận nắm vững tính lý của các Chính Tinh và Bàng Tinh, tính chất sao khi giao hội. Vì vậy các bài viết người viết tập trung luận về tính chất biến hóa của các tổ hợp Chính Tinh, khi giao hội với Bàng Tinh. Các bố cục biến hóa này rất quan trọng để luận giải về sau khi luận được bản tính, tiềm năng của cung Mệnh khi đại vận bắt đầu dịch chuyển tới vận thứ hai tiếp theo. Kế đến sự dịch chuyển của vòng Trường Sinh trên lá số tử vi, đây là mức tác động của chu kỳ Sinh Vượng Tuyệt tới bản cung, biểu hiện tính chất dụng khí của các tổ hợp. Vị trí Tử Tuyệt ứng với sự khó khăn bế tắc.

Thursday, October 19, 2017

Thiên Phủ tinh yếu luận mệnh


Mệnh cách có sao Thiên Phủ thường được đánh giá cao trong các Chính Tinh của tử vi. Thiên Phủ là chính tính có tính chất tốt đẹp trong tử vi ở tất cả 12 cung độ. Tuy nhiên tùy các bố cục giao hội với nhóm Tử Vũ Liêm hay đơn thủ mà tính chất khác nhau. Mệnh tạo có sao Thiên Phủ khó đắc cách, tự tài năng mà đa phần mang tính chất đứng đầu dụng khả năng của người khác để phục vụ cho lý tưởng của sao Tử Vi trong nhóm Tử Vũ Liêm hay mang tính tương trợ, giúp đỡ trong nhóm Phủ Tướng đơn thủ. Bố cục Phủ Tướng đặc biệt nhấn mạnh ở tính ổn định, nhóm sao này hoàn toàn không hóa khí và có thể chế hóa được đa phần các Sát Tinh duy chỉ Không Vong tối kỵ. Mệnh có sao Thiên Phủ thì thường ôn hòa, dễ gây được tình cảm của người khác, có phần như nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương. Tuy nhiên do Phủ Tướng bất hóa nên khó biến đổi theo chiều hướng cực đoan. Sao Thiên Phủ rất đặc trưng ở khả năng dụng tình cảm, nếu mệnh tốt thì là người có tình nghĩa, tâm tính tốt và cuộc sống có phần ổn định, ít biến động. Vì vậy Thiên Phủ thường được luận là sao có tinh thần tốt, nếu giao hội với nhóm Tử Vũ Liêm ổn định cách cục, Phủ Tướng mang ý nghĩa sự phục vụ theo một lý tưởng. Thiên Phủ do mạnh tính chất tương trợ, tình cảm đặc biệt là sử dụng lời nói, ngôn ngữ nên cách cục Phủ Tường tối hỉ ngộ Tả Hữu.


Khi Tả Phụ đồng độ với Thiên Phủ và Hữu Bật đồng độ với Thiên Tướng là cách cục tốt đẹp của nhóm sao này. Thiên Phủ chứa Văn Cách, không nên gặp Sát Kỵ mà hỉ được Lộc Tồn tăng tính ổn định. Với nhóm Phủ Tướng đơn thủ hay đầy đủ nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm rất cần được vòng Lộc Tồn, đặc biệt ở vị trí Lộc Tồn và Quốc Ấn. Ở xã hội thời trước hay hiện tại cũng có thể phân quyền ở văn cách hay võ cách. Ngành liên quan tới quân sự hay công an, tòa án, hình pháp, thanh tra,... thuộc võ cách ứng với mệnh cách theo chiều hướng này. Mệnh tạo có sao Thiên Phủ đắc cách thủ mệnh đa phần được thừa hưởng tập ấm, đặc biệt là cách Thiên Phủ ngộ Lộc Tồn tính chất thừa hưởng, kế nghiệp từ tổ tiên càng lớn và có giá trị. Thiên Phủ gây dựng sự nghiệp đa phần nhờ các mối quan hệ và trợ lực, giúp đỡ lẫn nhau để thành tựu, vì vậy tính chất quản lý từ nhân lực hay tài sản đều thuộc cách cục này. Sao Thiên Phủ cũng là sao chủ che giấu, chủ cái kho như các sách tử vi thường luận. Sao này thuộc khả năng tương trơ, quan hệ tình cảm nên khi đắc cách cần các sao chủ linh hoạt như nhóm Thanh Phi Phục. Thiên Phủ có hai khuynh hướng ổn định hay bất ổn định. Với cách cục ổn định rất cần có Lộc Ấn Bệnh. Với cách cục bất ổn định, cần thiết gặp Thanh Long tránh sai lầm khi phát ngôn, sử dụng phủ dụ bằng lời nói, tình cảm.


Nhóm sao đặc trưng Thiên Can tác động rất mạnh tới mệnh Thiên Phủ vì nhóm Phủ Tướng không hóa nên bốn nhóm chính gồm Kình Hao, Đà Hao, Lộc Ấn Bệnh, Phi Thanh Phục mang đặc trưng riêng khi giao hội. Phủ Tướng có Kình Hao thuộc cách cục bất ổn, với bố cục này dễ bất lợi về tình cảm, ảnh hưởng tới khả năng của Thiên Phủ ở mặt công danh. Thiên Phủ chủ ổn định, có tính tích trữ ngộ Hao thì dễ mâu thuẫn, khiến mệnh tạo khó tích lũy. Phủ Tướng có Kình Hao khi tốt là sự trợ giúp chủ động, cách Tướng Kình, đặc biệt là Đại Kình Tường khi đắc cách mang ý nghĩa hay chủ sự bảo vệ cho lẽ phải, tương trợ giúp đỡ cho kẻ yếu. Thiên Tướng thể hiện mạnh võ cách và nhóm Phủ Tường có khuynh hướng bất ổn định, vì vậy thường theo chiều hướng thay đổi, chủ động bên trong tuy nhiên ảnh hưởng tới tính chất khéo léo bên ngoài của Thiên Phủ khiến mệnh tạo dễ mâu thuẫn ngay chính nội tâm. Trường hợp này cần thiết có Hóa Khí tức Tam Hóa, Tả Hữu giao hội với Phủ Tướng để giảm xung đột của cách cục, hoặc giao hội với Từ Vũ Liêm hình thành đầy đủ nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm theo kinh thương hay quan cách đều hợp . Với cách Đà Hao ngộ Thiên Phủ có phần tốt đẹp hơn do Đà Hao chủ tính Ám hợp với tính chất của Thiên Phủ. Bố cục của Thiên Phủ ngộ Đà Hao có tính thay đổi tuy nhiên Đà La tăng tính chất bao phủ của sao này.


Thiên Phủ chủ khôn khéo, nhường nhịn thiệt hơn nên cách cục không gặp nhiều mâu thuẫn như ngộ Kình Hao. Ở đây tránh cách cục Đà Tuế khiến Thiên Phủ trở nên nói dông dài, do đây cách cục này mang ý nghĩa phơi bày các quan điểm, lập trường ra bên ngoài, tuy nhiên Đà La ngộ Thiên Phủ ưa lòng vòng, không như sao Kình Dương mang tính chủ động, ngắn gọn nên cách Phủ Đà Tuế đặc biệt khi không được giao hội với nhóm Tử Vũ Liêm tức " Phủ phùng Đà Tuế Tị cung, cuồng ngôn loạn ngữ nói rông tháng ngày". Ở đây có Quyền luận khác, gặp Linh Quyền luận tốt đẹp, nếu đủ Linh Kỵ Quyền biến thành quyền cách. Khi luận cần lưu ý biến hóa tính chất khi tạo thành các tổ hợp hay giao hội với các bàng tinh khác. Thiên Phủ nhập mệnh cần gặp Khôi Việt tăng tính chất của cách cục, với Thiên Phủ ý nghĩa vị trí Chính Tinh khi giao hội như cách Vũ Phủ, Liêm Phủ, Tử Phủ tức giao hội với nhóm Tử Vũ Liêm rất quan trọng, thứ đến là vận hành của mệnh tạo thuận ở đại vận hay gặp khó khăn. Kỵ gặp Triệt và Thiên Không, kế đến là Tuần. Trong đó cách Phủ Triệt mang nhiều ý nghĩa xấu, do Thiên Phủ chủ ẩn chứa, cũng chủ lời nói, che dấu, kho tàng, ở cơ thể là phủ tạng ngộ Triệt Lộ tính Kim khiến bố cục theo chiều hướng xấu. Ở đây nếu có Thanh Long hay Tả Phụ hoặc tổ hợp sao mang tính linh hoạt thì không luận xấu. Mệnh Thiên Phủ khó đắc cách, khi luận tránh đề cao thái quá các bố cục của sau này.

Monday, October 16, 2017

Thiên tai họa hại tới vận số



Việc nước lên rất cao do lũ lụt sau cơn bão và các đập thủy điện xả tràn khiến nhiều tỉnh ngập sụt, lũ cuốn sạt lở đất là các thiên tai gây tai họa từ xưa tới nay. Cặp Không Kiếp mang ý nghĩa của tai kiếp mang tính không lường trước được vì vậy khó phòng tránh từ trước. Ở mức độ từ vận khí của chính bản thân người, tới vận làng, vận nước đều chịu ảnh hưởng ở mức thịnh suy khí hóa không ngoại lệ. Việc xảy ra lũ lụt gây thiệt hại không chỉ về vật chất mà gây chết người. Ở Nhật Bản trận sóng thần và động đất năm 2011 gây thiệt mạng hơn 15 nghìn người. Ở nước ta do vị trí địa lý dễ gặp tai họa của lũ lụt, ở đây là do vận tập thể của cả quốc gia nên khi tác họa tới từng địa phương thì khiến nhiều người mệnh tốt đẹp nhưng vẫn phải chịu cách cục vong mạng, trừ vận khí may mắn. Khi dòng lũ cuốn thì có nơi cả gia đình mang họa tập thể tuyệt khí. Tác động khí hình của vận nước tác động tới khí hình của bản thân mỗi số mệnh. Tuy nhiên mệnh cách hợp, phúc khí lớn thì có thể thoát nạn. Sau khi lũ cuốn xong thì ta cũng hay nghe những trường hợp đương số vẫn sống sót trong cơn lũ, nhiều trường hợp hoát nhiên thoát nạn một cách may mắn khi di chuyển tới nơi khác.


Vì vậy xuất hiện bố cục Tang Hư Mã Khách. Sao Thiên Mã là ngôi sao chuyển động luôn đi cùng với nhóm Tang Hư Khách. Ở đây Thiên Mã chuyển dịch hay gọi là Dịch Mã mang ý nghĩa hướng đi, đường đi để thoát thế bế tắc trong trường hợp Tang Hư Khách trở nên xấu. Cách cục Tang Hư Khách cũng thường hay mang ý nghĩa sự khó khăn, bất hạnh mà mệnh tạo gặp phải. Khi thiên tai tới thì khí hình ứng hợp của các cách cục hóa khí thành Cát trở nên rõ ràng hơn. Nhiều trường hợp đương số bị bệnh tật nặng cần khoản tiền lớn phẫu thuật bằng không vong mạng thì Lưu Lộc là Cát Tinh, trong trường hợp này dễ vong mạng nếu không có tiền. Mệnh cách nếu khí hình mạnh thì tùy vào tác động của khí Sát mà chịu ảnh hưởng. Trường hợp xấu nhất như việc chịu tác động của bom nguyên tử như trường hợp ở Nhật Bản thì trường hợp Sát tính nặng nề thì một khu vực ứng với vận quyết định so với khí hình vận làng hay thành phố ở nơi khác là mức so sánh để xét trường hợp. Như một trường hợp nhìn thấy tầm quan trọng về quân sự là ý định phát khởi, tức Tử Vi thực hiện hành động thì mức độ khí hình tác động khiến một việc dẫn tới chọn nơi địa lý quyết định thả. Ở đây thường gọi là thiên kiếp ở vận làng. Việc không thả bom tại thủ đô Nhật Bản, hay chọn một địa điểm khác, sự quyết định bởi một tổ chức, do bên quân đội Mỹ quyết định vận số của Nhật Bản. Việc không thể tránh khỏi là kiếp nạn.  Xuất hiện các trường hợp như Nhật đầu hàng trước đó và kết thúc, hay Mỹ đưa ra đe dọa trước khi thả bom nguyên tử liên quan tới vận nước. Khi vận nước tai kiếp đã quyết định là nghiệp không tránh, khí hình đã tuyệt, sát khí ở mức cực vượng thì dẫn tới vận làng chịu tác họa. Vận làng ở tại đây có thể chọn các vị trí địa phương khác nhau nhưng chọn ở hai nơi chịu tác họa là hai thành phố Hiroshima và Nagasaki hứng chịu.


 Do tính Sát này cũng ở mức cực vượng, mang tính hủy diệt lớn nên vận mệnh bản thân phải chịu cách cục của vận làng tức tất cả mệnh tạo mức khí hình ở vị trí địa lý trên đều chịu họa kiếp của Sát và vong mạng. Cách kết cục cũng có liên quan tới vận nước do duyên được khởi tạo từ mâu thuẫn quốc gia. Ở đây luận rõ hơn có phần khi lựa chọn nơi ném bom. Bộ phận lựa chọn mục tiêu ở trung tâm nghiên cứu Los Alamost đề xuất chọn Hiroshima, Kyoto, Yokohama và xưởng vũ khí tại Kokura. Tuy nhiên từ chối mục tiêu xưởng quân sự vì quan trọng ở tác động tâm lý lên nước Nhật. Bộ phận này lựa chọn Kyoto bởi đây là trung tâm văn hiến của Nhật Bản, và có quy mô dân cư tốt hơn cả để đánh giá hiệu quả của vũ khí. Hiroshima được lựa chọn bởi đây là thành phố lớn, là cơ sở hậu cần quân sự quan trọng và thành phố được bao bởi các ngọn đồi – giúp gây ra hiệu ứng hội tụ, làm tăng sức hủy diện của quả bom. Ở vị trí Hiroshima do nhân duyên đã chịu quyết định bởi lý do trên. Bộ trưởng chiến tranh Henry L. Stimson bất chấp chống đối của tướng Leslie trưởng dự án Manhattan, gạt bỏ Kyoto khỏi danh sách bởi tầm quan trọng về mặt văn hóa của thành phố. Sau này có nhiều giả thuyết về nguyên nhân không ném bom thành phố này. Ngày 25 tháng 7 năm 1945, tướng không quân Carl Andrew Spaatz được chỉ thị ném bom một trong những mục tiêu: Hiroshima, Kokura, Nigatta hoặc Nagasaki và các thành phố khác ngay sau ngày 3 tháng 8 khi thời tiết cho phép và các vũ khí nguyên tử bổ sung nữa sẵn sàng. Khi ném bom trong thành phố Hiroshima có khoảng 250 nghìn người.


Quan trọng hơn là Nhật phát hiện máy bay mang bom của Mỹ nhưng lý do nào đó nên không bắn. Hai vị trí thả bom trong số các thành phố được lựa chọn. Sự chọn lựa ở các Thành Phố chuẩn bị phát khởi cho tai kiếp quyết định ở vận làng. Ngay lập tức khi quả bom thả thì số người chết hơn 90 nghìn người. Hết năm 1945 tổng số người chết là hơn 145 nghìn trên tổng số khoảng 250 nghìn dân. Thực chất mỗi người đều có linh tính về tai họa sắp xảy ra, tuy nhiên do tai kiếp mà mức độ khác nhau tới vận số. Với quả bom thứ hai thả xuống Nagasaki vội vàng rơi vào giữa hai mục tiêu chính gây chết lập tức 70 nghìn người. Trước khi tai họa này xảy ra sẽ xảy ra một số trường hợp đơn lẻ rời khỏi vị trí này, thường mệnh tạo có sao Linh Tinh hay mệnh có Đồng Lương đắc cách sẽ thoát khỏi các tai họa mang tính vận nước như vậy. Một bối cảnh chiến loạn thì dẫn tới khí Sát tràn ngập và chuyện chết trở nên dễ dàng với các bố cục Sát trong tử vi. Đặc biệt ở đây khí hình vận số sẽ tác động rất lớn tới lá số tử vi. Trước khi xảy ra một tai họa lớn tới mức diệt vong bộ phận lớn thì khí hình tác động phải lớn tới vận khí quốc gia. Ở đây việc bão lũ lụt là chuyện hay gặp ở nước ta. Việc mất hết tài sản tức phá dản cách hay gặp ở bộ Vũ Phá khi xấu thì mệnh tốt nếu gia sản ở vị trí trọng yếu của cơn lũ cũng dẫn tới thiệt hại hoàn toàn. Ngoài Thiên mệnh ta còn hay nghe tới Nhân mệnh, khí hình của mệnh tạo thay đổi do hoàn cảnh bên ngoài và cũng do chính bản thân đương số. Khi luận cần xét rõ các phần quan trọng để tránh luận sai lầm.


Thiên tai là Không Kiếp khiến bộ sao này được luận là đại sát tinh. Luận lá số tử vi không quan trọng mệnh tạo có cát tinh hay sát tinh. Quan trọng là hợp hay bất hợp thì tránh được sai lầm về tính chất các tổ hợp. Kình Hao trong chiến tranh là chủ động tấn công quân địch. Xét ở mặt bệnh tật là việc phòng chống lại bệnh tật xâm chiếm. Xét tới sự nghiệp là công danh tới sớm. Với Kình Dương đôi khi ta là người bị tấn công, khi Kình hóa Sát thì ứng hợp gây ra thương tích. Một Kình Dương cũng có thể là quân tử, cũng có thể là tiểu nhân ưa cướp bóc tùy vào mức chế hóa. Thiên tai họa hại hay môi trường tốt là tác động ở hoàn cảnh. Với cuộc sống trong môi trường văn học thì Kình Dương trở thành tác phẩm văn mang tính công kích, trong văn thơ cũng chứa thép tức có Kình Dương. Việc ứng hợp bố cục biến hóa vô cùng. Trong khó khăn thì thường thấy được tình người tương trợ, đây là mặt tốt của Sát tinh tức ý định nhường cơm sẻ áo trong khó khăn, hay việc Mạnh Thường Quân mà nhiều người luận không rõ mà chỉ nhìn vào mặt tác họa, kẻ dụng được bố cục Sát cũng là kẻ thành công. Việc đơn giản như một kẻ sát nhân, như binh lính bất dụng lý tình chỉ chứa tính Sát thì tài giỏi tới mấy cũng là kẻ đồ tể. Ngoài thực tế cần nhìn ra các mức độ hay biến hóa của các cách cục Sát, hoàn toàn khác nhau ở mệnh thượng cách hay hạ cách. Ở đây hoàn toàn chưa xét tới sự sáng suốt mà chỉ nhìn vào cách chế hóa của mệnh tạo. Không phải mệnh thượng cách là người xây dựng xã hội. Nhiều kẻ phá hoại về đạo đức cũng có thể lên đứng đầu. Như xét về trường hợp tranh giành của vua chúa thời phong kiến, mang quân đi đánh các nước tạo họa sát. Hay trường hợp của Hitle cả thế giới lên án. Cái thiên mệnh tạo nên chỉ lừa gạt giữ vững quyền lực. Mọi mệnh tạo đều có thể thay đổi số phận tới mức cao nhất, quan trọng là thời vận và cách dụng.

Monday, October 9, 2017

Lá số tử vi giáo sư Ngô Bảo Châu



Mệnh cách của giáo sư Ngô Bảo Châu nếu người có kiến thức về tử vi nhìn tướng học và luận quá khứ sự kiện của ông thì luận ra đây là người mệnh Cự Môn. Ở đây chịu cách cục thị phi và bất mãn của Cự Môn. Trên các diễn đàn trên mạng bàn luận đưa ra các cách luận cho lá số của mệnh tạo với bố cục Cự Môn với các cách giải thích khác nhau về mệnh cách bình thường của giáo sư nhưng được cát hoá phản vi kỳ cách trở nên tốt đẹp với mệnh Cự Môn độc tọa tại cung Hợi.  Lá số tứ trụ ngày 28/6/1972 dương lịch giờ Mùi. Mệnh tạo thuộc Mộc bản cung thuộc tổ hợp Cự Cơ Đồng là bố cục mâu thuẫn, bất mãn khi Cơ Đồng trong nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương giao hội với Cự Môn trong nhóm Cự Nhật và bản cung mệnh có cách Cự phùng Tồn tú cát xứ tàng hung là đúng cách. Luận mệnh cách của Tử Vi Đông A xét tới bố cụ khí hình của đương số và trợ cách hướng dụng, bất luận lá số không có việc trường hợp phản vi kỳ cách là đổ lỗi cho việc không rõ ngọn ngành của bố cục. Đương số mệnh cách Cự Môn là ngôi sao tài năng, tuy nhiên bản cung mệnh có cách Cự Ấn ngộ Xương Khúc ở thời nay do khí hình ban đầu của đương số rất tốt đẹp, theo trợ cách khuynh hướng Văn Cách nghiên cứu của Cự Môn thì được luận ở chữ sâu sắc, nghiên cứu sâu rộng cũng chính do tính chất bất mãn của Cự Môn.



Ở đây cách Cự Môn độc tọa tăng mâu thuẫn bất mãn khi Lộc Tồn tức bộ Tồn Bác đồng độ tại bản cung khiến đương số càng khó khăn nếu theo khuy h hướng tài cách, cũng con đường học thuật là cách càng nghiên cứu càng mắc thêm vấn đề, ở đây gặp vấn đề bất mãn trong học thuật có phần hay hơn là trong cuộc sống hay công việc trong một tổ chức với Cự Môn. Với mệnh tạo Cự Ấn thì đương số sớm muộn rời khỏi đất nước, hoặc tùy cách cục mà rời xa quê hương, để lại các dấu ấn ở lại. Người viết gần đây có luận cho một mệnh Cự Môn có mệnh Cự Cơ ngộ Song Lộc tức Hóa Lộc và Lộc Tồn tại bản cung Linh Kỵ giao hội với bố cục Cự Cơ Đồng. Nhiều người nghiên cứu tử vi luận mệnh cách là số phát tài cách, được Cự Cơ chủ giàu ngộ Song Lộc là cách buôn bán mà giàu. Thực chất do không luận được khí hình của đương số và hướng đi trợ cách mà đưa ra các luận đoán sai lầm. Ở đây đương số có học vấn rất cao làm ngành tiến sĩ về kỹ thuật cơ điện bên Hoa Kỳ tiền bạc cũng rất dư dả, tuy nhiên tiền ở đây do Hóa Lộc tạo ra không do Lộc Tồn. Bố cục này phát triển theo hai hướng Quan Lộc Cách hoặc Văn Cách. Đương số nếu theo con đường quan lộc thì là mệnh bình thường, dễ gặp cảnh bất mãn trong tổ chức. Nếu theo nghiên cứu dụng trợ cách rất tốt đẹp.



Ở đây mệnh cách của giáo sư Ngô Bảo Châu khi cách cục trợ cách hướng tới chính trị khiến tai họa rất lớn, cơ bản thể hiện bố cục của Cự Tồn biểu hiện ở thực tế khi các phát biểu của đương số về chính trị gây nên thị phi lớn. Ở đây nhiều người nghiên cứu mệnh thuộc phản vi kỳ cách vì Cự Môn được Tuần Triệt. Nếu có nghiên cứu về Tử Vi Đông A thì luận lá số này không cần thiết phải đưa ra những cách cục phản cách mà tuân theo bố cục bình thường của tử vi. Thực chất lá số này được danh rất lớn do bố cục của Vòng Trường Sinh ở cung an Thân có Thiên Lương, đặc biệt cung độ Thiên Di có Thái Dương sáng nhập vị trí Trường Sinh nên cát hóa mệnh cách ở vị dương lên khi ra bên ngoài. Điểm mạnh của lá số ở khí hình ban đầu như người viết có luận về một cậu bé thiên tài trong bài "Mức chế hóa trợ cách với tổ hợp Sát lược giản" nhờ giáo dục của cha mẹ và định hướng ban đầu theo khoa học mà thành tựu chế hóa toàn bộ cách cục Sát. Và khi bố cục của đương số cũng hợp cách với Cự Tồn thì dễ có tài sản nhà đất tốt đẹp. Ở đây có cách Quang Quý Cự Tồn là ân thưởng, trao tặng kỷ niệm với Quốc Ấn. Tất nhiên do khí hình lúc này ở mức cực vượng tới quốc gia nên luận bố cục theo mức chế hóa như vậy. Ở phần tiểu sử của Ngô Bảo Châu có viết tới "Ngô Bảo Châu được sinh ra ở trong một gia đình có truyền thống trí thức. Ông chính là con trai của chính Tiến sĩ khoa học ngành cơ học chất lỏng là Ngô Huy Cẩn, hiện tại đang làm việc ở tại Viện Cơ học của Việt Nam. Mẹ của ông chính là Phó Giáo sư, Tiến sĩ dược Trần Lưu Vân Hiền, hiện tại bà công tác ở tại Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương, nước Việt Nam. Ông chính là cháu họ của Ngô Thúc Lanh, đây là một Giáo sư toán đã viết cuốn sách Đại số đầu tiên".



Ở đây khí hình của Thiên Cơ nhập dụng chế hóa đúng hướng ở cách nghiên cứu cơ khí. Gần đây luận cho mệnh tạo Cự Cơ cư Mão ngộ Việt Linh Hình Kỵ Hình Khoa Quyền giao hội Tang Hư Mã là bố cục xấu tác họa rất lớn, có thể vong mạng hoặc bị bệnh tâm thần, động kinh khi nhập vận Sát Phá Tham có Hỏa tuy nhiên đương số vẫn cuộc sống bình thương, do Phụ Mẫu làm công chức nhà nước về cơ khí. Bản thân đương số theo ngành công nghệ thông tin, hợp cách nghiên cứu. Giáo sư Ngô Bảo Châu với khí hình ban đầu rất mạnh, đương số phúc khí của dòng họ lớn. Cung an Thân cư Phúc Đức nhập Mộ có Thai Tọa là cách Mộ Trung Thai Tọa, đắc vòng Trường Sinh với Âm Dương sáng. Ứng hợp hơn với bên ngoài dòng họ khí hình lớn khiến đương số hoàn toàn hợp cách. Như lá số của hoàng đế Chu Nguyên Trương và người nuôi ong giống nhau nhưng ứng hợp khí hình của Phúc. Không bàn luận tới tính xác thực của điển tích mà tử vi chính tông tiền nhân muốn để lại là khí hình của đương số ứng với cách cục thực tế ngoài thực tại. Khí hình là tư tưởng thực tại. Đương số mệnh nghèo nhưng tâm hướng tới đại phú không rời bỏ suốt thời gian dài thì khí hình theo ham muốn là bố cục Tử Vi - Phá Quân - Cự Môn hoạt động liên tục. Như bước thang khiến khí hình tăng trưởng liên tục thì tạo được mệnh thượng cách. Lý của Tử Vi Đông A là như vậy.



Tử Vi Đông A là triều đại Đông A với " Hào Khí Đông A". Theo lối chiết tự, Trần còn được gọi ẩn dụ là Đông A (do chữ Trần 陳 được ghép từ hai thành phần là Đông (東) và A (阿)). Khi nhà Trần tại Việt Nam giành chiến thắng trong ba lần đánh bại đội quân hùng mạnh Nguyên Mông thì khí thế chiến đấu của quân dân nhà Trần được gọi là "hào khí Đông A". Liên quan tới việc vua Trần Nhân Tông tìm tới cái Không, ưa xuất gia tăng đạo lập nên Thiền phái Trúc Lâm, bỏ qua cái tham thường tình ái, hưởng thụ vật chất, quyền lực là một câu chuyện trong cuộc mà Tử Vi Đông A có được một phần dấu tích còn lại. Việc đánh bại ba lần đạo quân hùng mạnh Mông Cổ. Với ý trời, một chữ bất ngờ, không ngờ của chữ Không tạo nêm kết quả phi thường.  "Sau thất bại lần thứ ba năm 1288 ở Đại Việt, Nguyên Thế Tổ - Hốt Tất Liệt vẫn chưa muốn đình chiến. Sang các năm sau, vua Nguyên tiếp tục muốn điều binh sang nhưng chưa gặp thời cơ thuận tiện. Có năm sắp tiến quân thì chánh tướng chết nên hoãn binh, năm sau định đánh thì phó tướng lại chết nên lại đình chỉ việc tiến quân. Tới năm 1294 lại định điều binh lần nữa thì chính Hốt Tất Liệt chết. Cháu nội là Nguyên Thành Tông lên ngôi không muốn gây chiến với Đại Việt nữa. Việc chiến tranh với nhà Nguyên từ đó mới chấm dứt". Vua Trần Nhân Tông trị vì tới năm 1293 thì yên tân truyền ngôi. Hốt Tất Liệt vẫn muốn đánh, năm sau tức 1294 phải mãn kiếp. Hoàng đế sau không muốn sát phạt Đại Việt, bỏ ý định đánh chiếm. Thực chất lá số tử vi của vua chúa thời trước và của nguyên thủ quốc gia thời nay ảnh hưởng lớn tới vận nước. Đặc biệt với người có khả năng truyền thừa chính tông luận tử vi sẽ ảnh hưởng nếu mệnh số của đất nước được luận. Vì vậy, khi luận thì nhiều người nghiên cứu huyền học có khả năng nhưng không lưu truyền những kiến thức sâu về tử vi. Cũng như cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm với sấm truyền của môn Thái Ất Thần Kinh. Thực chất việc nhân định thằng thiên là chuyện hiển nhiên từ cổ chí kim.

Sunday, October 8, 2017

Vũ Phá nữ mệnh luận sơ lược trợ cách ( phần 1 )



Với Vũ Phá ngộ Tuần Khoa Quyền Xương Khúc tam hợp có Kình Hỏa thì khả năng chế hóa cặp Không Kiếp rất lớn. Tức mệnh tạo khi qua hành vận gặp cặp đại sát tinh này sẽ không chịu tai họa nặng nề như các bố cục khác. Người viết luận lá số Vũ Phá cư Hợi ở đây là trường hợp giao hội tốt nhất của Vũ Phá tuy cũng gặp bố cục Sát là Hỏa Kình tuy nhiên là cách cục hay về tài cách. Một điểm chính luận ở bộ Vũ Phá là sự đánh mất thời gian, tuổi thanh xuân, phí phạm tuổi trẻ và bắt đầu trở nên tốt đẹp khi thành đạt kể cả bố cục đắc cách như trên. Một điểm xấu là đương số đi sai hướng để dụng bố cục Vũ Phá đắc cách và Tử Tham Kình Hỏa trợ lực lực cát hóa rất mạnh theo tài cách.  Riêng biệt cách Tử Tham là ham muốn, lý tưởng cách khi nhập cát hóa có khuynh hướng lấy lý tưởng làm động lực phát triển. Ở đây cách cục này đương số nên có khuynh hướng tới tôn giáo, sẽ chế hóa được sát tinh của nhóm Sát Phá Tham giao hội với nhóm sao bạo lực Tử Vũ Liêm cũng hợp với nữ mệnh. Ở đây tử vi đông a nghiên cứu trợ cách luôn chú trọng tính Không vì chính bố cục này có tính chất kháng cách mạnh nhất trong tử vi. Đương số cần thay đổi dụng cách vì ứng hợp với thực tế của hướng đi hiện tại là không phù hợp và phá cách khiến bố cục thượng cách của Vũ Phá trở nên hãm địa.


Ở đây nhiều trường hợp dụng sai chữ nhập Miếu Địa và Hãm Địa. Miếu và Hãm,  tiền nhân hướng tới một phần vị trí của bố cục như thường luận, một phần nhấn mạnh tính chất tác động của bố cục mà Thể tức lá số tử vi và Dụng là biến ứng với thực tế bên ngoài tác động. Đại vận đầu tiên ở bố cục Vũ Phá khá tốt hình thành văn cách, có sự tham muốn, ước mơ khá đúng hướng tốt đẹp. Nhưng càng trưởng thành đương số càng gặp trở ngại của bố cục Vũ Phá vì cách cục này bất lợi cho tuổi trưởng thành và chỉ hay khi tuổi trung niên, chủ gặp nhiều khó khăn, bất mãn phải trải qua dù mệnh tạo tốt đẹp. Ngay tại cách cục Vũ Tham đồng độ tại Sửu Mùi khá hay cũng luận giàu có trung niên. Với bố cục Vũ Phá của đương số mức khí hình ban đầu càng lớn thì đại vận trung niên hoạch phát càng mạnh. Mức độ khí hình cao sẽ đi liền với áp lực lớn, ở đây như một cách chế hóa ban đầu khi chịu áp lực và tạo nêm thành tựu sau khi vượt qua khó khăn. Ở ngay đại vận thứ hai có bố cục Cơ Nguyệt Đồng Lương với bản cung gặp sao Thiên Đồng. Ở đây có Thiên Đồng tại bản cung vận ngộ Kiếp Phượng Ấn giao hội Mã Khốc Khách. Ở đây nhập vòng Trường Sinh có tác động chế hóa lớn tới bố cục này. Thực chất ở đây cách cục cát hung tương bán. Sao Thiên Đồng chủ phúc, cũng chủ tập thể, với Thiên Đồng trong nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương hoàn chỉnh là ổn định, tuy nhiên ở đây gặp Kiếp Tồn Cô Quả Ấn Phượng ngộ Tuần và đắc Sinh Vượng.


Ý nghĩa của bố cục này là sự không yên bình, tồn tại bất mãn, khó khăn trong tình cảm, nhóm sao chủ tinh thần gặp bố cục xấu. Một Ấn Phượng có Tồn Kiếp ở đại vậm này để lại một dấu ấn khó phai. Với Phượng Ấn ngộ Đồng tại bản cung thì luận với cách Khốc ngộ Ấn tức kỷ niệm buồn ở đây, có thể gặp trường hợp người thân mất trong vận này nếu không cũng gặp phải đau buồn về gia đình. Ở đây vận này có tác động tạo nên sức chịu khó khăn cho đương số. Do bố cục luôn tồn tại tai họa ở vận này nên Vũ Phá luôn cần giải quyết các công việc tuy nhiên bản thân không gặp tai họa vì mệnh cách tốt đẹp và cung đại vận có Kiếp Tồn khiến Phá Quân gặp họa khi cố gắng thay đổi nhưng mọi việc vẫn tồn tại như cũ. Phá Quân có thể khám phá ra tai họa, nguyên nhân nhưng không thể thay đổi tình hình là cách cục của đại vận này. Với cách Đồng Kiếp tại bản cung thì họa tới là họa chung, họa tập thể . Thiên Đồng xấu là không may mắn, không được hưởng thụ mà phải làm việc. Sát Phá Tham vận này do có Cô Quả sẽ hiểu được luật nhân quả vì kết quả tới rất nhanh khi tạo ra hành động. Cách cục này mang ý nghĩa xấu, chủ dễ được đứng đầu, hay có thể lãnh đạo với nam mệnh, tuy nhiên với nữ mệnh ở đây tạo thị phi với Vũ Phá theo văn cách và hoạch phát nếu Vũ Sát theo tài cách.


Nữ mệnh có tính Âm bất ứng Dương không dụng được Vũ Sát mà đa phần phải chịu tai họa, nếu tính cách ban đầu như nam nhi, thể hiện ra bên ngoài thì có thể dụng cách này ổn định. Tuy nhiên còn hướng khác cần sử dụng nghề nghiệp phù hợp với bố cục. Đại vận này đã qua nhưng là quan trọng cho việc lấy khí hình của lá số nên người viết luận các hướng đi rõ ràng. Đương số trong vận này từ 16 đến 25 có thể theo Quan Lộc Cách hoặc Tài Cách. Lại hai khuynh hướng ổn định và đột phá. Nếu theo Tài cách theo hướng thay đổi đột phá mang tính chất của Không Kiếp tại vận này báo hiệu trước một sự khó khăn rất lớn, những bất ngờ ẩn sau sự thanh bình vốn có. Nếu theo tài cách cần lấy văn cách làm trợ lực, tức sử dụng những kiến thức hiểu biết hay mối quan hệ xã hội, cũng như danh tiếng đã có để thực hiện ham muốn, chủ động là Hỏa Kình cách.


Đại vận này tuy không tốt nhưng nhập được vòng Trường Sinh với tính chất khí hóa tăng cường chế ngự cặp Không Kiếp Lộc Tồn, một sự bất mãn luôn tồn tại và Tam Hóa ngộ Vũ Phá lấy đây làm cái để thay đổi phá bỏ tạo nên con người mới, cách cục mới. Quan trọng là có chơi lại được cách Đồng Cơ Không Kiếp hay không. Tuy nhiên đương số do ảnh hưởng từ đại vận hiện tại và đại vận đầu tiên chứa Khoa Kình nên dễ theo cách cục của Quan Lộc. Vì vậy đại vận này sẽ không có được khí hình tốt đẹp tức khả năng phẩm chất của tính cách, kinh nghiệm trong tài cách với mức tham vọng với xung quanh.

Saturday, October 7, 2017

Mức chế hóa trợ cách với tổ hợp Sát lược giản



Phân loại việc chế hóa các bố cục sát đa phần gắn với thực bên ngoài. Sát tinh được chế hóa hữu dụng, tuy không có tính ổn định lớn như bố cục của các sao được luận Cát Tinh nhưng mệnh tạo thành công theo hướng vượt qua gian khổ mà thành tựu, các phẩm chất tốt đẹp như quyết đoán, khả năng bám trụ với quyết tâm, suy xét nắm thời cơ đều có sự tác động của Sát Tinh. Ở đây luận bố cục Sát gọi chung cho Lục Sát Tinh gồm Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp và các Chính Tinh như Thất Sát, Phá Quân, Vũ Khúc, Cự Môn. Về hóa khí là Hóa Kỵ và bàng tinh là Thiên Hình, Kiếp Sát. Tử Vi đặc biệt theo Đông A gắn liền với thực tế, lấy việc thành tựu tức mệnh quý do chế sát hay mệnh nghèo, yểu bị sát tác họa để luận. Với mệnh tạo chứa bố cục tổ hợp Sát Tinh tùy mức độ gia hội để luận. Trường hợp giao hội và tạo thành cách cục lớn khó chế hóa nhưng khả năng thành tựu lớn, tức mức hoạch phát lớn hơn trường hợp còn lại. Trong thực tế việc mệnh tạo chịu tác động của Sát Tinh gồm hai trường hợp chủ động và bị động. Với mệnh tạo trường hợp chủ động nếu gặp bố cục Sát thì luận phần mức độ chế hóa cũng như trên. Mệnh có khí hình bên ngoài, ở đây luận khí hình tổng quan thấp thì đây thuộc kẻ ưa lấy của người khác làm của mình, do bất kiến trợ cách hoặc theo chiều hướng văn cách nên Sát Tinh tác họa ở tính cách ưa làm việc bất lương vì lợi ích.


Thường gặp việc ăn cướp giữa đường hay trộm cắp gây thương tích để chịu vi phạm pháp luật. Với trường hợp này không có một phần dụng Sát, chịu tác họa của Sát Tinh hay luận tỏng sát. Mệnh tạo khó thành tựu được sự nghiệp lớn do nhìn thấy lợi trước mắt không suy nghĩ bỏ quên cái lợi lâu dài, trường hợp tạo hành vi bất lương thuộc bố cục này vì không suy nghĩ tới hậu quả sau mà chỉ lợi trước mắt. Biết trước tai họa vẫn làm, vận cung trọng điểm sát tinh trùng phùng kích phát khiến đương số thực hiện các hành vi phóng hỏa, giết người, gây thương tích, hoặc một số trường hợp gây họa về dục tính do bố cục chứa Đào Hồng Không Kiếp, các trường hợp phạm tội ở trên báo chí về những việc này thuộc trường hợp trên. Do mệnh tạo khí hình ban đầu và tác động của hoàn cảnh tới kết hợp với tính chất của Mệnh gây ra. Cũng trường hợp này, mệnh tạo cuộc sống không có lý tưởng, hướng xây dựng hay cống hiến, nhìn lợi ích trước mắt không nhìn hậu quả, chế hóa dạng này rất khó khăn vì bố cục Sát Kỵ Hình trùng trùng, có thể khiến mệnh tạo từ cách cục chủ động trở thành nạn nhân của Sát. Như việc một kẻ giết người thì bản thân bị tử hình,... Một biến cách chế hóa một phần Sát của bố cục này là việc mệnh tạo có bố cục mệnh cách cao hơn trường hợp trên, đương số có khả năng đứng đầu,  tạo lập thành ổ nhóm, tổ chức với tư tưởng, khuynh hướng riêng thì mệnh cách đã có cách cục chế hóa Sát tuy không hoàn toàn nhưng đa phần ở dạng này biết suy tính thiệt hơn, văn cách giao hội trợ lực.


Tuy nhiên bố cục này vẫn có nguy hiểm lớn do Sát khi gặp vận xấu. Xét về trường hợp bố cục Sát biến đổi theo chiều hướng văn cách. Ở đây theo chiều hướng văn cách bao gồm giao hội các văn tinh và việc chế hóa theo khuynh hướng tình cảm, nghĩa lý tương trợ để luận. Mệnh cách hướng Sát ở vị trí chủ động khi bố cục Văn Cách ở mức thượng cách, với đa phần Sát Tinh được chế, như việc Không Kiếp được Phá, Cự hay Tả Hữu Quyền Lộc, hoặc như bố cục Kỵ Hình được Xương Khúc, Tam Hóa, Thanh Long thuộc cách cục này. Ở đây mệnh tạo có bản tính và phẩm chất tốt của Sát như việc quyết đoán, kiên trì, chờ đợi thời cơ. Do sát được chế nên cái dễ nhìn thấy là mệnh tạo có phần cư xử văn hóa, dễ thân cận nhưng quyền lực lớn. Ta hay gặp ở những người kinh doanh thành đạt, những chính trị gia quyền lực lớn, những người có uy tín ảnh hưởng về một số lĩnh vực. Ở đây do được văn cách trợ lực, như việc có Xương Khúc chủ hiểu biết, chữ đạo đức, tình cảm trái với Sát. Sát Tinh được chế hóa thành khó khăn và quyết tâm. Một chữ Sát nhưng biến hóa vô cùng khi ứng hợp bên ngoài, với các bố cục đều do Khí và Hình dẫn dắt để phát khởi ngoài thực tại.


Ngay ở bố cục hóa Sát thành Quyền này chia làm nhiều khuynh hướng biến đổi tùy thuộc vào khả năng dụng của bố cục Mệnh. Như trường hợp người đứng đầu tổ chức đứng lên đấu tranh cho quyền lợi có cách cục trong tử vi và ý nghĩa Sát cách khác hoàn toàn với việc, một mệnh tạo quyết tâm chịu gian khổ phấn đấu để giành được địa vị sinh sát cao trong xã hội. Như đã luận ở nhiều bài viết về sính chất của Kình Dương chính là sự cạnh tranh, tranh giành, cướp bóc, tiến công, chống trả, gây dừng tùy từng bố cục để luận tính chất của Sát Tinh này. Khi được chế hóa thì Kình có thể tốt đẹp như giành lại công bằng cho kẻ yếu, tấn công tiêu diệt kẻ gây nguy hại, xây dựng công danh, chủ động trước khó khăn,... Bố cục biến hóa rất lớn do khí hình và bản thân tổ hợp cách cục. Khí hình phần nhiều là sự tác động của xã hội quanh nhận biết đương số hướng tới. Như cổ nhân hay luận " Vào thời bình thì chúng một lũ ô hợp, khi chiến loạn hết thảy đều lập công lưu danh hậu thế". Khí hình của vận nước tác động tới cách cục Sát được luận và nghiệm lý quan trọng của Tử Vi Đông A, cũng thường hay nghe " Thời thế tạo anh hùng" là bố cục của dụng chế hóa Sát khi ứng khí hình vượng.


 Người viết luận mệnh ứng cách cục bần tiện như phú giải thí nhiều trường hợp Lộc Tồn ngộ Không Kiếp Kỵ hình thành cách cục phá tài nếu theo tài cách, là bố cục mang họa vô đơn chí, dễ vong mạng hay bệnh nan y khi vận xấu, trùng phùng đại tiểu vận. Tuy nhiên đương số chế hóa bố cục này theo hướng nghiên cứu khoa học, phát minh sáng tác nên ứng hợp có được danh lợi và tiền bạc khá đầy đủ. Tuy vẫn mạng vong khi vận tổ hợp Sát then chốt nhưng hoàn toàn khác với lá số tử vi luận nếu không nhìn khí hình. Trường hợp mệnh tốt nhưng thực tế tầm thường cũng không hiếm gặp. Ở bố cục chế hóa Sát chủ động cách phân biệt ở mức độ của Văn Cách trợ lực hay theo khuynh hướng Võ Cách. Với trường hợp chế hóa theo hướng chịu Sát tác động luận phân các mức độ trợ cách và khí hình như trên để luận rõ. Về việc khí hình thường lấy cung trọng điểm của bố cục Sát nhìn quá khứ thì được khí hình ban đầu, tuy khác với thực tế do lá số tử vi luôn chuyển động nhưng có giá trị để xét nguyên cục của bản mệnh. Một câu bé có trí tuệ rất cao là Jacob Barnett mắc bệnh tự kỷ, cũng nhiều người vĩ nhân mắc bệnh này. Ở đây là sự chế hóa của Sát mà do từ khí hình tác động mạnh. Do tác động của hoàn cảnh nơi giáo dục mà từ nhỏ được tiếp xúc với khoa học và giáo dục hướng tới khoa học, có khuynh hướng ưa thích thiên văn và vật lý. Nếu trong trường hợp mệnh tạo sinh ra tại khu vực dân trí thấp, thiếu lương thực, đói khổ hay ở vị trí khác như nước ta thì không thể chế hóa được bố cục này mà đương số phát triển theo chiều hướng khác. Cũng như việc kẻ chỉ giỏi văn làm việc đấu đá chân tay là bất hợp. Tử vi luận cũng như vậy.

Tuesday, October 3, 2017

Tử Vi và tri kiến phương Đông ( phần 2 )


Tất nhiên tử vi xem ở con vật sẽ loại trừ nhiều tinh đẩu không cần thiết, trong đó chỉ giữ phần cốt yếu các sao mô tả tính cách, bản tính có từ thời bàn cổ. Một con vật đầu đàn là con vật được tôn trọng, có thể do sức khỏe hay do trí khôn. Trong một đàn gia súc hay gia cầm rõ thấy bản tính của từng con vật có phần khác nhau, và rõ ràng nhận ra nhiều tính cách của con người như cạnh tranh, nhẫn nhịn cũng xuất hiện ở đây. Tài liệu và nghiệm lý huyền học tiền nhân đã khảo cứu rất công phu tuy nhiên người viết không bàn sâu về vấn đề này. Tử vi với nhiều khám phá của tiền nhân về các thuyết Âm Dương, Ngũ Hành, Vòng Trường Sinh,... với các sao là khí vị của cơ thể cũng liên quan một phần tới Thiên Văn, trời đất có tính linh dị mà đưa ra dự đoán cuộc đời như một cái máy định trước. Vì vậy người xem tử vi hay toán mệnh cảm thấy cuộc đời như được định sẵn, không tồn tại nhiều cho ý thức và suy nghĩ mà hành động có phần theo bản năng , có thể dự đoán được một phần lớn của tính cách và đại vận tốt xấu nếu đương số có cuộc sống bình thường. Xã hội tác động lớn tới nhận thức và ở đây chính là khí hình của mỗi mệnh tạo. Dụng hay không là ở mức độ khí hình này. Cung mệnh và cung an Thân cho thấy sự gắn kết nhưng thực chất lại rời rạc của cơ thể và suy nghĩ. Tuy vẫn có sự liên kết, nhưng cái đơn giản là ngay trong bản thân ta, cũng chỉ có quyền làm chủ một số phần. Không thể tự bắt tim ngừng đập, thân thể sống mãi không già, đặc biệt là không suy nghĩ trong một thời gian. Cái thân thể như được tâm thức gắn vào và không hoàn thiện. Do nhìn thấy sự tiến hóa của các loài vật do dụng tâm sở do hoàn cảnh tác động thì tiền nhân luận rất nhiều loại vật như rùa sống rất lâu, tê giác có cơ thể cứng như sắt, mới đây các nhà khoa học thông cáo trên báo đài tìm thấy loài vật bất tử.


Trong khi con người phát triển theo nguyên thủy tới nay chủ do tranh giành thức ăn, tích lũy của cải, làm việc hay phát kiến từ các thời đại đồ đá, đồ đồng tới gần đây để tăng năng suất tạo ra của cải cũng được nhiều thành tựu lớn. Khi một bộ phận người Phương Đông có thức ăn đủ để duy trì sự sống, suy nghĩ về cái chết, hướng tâm tới tìm kiếm về trường thọ, tìm hiểu chính nội tâm và bằng phát triển ngay trong nội tâm, ép hoàn cảnh bằng mục đích khám phá nội tâm,  như các loài vật chịu tác động của môi trường để thích nghi tiến hóa. Cũng như vậy, dần phát hiện và tách bạch hai phần Tâm Thức và Thể Xác, cùng với thành tựu, hiểu biết về các vòng khởi phát hành khí như vòng Trường Sinh thì chữ luân hồi được đặt ra câu hỏi. Với tốc hành tâm hướng tới mục đích trong rất nhiều giai đoạn lịch sử được thực hiện bởi nhiều thế hệ nghiên cứu,  thì thành tựu cũng được khoa học Phương Tây công nhận và bắt đầu nghiên cứu.


Người Phương Đông do tìm hiểu sâu trong nội tâm, ngay chính tâm thức để làm nội dung. Ở đây sử dụng chính là Thiền Định. Thí như người mù từ thuở nhỏ có một thính giác phát triển siêu việt hơn bình thường vì tâm tập trung ý vào việc phát triển nghe,  do môi trường bắt buộc định hướng không gian bằng âm thanh. Các nhà khoa học Phương Tây đánh giá Thiền Định khai mở vị trí tuyến tùng có cấu tạo có phần như mắt nhưng đã bị thoái hóa khi trưởng thành. Và Thiền Định khơi dậy con mắt đó. Không cần các nghiên cứu khoa học thì Phương Đông đã có từ xưa bức tranh mô tả con mắt thứ ba ở trên tượng thần từ rất lâu, ngay cả thuyết Âm Dương cũng biểu thị đúng tới mức độ rất rộng lớn, gần như mọi vật và mọi tính chất. Việc Thiền Định thường mang lại nguy hiểm vì các suy tưởng rất khó nhận biết như tiềm thức bắt đầu hiện lên ở dạng tưởng thức. Như một người ban đầu tập đi xe đạp, gồm các động tác phức tạp. Hay bước đi đầu đời thì sẽ chú tâm tới từng động tác nhỏ. Tới khi thành thục trong tâm khởi lên thì tưởng tự hoạt động như vô thức mà không cần chú tâm khiến bản thân tưởng chừng như không tồn tại các động tác nhỏ mà tự động thành từ ngữ Đi. Sau này lại có thể vừa đi xe đạp, vừa giữ thăng bằng, vừa quan sát và một tay nghe điện thoại nhưng vẫn hiểu được cuộc gọi. Thiền Định có chức năng khai mở tâm thức, người đã thực hiện sẽ tự hiểu câu nói trên, vì vậy được đánh giá và có cấu tạo như con mắt soi sáng. Ở đây cũng thường được gọi là linh tính. Khi thiền định một thời gian thì có thể suy tưởng một hành động và kết quả trong đầu. Một thí nghiệm tưởng tượng nổi tiếng người viết có cơ hội đọc của bác học Anhxtanh thuộc dạng này, khiến sự liên tưởng có thể đưa ra kết quả đúng với nhận thức.


Cũng như vậy thì khi hoàn thiện suy tưởng, người thực hành hướng tới năng lực đặc biệt. Giải thích cho việc nhiều người tu hành như thiền sư có năng lực đặc biệt. Khí công bí truyền cũng cần tưởng ấm để hoạt động mạnh, việc tập trung và thiền định quán tưởng là cơ bản của khí công. Một số dạng đặc biệt đã được công khai ngoài đời thực như nhìn xuyên báo khi bị che mắt của người phụ nữ ở nước ta là dạng sử dụng tưởng ấm này. Cụ ông người Ấn Độ không ăn trong thời gian dài nhưng cơ thể tự thích nghi, tự hấp thu lại nhiều lần, tưởng thức việc nữ thần rót thuốc tiên vào miệng mình. Việc khí công sư Chu Đình Tước hay Zhou Ting Jue công khai ra khoa học khả năng đốt cháy vật bằng phát nội khí. Thực chất ở khí công bí truyền còn rất nhiều khả năng đặc dị, đặc biệt có một khả năng vận âm thanh rất lớn của một môn phái mà người viết có cơ may được biết tới. Tuy nhiên Thiền Định đi liền với sức tập trung hướng tâm hoàn toàn trên đối tượng, ứng với Không Vong trong tử vi sức tác động rất lớn, cũng chủ sự không thể, cái hư ảo, không thực, vì vậy nếu loạn tâm thì ắt những thức vi tế hiện lên và hiện lên ảo giác là điều dễ gặp. Điều này hiện rõ và tưởng ấy không phải sự thực, tương tự khi đang mộng. Vì vậy, thường nhiều kẻ phải lên núi, đến nơi vắng vẻ để tu luyện yên tĩnh do vậy. Mạng sống của con người là khá lâu nên việc thành tựu khi xét với việc hướng tâm tiến hóa của các loài vật, có thể nhanh hơn.


Các tôn giáo Phương Đông đa phần lấy Thiền Định để tu luyện. Nếu người luyện khí công hay sự biến đổi khi tâm hướng tới mục đích như khả năng đặc biệt ở trên là có thể. Việc với lịch sử là 2500 năm từ thời cổ hướng tâm tới chữ tự tại, năng lực nội tâm với hàng vạn người nhiều thế hệ trải qua. Hay ở Đạo Giáo cũng trải qua thời gian rất lâu hơn 2000 năm với thuyết Năng lượng, chân khí, âm dương, ngũ hành, kinh dịch được nghiệm lý bằng các môn toán mệnh hay huyền học tới nay. Ở nước ta trong thời loạn có hòa thượng Thích Quảng Đức với trái tim không cháy khi tự thiêu trong lúc thiền định. Vua Trần Nhân Tông không vô cớ tin và hướng theo Phật Giáo. Ở Trung Quốc có hai hòa thượng là Tuyên Hóa và Hư Vân tự truyện về cuộc đời với các nhân chứng về việc lạ ở đời về ma quỷ và không gặp việc lên tiếng đính chính  câu chuyện hoang đường, giả mạo ở Trung Quốc. Tất nhiên cũng với khí công sư Chu Đình Tước khi nghe một chuyện lạ như vậy thì nhiều người sẽ bán nghi và cần sự thật minh chứng đáng tin cậy là cần thiết khi có Thái Tuế chủ thật thì luôm có Thiên Hư chủ giả ở đối cung xung chiếu. Hòa thượng Hư Vân được Từ Hi Thái Hậu kính trọng nhưng không cần lợi ích tiền bạc ắt cũng có lý do. Tuy không có được những thành tựu khoa học như Phương Tây, nhưng người Phương Đông có những chuyện rất kỳ lạ, huyền diệu mà phù hợp với khảo nghiệm của Phương Tây như thuyết Âm Dương hoàn toàn đúng, cái ta hay gặp là điện tích dương và điện tích âm, tấn công và phòng thủ,.. tiền nhân chỉ nhìn từ tự nhiên để luận ra.

Thursday, September 28, 2017

Luận vận mệnh Thiên Lương cư Hợi



Mệnh Lương thì cái nghiệp là sự bày tỏ, lương tâm, khi đắc cách thì được bên ngoài đánh giá là người có tâm và thành đạt. Cái tâm của Thiên Lương nằm trong bộ Âm Dương Lương khác với Cơ Nguyệt Đồng Lương. Với bộ Âm Dương Lương có tính dương, ở đây bố cục bày tỏ ra bên ngoài càng trở nên quan trọng. Mệnh tạo đi theo hướng y học đúng hướng với nghiệp của sao này. Thiên Lương này có quyền khá lớn do được Phượng Tuế Quyền Ấn, ở đây chữ Quyền đi với Thiên Lương tức là uy tín, thường là những quan điểm bày tỏ ra bên ngoài. Nếu một thầy bói cần chữ Đồng Linh Quyền tức có quyền lực rất lớn khi phát ra những lời dự đoán thì sao Thiên Lương này bày tỏ quan điểm của cá nhân dễ được sự hưởng ứng, ngưỡng mộ. Tuy nhiên với bố cục này chưa đủ để tạo nên một sự nghiệp phi thường. Một chữ Hỏa Tồn Kỵ Triệt là cần thiết để hoạch phát tài danh tuy nhiên ở vấn đề mang họa cũng lớn hơn nhiều. Với Hỏa Tinh may nhập miếu và được chế hóa một phần khi đi với Thiên Lương là cách cục xấu do Thiên Lương ở đây chủ phối hợp quan trọng với bên ngoài thì cách Hỏa Kỵ Triệt có Tuế khiến mệnh tạo mắc phải lỗi lầm là sự bộc phát, đa phần liên quan tới nóng nảy và khó chịu khiến bố cục Lương đắc cách trở nên phá cách một phần.


Sao Hỏa Tinh rất kỵ đi với Âm Dương Lương đặc biệt là cách Tồn Hỏa Kỵ tức không có lý do gì ta cũng vẫn tức giân, bày tỏ thể hiện bằng lời nói hay hành động thiếu tính kiểm soát, nhẹ nhàng và binh tĩnh. Đây là một điêm yếu của mệnh tạo và có tác động rất lớn khi đi qua các đại vận. Đại vận đầu tiên tại cung mệnh hình thành cá tính ưa biểu lộ ra bên ngoài, có tính nhiệt huyết, có sự ưa được ngưỡng mộ, trọng vọng với bản thân, dễ được thu hút và được nổi bật trước đám đông. Một sao Thiên Lương ưa thể hiện và ở đây Thiên Lương này khá may mắn, cuộc sống tình cảm tuy có phần mâu thuẫn, bất hòa của gia đình sẽ ảnh hưởng tới đương số. Tất nhiên Âm Dương Lương này vẫn rất may mắn vì tránh được Kình Hao hay Đà Hao và đắc vòng Lộc Tồn tương đối hợp cách tránh được cách cục phá cách với vòng Lộc Tồn là điểm tốt của lá số. Sau giai đoạn này đương số có được sự tự tin, lương tâm của bản thân được hình thành và phát triển theo chiều hướng tốt. Mệnh tạo thuộc cách mạnh bạo thực hiện việc không cảm thấy có lỗi với hản thân. Tuy nhiên một phần quan trọng ở cung độ nhị hợp của Liêm Trinh ngộ Cô Thần là sự thanh liêm, liêm khiết, theo dõi liên quan rất lớn tới mệnh tạo, trợ giúp mệnh tạo khi ở vị trí nhị hợp. Cũng vì vậy cách Minh Lộc Ám Lộc hay Khoa Minh Lộc Ám có giá trị không thua cách Lưỡng Lộc trùng phùng. Ở đây ngôi sao lương tâm nhị hợp với ngôi sao liêm khiết, liêm chính sẽ trợ giúp tác động lẫn nhau.


Một sao Thiên Lương độc tọa với bố cục không mấy hay ban đầu tuy nhiên có tính chuyên môn và khả năng uy tín tạo ra mạnh thuộc dạng cát hung tương bán nên cá tính phát khởi khá tốt khiến khí hình vượng theo chiều hướng này. Cung độ đại vận thứ hai vào cung Tuất có Tử Tướng đồng độ bản cung gặp Khoa Khúc Quả, tam hợp đầy đủ nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm. Với bố cục Tử Tướng mang tính chất ổn định và có tính chất tìm hiểu, nghiên cứu về học vấn nên đương số theo con đường văn cách là hợp cách, phát huy được điểm mạnh của bố cục Khoa Khúc là văn tinh. Ở đây cũng chế hóa được Hóa Kỵ tuy nhiên dụng với Hỏa Tinh khá khó khăn. Ở đại vận này đương số dễ phát khởi lý tưởng cống hiến, sự tương trợ và tình cảm khởi dậy. Ở đây bố cục Tử Tướng không có Tả Hữu nên khó được sự đồng cảm, trợ giúp lớn. Tử Tướng là cách tiếp nối truyền thống, đại vận này sẽ có sự định hướng nghề nghiệp từ cả cha mẹ kết hợp với khuynh hướng của mệnh tạo. Ở cung độ Tử Tướng tại đây như đã luận mang tính ổn định và có tính chất kế thừa nên tốt hơn cần có tình cảm và sự nhiệt tâm với cấp trên, có thể là thầy cô khi đang còn học tập sẽ thu được lợi ích rất nhiều từ đó. Một Vũ Phủ ở trong tam hợp cung ngộ Triệt ảnh hưởng lớn tới bố cục này. Cái gần nhất là vấn đề tích lũy tiền bạc và kiến thức khó được hoàn chỉnh, Vũ Phủ là ngôi sao tài lộc, cũng chủ lời nói vì vậy đại vận này có thể khiến cách cục giao tiếp trở nên khó khăn hơn.


 Thực chất đại vận này không có biến cố lớn để luận, chỉ có cách Đà Hao chủ muộn, sau, bố cục Tử Tướng khá hay và yên bình, cách cục hướng về văn cách chủ lợi ích học tâp, nghiên cứu.  Do chỉ còn năm sau hết vận nên sẽ luận tập trung vào năm này trong đại vận. Năm tiếp theo Mậu Tuất sẽ gặp biến động khá lớn trong phương diện tình cảm và sự hoạch phát trong học tập vì gốc đại vận chủ yếu về văn cách và tình cảm. Thất Sát nhập vận ngộ Khôi Đà Hình gia Phá Hồng Kình Linh, cung độ Tham Lang ngộ Trường Sinh có Tuần. Nếu không đắc vòng Trường Sinh bố cục này sẽ nguy hiểm vì hình thành cách Sát Phá Kình Linh Hình là bố cục của sự tranh đoạt, mâu thuẫn, cãi cọ vì tính SÁT của Sát Phá kỵ thêm Kình Hình Linh Việt. Ở đây đắc vòng Trường Sinh có khả năng cát hóa hoàn toàn bố cục Sát Phá hướng tới tham vọng của Tham Lang ở đây là Tham Tuần ngộ Trường Sinh, một sự hoạch phát sẽ xảy ra trong tiểu vận này. Ở đây bố cục cung trọng điểm xuất hiện tuy nhiên không quá mạnh, do sự xuất hiện này mà năm sau sẽ đánh mất sự ổn định của đại vận. Với Kình Việt Linh Hình thì xuất hiện sự vượt quá, quá hạn, đây là cách cục không hay mang tính chất xấu đặc biệt khi có Sát Phá. Vì vậy cần cẩn trọng vì Thiên Lương bản cách đã gặp Hỏa Kỵ nên tiểu vận này tác động theo chiều hướng xấu về mặt này. Năm này không phải là năm tốt, may được Trường Sinh nên không gặp tai họa lớn. Ở trong tổ hợp này khi lưu tiểu vận tới chỉ vị trí của Tham Lang mang ý nghĩa tốt đẹp, các vị trí còn lại của Phá Quân và Thất Sát tùy gốc đại vận nếu chế hóa được thì phát, nếu phá cách thì tai họa lớn.


Đại vận tiếp theo nhập cường cung Phúc Phối Di bản cung có Cự Cơ Phi Lộc ngộ Mã Không Kiếp Đồng cung VCD có Tang Môn. Ở đây bố cục Cự Cơ Đồng ngộ Phi Phục Thanh giao hội Tang Hư Mã Khách và Không Kiếp nhập miếu tại cung Tị. Bố cục này mang ý nghĩa xấu nếu xét về mặt tai họa. Cũng may mắn bản cung chưa gặp Không Kiếp tại đây và Cự Môn có thể một phần chế hóa cặp này tuy nhiên không hoàn toàn và bị tác họa lớn của cặp Đại Sát Tinh. Với mệnh Thiên Lương trong bố cục Âm Dương Lương bố cục ban đầu bất ổn định nay ngộ cách Đồng Cơ Cự chủ bế tắc có Không Kiếp hình thành cách " Thiên Đồng ngộ Không Kiếp bất cát". Thiên Lương nhập cung vận này tính thăm trầm lớn, gặp nhiều việc không may và sự hoạch phát hoạch phát xuất hiện nhiều. Bản cung một chữ Tuần khiến tai họa đến không thể tránh, chữ Tuần ở đây có tính tăng nặng. Đương số nếu dụng Khoa tức thiêm về nghiên cứu sáng tạo trong chuyên môn thì một phần chế hóa được bố cục. Ở mệnh của các nhà khoa học thì luôn có cặp Không Kiếp để tạo ra một cá tính khác thường, trái truyền thống cũng khiến Không Kiếp dụng được. Nếu không thì ta hay gặp trường hợp Không Kiếp vô đạo, trái đạo đức thì tai họa sẽ xuất hiện. Trợ cách đại vận này nên chuyên tâm vào việc nghiên cứu, ở đây tính động rất lớn nên tránh cả những chỗ đông người vì Tuần Đồng Kiếp dễ gặp phải họa tập thể, khác với Cơ Không Kiếp là trong tập thể riêng ta bị họa. Thiên Lương đặc biệt Lương Tuế kỵ đến vận này, cần rõ về đặc tính, đặc biệt các lưu niên tức năm Dần, Tuất, Mão, Mùi nếu có trong đại vận cần cẩn trọng hơn. Đại vận xấu nhưng không tới mức vong mạng, trợ cách thiên về dụng bộ Không Kiếp Tuần Đồng.


Đại vận từ 35 tới 44 nhập cung độ Tham Lang ngộ Trường Sinh có Tuần ở bản cung thuộc cách Sát Phá Tham hoàn chỉnh, có phần tốt hơn khi ở vị trí Tham Lang. Đây là đại vận cát hung tương bán, tính hung khá nặng nề, do tính Sát nặng nhưng được chế hóa cũng không đủ, mà có khuynh hướng dễ gặp đổ vỡ, bất ổn, chữ Sát tăng nặng tới mức độ cao, một Tham Lang có Việt Linh Hình Kình Khôi thì dễ gây ra tội trạng, cũng dễ gặp cách tai họa về điện hay sét do mệnh là Thiên Lương chủ đầu , tuy nhiên do Tham Lang tính cát hóa rất lớn, được cách Tham ngộ Trường Sinh trong trường hợp này thì đương số do ngành nghề bác sĩ nên sử dụng nhiều tới kim khí vào dụng cụ bằng kim loại tới bệnh nhân là hợp cách. Một Trường Sinh nhập cách thì bố cục trên thì không đủ lực cát hóa, tai họa vẫn tồn tại. Ở đây cái dễ gặp là bệnh về máu, đương số có thể gặp bệnh về huyết áp hay máu mặc dù là bác sĩ, cũng cẩn trọng khi mệnh và ngay cung an Thân đồng độ có Hỏa Kỵ thì tới vận gặp Linh Tinh, ở đây lại là Việt Linh Hình Kình Tuần ngộ Sát Phá là tối kỵ, đại vận này sát tinh trùng phùng lại không có Khoa Quyền chế hóa chỉ một sao duy nhất là Tham Lang ngộ Sinh lại là cách Tham Tuần chủ trúng họa. Đương số cần cẩn trọng trong đại vận này vì tai họa tự rơi xuống đầu, về vấn đề tâm thần cũng có thể gặp. Ở ngay trong làm y tế người viết cũng đã luận cho nhiều lá số bản thân là bác sĩ, dược sĩ nhưng gặp bệnh nan y, bệnh tật không trừ ai. Trường hợp này cần biến TUẦN trở thành phòng vệ, phòng trừ. Bố cục không dừng lại ở đây vì xuất hiện một cách cục rất độc là Quế Sứ Hoa Thương ngộ Thất Sát, cách cục này có câu phú nổi tiếng " Quế Sứ Hoa Thương tối hiềm giao hội, mạc phùng Sát diệu đa khổ tai ương". Chỉ với cách cục trên đã mang tính nguy hiểm lớn, ở đây gặp thêm bố cục Việt Linh Hình Kinh Tuần, may không thêm Không Kiếp nhưng cũng là rất nặng nề.  Tất nhiên mức nguy hiểm tới tính mạng cũng còn chưa chắc chắn tùy thuộc vào khả năng chế hóa do trợ cách và khí mệnh của đương số, một chữ Lương Tuyệt với Hỏa Kỵ tại Mệnh Thân dường như khá yếu trước bố cục sát hóa này, rất cần lưu tâm tới đại vận này vì xuất hiện dấu hiệu của Tuyệt Khí, người viết sẽ luận trợ cách để tránh một phần họa và cần mức khí hình vượng để chế hóa bố cục nặng này.  Do cách Quế Sứ Hoa Thương có Thất Sát kinh nghiệm đây là bố cục của vận chết, đặc biệt trong trường hợp này. vận này có phần khó khăn để đương số theo trợ cách này tuy nhiên đây là cần thiết. Một lá số người viết từng luận mệnh Dương Lương cư Mão có Khoa Lộc ngộ Tang Môn đắc cách ở Mệnh Thân bố cục tốt đẹp hơn lá số này. Đại vận chết gặp cách Thất Sát ngộ Quế Sứ Hoa Thương phùng Kình Linh Việt có Hỏa nhị hợp đương số tử mạng do bị ám sát, khi đó chức vụ rất cao trong xã hội, cũng khi nhập tiểu vận Cự Đồng. Ở đây hạn tuyệt mệnh tức dòng khí đã tuyệt, nếu ứng hợp với khí hình bên ngoài thực tế thì không chết bằng cách này thì bằng cách khác. Tuy nhiên lá số trên ở thời chiến nên có phần khí hình xã hội thời đó dễ tử mạng hơn bởi tính Sát ứng hợp với thời kỳ bất ổn của vận nước, đang lúc chiến tranh khí hình Sát rất nặng nề, thời bình luận khác. Ở đây nếu đương số nhập đại vận ở cung độ Thất Sát thì luận mạng vong, ở cung độ Tham Lang thì trợ cách có thể chế hóa một phần của các cách theo hướng dụng Sát. Nếu gặp tiểu vận nhập cung độ Sát Phá hay tiểu vận Thiên Đồng cần rất cẩn trọng bản thân.

Tới vận 45 tới 54 có Âm Dương ngộ Kỵ Triệt, ở đây quay về tam hợp Mệnh Tài Quan và bố cục này khá tốt, tuy nhiên ở bản cung đại vận thì có phần bị ghét bỏ do cách Kỵ Triệt, dễ chuốc lấy thị phi, ghen ghét nhưng không nặng nề. Đại vận này do gặp bố cục Lộc Tướng Bệnh nêm mang tính ổn định cao, nếu đường công danh phát triển tốt đẹp, về việc tình cảm thì có phần bất ổn, tuy nhên cũng là mâu thuẫn nhỏ, có thể mở rộng mối quan hệ xã hội để đạt thành tựu trong vận này. Trong đại vận này nếu gặp năm Hợi Mùi lại hoạch phát tài danh, theo chiều hướng tốt vì gốc đại vận ưa gặp Không Kiếp hội họp.