Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Showing posts with label Tang Hư Mã. Show all posts
Showing posts with label Tang Hư Mã. Show all posts

Sunday, August 26, 2018

Sao Thái Âm tổng luận





Thái Âm là tinh đẩu thuộc nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương khi hoàn chỉnh. Trường hợp khi Thái Âm giao hội với nhóm Cự Nhật hình thành cách Âm Dương Lương. Sao Thái Âm và Thái Dương là hai sao tượng âm dương trong tử vi. Thái Âm luôn tam hợp với Thiên Lương. Khi luận cách cục giao hội luôn phối hợp bởi cách Âm Lương với các Chính Tinh. Luận tính chất Thái Âm thủ mệnh khi xét chung là luận tổ hợp Âm Lương. Thái Âm luôn nằm trong nhóm Âm Dương Lương hoặc Cơ Nguyệt Đồng Lương tạo tính chất riêng biệt cơ bản của hai bố cục. Đây là hai nhóm sao hiền hòa, ổn định, không hàm chứa Sát cách nên mệnh tạo Thái Âm hoặc Thiên Lương có bản tính đa phần âm nhu, hiền lương. Nữ mệnh cách nhập mệnh hai chính tinh này hợp cách. Thái Âm có âm tính. Trong vạn vật đều chứa âm dương. Mệnh cách có Thái Âm thủ mệnh tính âm nhu vượng, tuy nhiên không phải mệnh cách hoàn toàn không có dương tính. Chính tinh nhập mệnh chủ tính cách thường trực, qua vận hay tác động của hoàn cảnh biến đổi. Khi giao hội với bàng tinh, tính chất cơ bản chủ âm không thay đổi, tuy nhiên phối hợp định cách biến hóa phức tạp. Thái Âm nhập mệnh phân hai trường hợp độc tọa hay đồng độ với Chính Tinh khác. Trường hợp độc tọa tại cung Tị Hợi Thìn Tuất Mão Dậu. Giao hội với Thiên Cơ tại Dần Thân, với Thiên Đồng tại Tí Ngọ và Thái Dương tại Sửu Mùi hình thành tổ hợp Chính Tinh luận phối hợp tính chất cơ bản của tinh đẩu khác biệt với trường hợp độc tọa. Thái Âm có tính chất âm khi dụng thể chủ che dấu, âm ám, mưu tính, quyền ngầm. Trường hợp tăng tính chất suy nghĩ, tính toán khi giao hội với Thiên Cơ tại cách Cơ Âm. Với cách cục Cơ Âm cũng tăng mạnh tình ôn nhu, hiền lương tại tâm tính và tướng mạo của mệnh tạo.





 Trường hợp Thái Âm đồng độ Thiên Đồng hình thành cách Đồng Âm chủ ưa đóng góp lợi ích tập thể hơn bản thân, Đồng Âm cách có tính cách nhi đồng, chủ do phối hợp tính chất từ Thiên Đồng. Xét về cách cục Cơ Âm có phần sắc sảo, tính toán hơn với mệnh cách Đồng Âm. Với cách cục Đồng Âm ngộ Tang Môn với nữ mệnh đắc chính cách của Đồng Âm, thường luận phẩm chất tốt ưa đóng góp âm thầm tới cộng đồng. Trường hợp giao hội Sát cách không luận vậy, biến hóa theo Sát Kỵ. Mệnh tạo cách cục Đồng Âm ứng hợp chữ phúc hậu, được đánh giá tốt hơn với Cơ Âm. Tuy nhiên về tài năng, khả năng ứng biến mệnh cách Cơ Âm luận hay. Hai cách cục trên hình thành khi nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương hoàn chỉnh. Trường hợp còn lại thuộc cách Âm Dương đồng độ cư Sửu Mùi. Ba cách cục đồng độ trên xét tính chất không xét tới vị trí sáng tối của Thái Âm. Âm Dương đồng độ cư Sửu Mùi tam hợp chiếu Thiên Lương và cung độ VCD ngoại Cự Cơ xung. Đây là cách cục có một phần thị phi do bản cung VCD chịu tác động của Cự Môn trong cách cục Cư Cơ Đồng. Âm Dương Lương tại đây có tính chất ưa thay đổi, chủ thời gian ổn định, là cách cục quan hệ xã hội. Do mang ý nghĩa ổn định, may mắn nên không gặp khó khăn bế tắc tạo kích phát tới bố cục. Âm Dương Lương chịu tác hóa của Thái Dương giao hội Thái Âm. Thái Dương có dương tính, ưa công khai, nhiệt huyết. Âm Dương đồng độ chịu tác động của hai chính tinh này nên có phần rối ren trong bố cục. Khuyết điểm thường chủ chóng thay đổi khi chưa thành tựu gặp khó khăn, không bền vững, bằng lòng với cuộc sống. 




Trường hợp Thái Âm độc tọa tại các cung Tị Hợi Mão Dậu Thìn Tuất phân hai cách cục Âm Dương Lương và Cơ Nguyệt Đồng Lương định cách toàn bố cục, các vị trí của Thái Âm nhập vượng hoặc hãm tác động tới sứ cát hóa của sao này. Thái Âm cát hóa mạnh khi nhập Hợi cung. Đây là cách cục Nguyệt Lãng Thiên Môn thuộc Âm Dương Lương cách với Thái Dương đồng độ Thiên Lương có tính hướng lên, phát triển. Thái Âm nhập mệnh bố cục này chủ hưởng thụ, thuộc cách cục ưa bình ổn, khó tiến nếu không Sát hóa toàn cục. Nếu nữ mệnh nhập cách cục này chủ tâm tính ưa việc an ổn, cuộc đời ít biến động lớn tuy nhiên cũng khó thành tựu. Với nam mệnh cách Thái Âm cư Hợi cần giao hội Sát cách chủ khó khăn hóa Âm thành Quyền cách luận tốt, thứ tới dụng Văn cách. Mệnh cách Thái Âm cư Hợi thường được luận tốt ở phẩm chất, luận sự nghiệp thành tựu không đắc trợ cách là mệnh thường. Cách cục Âm Dương Lương tại đây chủ mối quan hệ xã hội. Khi tốt là bản thân có các mối quan hệ tại tầng lớp cao của xã hội, gia đình xuất thân đa phần tốt đẹp do Phụ Mẫu định cách bởi Âm Dương. Khi Sát hóa mệnh cách Thái Âm tùy từng bố cục luận sai biệt chủ tính chất âm ám, tàn nhẫn, mưu mô, tranh đoạt. Đây là trường hợp Thái Âm giao hội Sát cách hóa Quyền. Khi Sát hóa được chữ bất lương. Thái Âm là sao chủ nội âm, thuộc âm thủy. Khi định cách Chính Tinh thực lý bên ngoài cuộc sống khi ứng hợp. Thái Âm hóa cạnh tranh ngầm, mối quan hệ ngầm. Thái Âm là những việc không bộc lộ, công khai. Do đó hàm chứa Tài Cách, bí mật kinh doanh không nên để lộ dễ bị phá hoại, trong kinh thương rất quan trọng việc tranh đoạt, cạnh tranh âm thẩm với nhau. Lợi ích bằng tiền không nên lộ ra dễ phá tán hoặc gặp cản trở. Tài vượng do hóa âm cách. Trái với Thái Dương chủ Quan cách, trong công danh sự nghiệp hay chính trị thường bộc lộ công khai bên ngoài nhiều hơn. Khi Thái Âm tốt đẹp chủ hiền hòa, hi sinh âm thầm, chịu đựng. Thái Âm chủ tiếp thu, lắng nghe, suy nghĩ. Thái Dương thường có Cự Môn chủ tiếng nói. Bố cục Âm Lương tam hợp luôn chịu tác động của Thiên Lương tại hoàn cảnh tới mệnh tạo, hướng tư tưởng ưa phân biệt phải trái, lý nghĩa. Thái Âm trong bố Âm Dương ưa hội Tang Hư Mã. Do tính chất giao tiếp, xã giao của nhóm sao này với nhóm Tang Hư Mã chủ khoa trương, đặc biệt khi hội Hóa Khoa. Tang Môn tăng tính âm cho Thái Âm chủ tài ngầm. Thiên Hư hợp với Âm Dương. Tuy nhiên cách Âm Dương Lương hội Tang Hư Mã dễ biến hóa theo khuynh hướng tác họa tới gia đình hoặc phụ mẫu khi hội Sát Kỵ với Lưu Sát Kỵ. 

Friday, February 2, 2018

Trung thực và giả dối



Trung thực tính chất cơ bản gắn với ổn định. Giả dối tính chất cơ bản gắn với thay đổi, bất ổn. Thường ở thời đại hiện nay chữ trung thực khó được giữ như trước đây, do tác động của văn hóa bên ngoài và việc giao tiếp xã hội nên việc dùng từ nói dối trở thành ngôn ngữ giao tiếp. Trong tử vi cũng có cách cục tính cách ưa trung thực và tính chất xã giao ở hai nhóm sao đối nghịch an theo Địa Chi là nhóm Tuế Long Hổ Phù và Tang Hư Mã Khách. Ở hai bố cục này đều có thể giao hội với Phượng Khốc hình thành hai cách cục đều được ngưỡng mộ bởi hai tính cách. Nhóm Tuế Long Hổ Phù hay nhóm Thái Tuế tương ứng với chữ thực, lập luận, quan điểm thể hiện ra bên ngoài là ý nghĩa toàn bộ tổ hợp. Bạch Hổ mang dương tính, chủ lộ ra ngoài. Trong khi đó Tang Môn ở đối cung chủ ẩn vào trong. Thái Tuế tức chữ Thái là thực, Thiên Hư ở đối cung là chữ Hư tức giả. Cái dễ gặp là không phải mọi lúc thực đều tốt và giả đều xấu, do đó Tuế và Hư đều có thể được ngưỡng mộ, quần chúng đi theo. Nhóm sao an theo Địa Chi là cách nhìn dựa trên quan điểm. Có bốn nhóm sao chính là Tuế Hổ Phù, Tang Hư Mã, Đào Hồng Hỉ và Cô Quả. Các nhóm sao này đều nhấn mạnh ở tính chất cách nhìn. Với Tuế Hổ Phù là thật, nhưng sự thực với kẻ này có thể là giả dối với kẻ khác. Tang Hư Mã ngược lại, cái này là giả nhưng dựa trên sự thực. Thực và hư rất khó phân biệt. Hôm nay trái đất hình vuông là chân lý tất cả mọi người đều rõ nhưng tới ngày mai trái đất trở nên hình tròn. Cặp Đào Hồng tức sắc đẹp cũng là cái nhìn mỗi người, mỗi người xét vẻ đẹp riêng, có khuynh hướng riêng. Cặp Cô Quả tức cặp nhân quả cũng như vậy, mỗi cái nguyên nhân này là kết quả của việc khác. 



Nhóm sao an theo Địa Chi rất quan trọng trong việc phối hợp cách, nếu không rõ dễ gặp cảnh thấy Tuế Hổ Phù giao hội Xương Khúc Tam Hóa luận tốt đẹp trong khi Kình Mã Không Kiếp Hỏa Linh luận xấu là sai lầm cơ bản khi luận giải. Mỗi cách cá tính có khuynh hướng tổ hợp hữu tình riêng, tức hợp hóa hữu lý. Ở đây xét tới chữ danh thì nhóm Tuế Hổ Phù được Phượng Khốc là bố cục tốt đẹp phát danh, cũng các sách hay luận được bộ Tứ Linh gồm Cái Hổ Phượng Long. Xét về chữ lợi tức chữ tài thì nhóm Tang Hư Mã Khách là bố cục tốt về tài cách, phát tài, thường luận phối hợp với Lộc thành cách Lộc Mã giao trì. Ở đây có sự khác biệt về khuynh hướng biến hóa và dụng cách với nhóm sao an theo Địa Chi. Cách cục Tuế Hổ Phù chủ dương tính, công khai, quan điểm tới bên ngoài của cá nhân, tính bản thân lớn. Trong khi đó cách Tang Hư Mã thiên về âm cách, chủ sự ẩn chứa, ẩn tàng bên trong, tính cộng đồng lớn hơn, do đó với cách Đồng Tang là cách cục tốt đẹp chủ âm thầm từ thiện, cống hiến cho xã hội, biến Tang Môn mang ý nghĩa tang tóc, buồn thương thành cách cục thông cảm. Mệnh cách có Tang Môn thường khuôn mặt có nét khắc khổ, nội tâm thuở nhỏ thường chịu cảnh trái nghịch. Bố cục Tuế Hổ Phù mang tính ổn định tức khiến nội tâm ổn định, với cách cục Tang Hư Mã Khách mang tính động, có phần nội tâm biến động, Tang Môn mang ý nghĩa nghịch cảnh, khó khăn làm động tổ hợp này với Thiên Mã là thay đổi cho phù hợp. Trong hai nhóm sao này đều có thể thành tựu, xét về danh chính và ngôn ngữ là cách cục Tuế Hổ Phù, trong khi đó Tang Hư Mã giỏi về khả năng đối phó với khó khăn. 


Tang Hư Mã chỉ xét bố cục mang tính hư, giả nhiều hơn thực, đặc biệt ở vị trí của Thiên Hư. Trong khi đó mệnh cách vị trí của Thái Tuế thường tính cách ưa sự thực hơn. Tất nhiên hai nhóm sao này đều biến đổi khi gặp Sát Kỵ tác động, đặc biệt là Không Kiếp, Kỵ. Bản chất của hai nhóm sao này nằm ở tính chủ động và bị động. Tang Hư Mã là cách cục nội âm, mang tính chất che dấu, mạnh ở vị trí Tang Môn. Cách cục này chữa Điếu Khách có tính xã giao, do đó nội tâm thường bất ổn, thể hiện tính cách khác ra bên ngoài, trong đó Tang Môn thường gặp nghịch cảnh, đối phó. Cả nhóm sao Tang Hư Mã Khách xét chung tùy theo giao hội Sát Kỵ hay Trợ Tinh mà biến hóa. Bố cục này khi xấu dễ bị đánh giá tính cách giả dối. Với cách cục Tuế Hổ Phù mang tính chủ động, ở đây chủ ngoại dương, bố cục chủ đưa quan điểm, tính cách ra bên ngoài. Đây là hai nhóm sao cơ bản quan trọng, biến hóa khi đồng độ với các nhóm chính tinh hay bàng tinh ý nghĩa khác nhau. Cung an THÂN và cung Mệnh có hai nhóm sao này mang ý nghĩa khác nhau, cần phân biệt rõ mệnh và thân. Với cách cục Mệnh Thân ở hai nhóm sao khác nhau, như việc mệnh cách với nhóm Tang Hư Mã, cung an Thân cách cục Tuế Hổ Phù đắc cách, tính cách trong các hoàn cảnh vô thức, tức bản tính mang ý nghĩa của Tang Hư Mã. Khi trưởng thành, qua các đại vận thì đương số chịu tác động mạnh của Tuế Hổ Phù. Nói dễ hiểu hơn mệnh cách như trong vô thức, nằm sâu trong hành. Cung an Thân mang ý thức, sự tự chủ xây dựng bản thân, trưởng thành. Phân biệt ý nghĩa cách mệnh thân rất rõ ở các nhóm sao cơ bản khi Thân Mệnh nằm ở hai nhóm khác nhau. 



Trong trường hợp này là Tuế Hổ Phù và Tang Hư Mã. Mệnh Thân đều đóng tại vị trí Tang Hư Mã cần xét các bố cục cát hóa, nếu ngộ Sát Kỵ bất dụng mang tính tranh đoạt, hiểm trá do hoàn cảnh khó khăn tác động. Nếu Mệnh Thân đều đóng tại vị trí Tuế Hổ Phù có phần tốt hơn nếu giao hội cát, nhược kiến Sát Kỵ luận mệnh đa mưu xảo ngôn. Đặc biệt cách cục Thái Tuế ngộ Kiếp Kỵ dễ phá cách. Ở cách cục Quan cách nếu mệnh tạo không được chữ trung thực thì khó đạt thành tựu ổn định, dù bố cục khí hình vượng. Trung thực là ổn định, nội tâm ổn định thì Sát được hóa thành Quyền. Nhiều lá số mệnh cách bất trung thực vẫn là mệnh tốt, do bố cục Sát cách được hóa Quyền bởi nỗ lực qua khó khăn. Xã hội không công bằng là điều tất yếu. Trong đa phần trường hợp mệnh cách trung tín đạt được chữ Danh. Với cách cục giả dối dễ đạt được chữ Lợi. Quan trọng có dụng được Sát tinh hay gặp tác họa. Một kẻ có thể giả dối nhưng tất cả đều ưa những người trung thực. Cách cục Phượng Khốc đi với Tuế Hổ Phù đắc cách chính là đắc Tứ Linh, thu nhỏ của bố cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm với đường lối và đạo đức. Cách cục Tuế Hổ Phù thường được trợ lực mà thành.  Trong khi đó cách cục Tang Hư Mã ngộ Phượng Khốc hình thành cách cục Mã Khốc Khách cũng như thu nhỏ của nhóm Sát Phá Tham về tính chất Sát. Dụng tới bố cục Sát là được và mất. Cách cục này đa phần do nỗ lực của bản thân tạo nên thành tựu. Với bố cục thành tựu do Sát cách là cách cục đánh đổi. Với mệnh Tang Hư Mã sau thành công là nỗ lực khó khăn, thường dụng bằng tự lực, do hoàn cảnh khó khăn tác động để thành tựu. Mệnh cách luôn nỗ lực vững chắc với mục tiêu là thành tựu cách chung của nhóm sao này. Sát cách có thể chế hóa, nhưng khó khăn khi không hợp mệnh cách. Như việc một kẻ với mệnh ưa an nhàn, ổn định như cách Tồn Xương Khúc, hướng thành tựu chịu khổ cực, áp lực thay đổi để phù hợp thì khó có thể dụng. Phàm là vạn vật đều phải có thịnh suy. Lộc Tồn chủ giữ,  tốt ứng với thế thịnh, nếu suy không đổi dẫn tới diệt, khi đó Kình Hao và Đà Hao luận tuy sắp xếp là Sát Tinh nhưng cát do cần thiết. Ngũ hành hợp hóa hữu tình thì thành, khắc phạt thì bế tắc. Một đất nước Mông Cổ hùng mạnh không thay đổi cũng phải suy tàn. Thời nay kẻ mạnh không phải là kẻ thắng mà kẻ nhanh là kẻ thắng, sự vượt mặt của những nền kinh tế hay công ty đổi mới trước sự lạc hậu là điều dễ gặp. Thời vận là điểm quan trọng nếu khí hình bất vượng, mệnh cách xấu nhưng nắm được thời vận cũng được thành tựu lớn. 

Friday, September 22, 2017

Tang Hư Khách và chữ giả dối


Trong xã hội ở tầng lớp cao thời phong kiến ở quan lại trong triều đình thuộc tầng lớp này. Ngày nay phân hóa về việc quyền lực ở hai chữ Tài Quan tập trung không nặng nề và có đặc quyền như phủ của quan lại mà phân ra thượng lưu của xã hội khi xét về tiền bạc hay mức độ đóng góp, công danh tạo ra hay chính trị. Sau giai đoạn khi bỏ việc làm công hữu thì tư nhân phát triển mạnh, chữ Tài được xếp lên đầu vì liên quan trực tiếp tới thụ hưởng vật chất tạo ra nhiều hiện nay và khi kết thông thương tự do sang các quốc gia khác để sinh sống hay du ngoạn. Tuy nhiên chữ Danh tuy không như thời trước nhưng cũng vẫn còn được lệnh, trái với cách lan truyền thời xưa thì ngày nay các trang báo mạng truyền tin tức rất nhanh chóng, nhưng đa phần truyền những thông tin giải trí ở trang nhất tiếp cận nhiều hơn về việc gây dựng công danh sự nghiệp, cống hiến cho quốc gia. Hiện nay giới trẻ đang sống ở thời đại có phần bình đẳng hơn rất nhiều và đều có cơ hội để tạo nên sự nghiệp, thành tựu. Tuy nhiên một vấn đề là sức cám dỗ lớn của giải trí khiến việc đeo đuổi công danh trở nên khó khăn hơn. Sức tham vọng của quân tử cũng không được lưu truyền như việc chí " Trị quốc, bình thiên hạ". Sống trước khi chết lưu danh hậu thế. Tang Hư Khách là nhóm sao bại tinh, khi luận công danh dùng Tang Hư Mã, khi luận tình cảm liên quan tới Tang Hư Khách làm tính chất chính của tổ hợp.


Cũng vì nhiều điều vui mới liên tục được tạo ra trên mạng internet do đây là thông tin, vì vậy nên Cự Môn và Phi Liêm tính thị phi ồn ào nhưng cũng chính là sự thu hút chú ý và hơn hết là những thú vui này dễ được hưởng ứng hơn việc học tập những kinh nghiệm quý của những người thành công và các bài học của họ trên ngay cả thế giới khiến bố cục cách giàu có từ xây dựng sự nghiệp của mệnh tạo đã biến đổi theo chiều hướng khác. Sát Tinh đặc biệt nhóm sao của quyết tâm qua nghiệm lý đang đắc lệnh và xuất hiện khi luận của người viết có các lá số mức khí hình ban đầu thấp nhưng mức hoạch phát rất lớn. Ở đây là những người đi lên từ tay trắng, hoặc ở tầng lớp cuối cùng để vượt lên nhóm trên của xã hội. Nhóm sao Tang Hư Khách Mã ở thời trước đắc dụng ở võ nghiệp hay nếu tốt đẹp hơn gặp Lộc Tồn hình thành bộ Lộc Mã giao trì, thực chất là cách Tang Lộc là nguyên nhân lớn khiến bố cục này mang ý nghĩa hay thì do kinh thương hay sử dụng đồng tiền để sinh lời. Nhóm Tang Hư Khách ở đây hình thành bố cục khá hay để tạo hoạch phát chế hóa Sát Kỵ tuy nhiên ở đây có khuyết điêm vì nghịch cảnh thuộc trường hợp này mang tính khó khăn, khổ cực về tình cảm gia đình rất lớn khi đắc cách do tính chất của bố cục Sát Tinh luôn mang ý nghĩa đánh đổi, giữa được và mất.


Tang Hư Khách xung chiếu với Tuế Hổ Phù. Ở đây đầy đủ là nhóm Tang Hư Mã Khách, nhóm sao này có tính động, trái ngược với Tuế Hổ Phù có tính chất ổn định. Tang Hư Khách Mã thủ tam hợp mệnh thì đương số có tính chất linh hoạt, đa phần ở trong lời nói dễ gặp cách nói chuyện xã giao, mang tính chất không thực sự. Bố cục Tang Hư Khách Mã chịu tác động lớn bởi sự khó khăn do Tang Môn và Thiên Hư gây ra. Đặc biệt mệnh tạo có Thiên Hư thuở nhỏ làm việc gì cũng thấy hư hỏng, tiền nhân có luận về Thiên Hư rất dễ hiểu. " Khốc Hư thủ mệnh mạc đàm phú quý". Ở đây tức cung Mệnh tạo có sao Thiên Hư tọa thủ thì khó luận tới phú quý. Với Thiên Khốc đồng cư càng khó đắc cách. Thực chất bộ Khốc Hư là sự giao hội giữa Tang Hư Mã Khách và Phượng Khốc, ở đây luận hay khi ở vị trí của Phượng Các và Thiên Mã tọa mệnh, các vị trí khác có Tang Môn có phần tương bán, vị trí Thiên Hư và Thiên Khốc thì không hay. Sao Thiên Khốc và Thiên Hư kỵ thủ mệnh vì một sao chủ sự buồn khổ sầu não, một sao chủ hư hỏng, giả dối. Ở đây hai sao này tác động mạnh tới tính cách. Với Thiên Khốc thì chỉ có Thiên Đồng hình thành cách đồng cảm biến đổi theo chiều hướng tốt. Với Thiên Hư thì đi với Âm Dương và Phá Quân.  Cũng một Phủ Tướng đặc biệt trường hợp đơn đủ tính chất rõ ràng hơn, khi đi với Tang Hư Khách thì lời nói yêu thương giả dối, sự tương trợ mang tính lợi ích đằng sau, cũng có thể là vì tốt cho người khác nên nói dối tùy vào bố cục. Nếu người thân bị bệnh nan y chỉ sống được vài ngày thì nói dối họ có thể là tốt, hoặc một số trường hợp như để động viên cho người khác. Tuy vậy đa phần dù tốt hay xấu sẽ vẫn có ý kiến đánh giá là là lời nói dối.


Vì vậy nên cách cục Tuế Hổ Phù được đánh giá cao hơn Tang Hư Khách. Với Phủ Tướng đơn thủ gặp Tuế Hổ Phù thì ta thường nghe thấy được lời nói tình cảm thật lòng, lời nói gây tổn hại nhưng tốt hơn đôi trá thuộc cách cục này, xấu hơn là nói ưa châm chọc, nói sự thật với ý hãm hại người khác. Với Tuế Hổ Phù giao hội với Sát Kỵ thì không luận vậy, có thể biến đổi thành không thật, lừa đảo. Ta hay gặp ngoài thực tế nhiều trường hợp lời nói phủ dụ, hàm chứa tính yêu thương, tình cảm nhưng dễ nhận ra trong đó là cách xã giao, không thực lòng. Với việc tình cảm chữ thật với không thật nhưng bàn bao nhiêu cũng không hết, có thể gây ra xung đột, mâu thuẫn vì vậy mức tác động cách Tuế Hư rất lớn. Bộ Tang Hư Khách Mã an theo Địa Chi giao hội chủ yếu với bốn nhóm sao cơ bản của Thiên Can là Kình Hao, Đà Hao, Lộc Tướng Bệnh, Phi Thanh Phục. Trong đó hay nhất là trường hợp giao hội với Lộc Tướng Bệnh và Kình Hao.

Saturday, August 5, 2017

Nhóm sao Tang Hư Mã





Nhóm sao Tang Hư Mã



Nhóm Tang Hư Mã hay Tang Hư Khách, thường nghe gồm 3 sao chính là Tang Môn, Thiên Hư và Điếu Khách. Do các sao an theo Địa Chi theo vòng nên các sao này luôn tam hợp chiếu với nhau tạo thành tổ hợp Tang Hư Mã mang ý nghĩa đặc trưng cho cách cục này. Khi mệnh tạo có nhóm sao này tại tam hợp bản cung mệnh mang các ý nghĩa tính chất khác nhau về tính chất các sao ảnh hưởng tới tính cách, tuy nhiên bố cục ý nghĩa của toàn tổ hợp không thay đổi. Các sao an theo hàng chi có vị trí trùng với Địa Chi của năm sinh trên 12 cung địa bàn. Lấy sao Thái Tuế ở chính bản cung an toàn bộ 5 sao gồm hai cách cục lớn là Tuế Hổ Phù và Tang Hư Mã. Các sao an theo hàng Chi cần thiết quan tâm tới các sao Thái Tuế, Thiên Hư, Tang Môn, Bạch Hổ và Thiên Mã và đa phần các sao này mang ý nghĩa tổ hợp tức toàn nhóm sao tác động là chủ yếu khi luận đoán lá số. Các bài viết về từng sao khi tọa thủ tại bản cung mệnh và các cách cục giao hội hợp cách của các sao này được lưu lại trong các bài viết này. Với vị trí của sai Tang Môn hay Thiên Hư trong nhóm Tang Hư Mã giao hội với các nhóm Kình Hao, Đà Hao, Lộc Tướng Ấn và Phi Thanh Phục mang các tính chất khác nhau và biểu hiện rất lớn khi tác động với Chính Tinh ở mặt tính cách bên ngoài vì các sao này. Lưu ý hai nhóm sao an theo Thiên Can và nhóm sao an theo Địa Chi sẽ tạo nên các bố cục vị trí sẵn trên mười hai cung độ tử vi và vị trí cung an Mệnh vào một trong các cung này sẽ ảnh hưởng rất lớn tới tính cách và độ số của mệnh chưa cần xét tới các sao an theo Nguyệt, Nhật, Thời. Ở các cung này quan trọng nhìn vào cách phối hợp của các sao an theo Thiên Can và Địa Chi với nhau. Tang Hư Mã giao hội với Kình Hao mang ý nghĩa về nghị lực, nỗ lực vượt qua khó khăn, mang tính chủ động, về đặc tính của tính cách trong mọi trường hợp đa phần ương ngạnh, ưa chống đối với người khác, coi trọng việc thắng thua. Bây giờ khi xét các mức độ mạnh yếu hay ưu khuyết tăng nặng, giảm tính chất của bố cục cần nhìn tới các bàng tinh an theo các thời điểm khác. Tử Vi luận cơ bản giải đoán số rất đơn giản, tự bản thân nghiệm ra khi nhìn vào các cách tổ hợp giữa các nhóm sao này. Gia giảm hay tăng cường hoặc thậm chí phản cách cục biến đổi do tính chuyển động liên tục của lá số tử vi cũng như đời người luôn trải qua thời gian thăng trầm của cuộc sống và tới lúc ta chết nhưng lá số tử vi vẫn ở đó chuyển động lưu lại cái danh hay những hình ảnh của bản thân ta tới khi khí hoàn toàn ở vị trí Tuyệt tức các nhân duyên liên quan tới bản thân đã hoàn toàn chấm dứt. Phần này thường luận trong huyền học như việc phân thành các khí ở mức độ khí vượng, suy, tuyệt. Mỗi một người sinh ra nếu bỏ đi các sao trong Tử Vi thì luận ở dạng khí ngũ hành tác động hóa hình và do phản ánh vào con người nên sinh ra tính chất của cá tính. Vì vậy dòng khí này thực chất khi người chết là nhập Tử, kế đến một thời gian sau mới nhập Tuyệt rồi đi vào vòng Thai.




Cần phân biệt vòng Trường Sinh là gốc của các môn huyền học, và vòng Trường Sinh trong môn Tử Vi cũng có hai loại là vòng Trường Sinh trên Thiên Can vì Thiên Can bản chất là khí. Kế đến là vòng Trường Sinh trên lá số Tử Vi. Nhìn chung khi ta chết thì khí chưa tận mà chuyển hóa cuối cùng khi Tuyệt mới mất hẳn. Cũng như vậy vạn vật đều có khí nên ngay cả vận nước đến một thời kỳ lâu dài cũng có người uyên thâm lý số có thể toán mệnh ra dựa vào khí vận của quốc gia. Ngay ở trên thế giới ở nước ngoài cũng có một số nhà tiên tri có khả năng này. Bản chất của Ngũ Hành khi hợp hóa lại là Không. Vì vậy thực chất khí tồn tại ở phần Không nếu chịu tác động của duyên khởi theo một ngũ hành sẽ trở thành vị trí Thai khởi phát từ vị trí Tuyệt. Cái lý của tiền nhân đã nhìn ra rằng thực chất con người không phải chết là mất hẳn. Mà dòng khí hóa tư tưởng khi chết đi một thời gian trở về Không dủ dung nạp tất cả lại xuất hiện theo chu trình vòng Trường Sinh mới. Tiền nhân dùng kiến thức này giải cho việc sự luân hồi. Trên thế giới có khá nhiều ghi chép về con người tái sinh ở cơ thể khác. Đa phần theo giải thích là do vị trí địa lý chứa đựng tính Không và có tính bất ổn Âm Dương khiến việc này xảy ra. Ở nước ta thì vị trí Hòa Bình là vị trí địa lý khá đặc biệt. Ở đây sẽ có nhiều chuyện ly kỳ và sự đầu thai cũng xuất hiện ở đây và không chỉ có một lần. Người viết từ xưa tới nay quan trọng nhất ở tính nghiệm lý nên nếu người đọc bài viết này đã có tuổi thì nên kiểm nghiệm các trường hợp này vì nếu đúng thì tuổi tác không là ý nghĩa. Thực chất xét ở phần khoa học về bên ngoài phương tây hơn ta rất nhiều tuy nhiên ở việc tự quán chiếu, nghiên cứu trong tính nội tâm của bản thân thì ta đã đạt tới mức độ rất cao và có rất nhiều kiến thức quý báu truyền đời. Bản thân người viết cũng hay tự kiểm chứng thật giả bằng ngoài đời thực những kiến thức này và cũng nhiều lần khá bất ngờ. Phần này ngoài ý chính trong bài viết giới thiệu thêm về tính chất khí hóa ngũ hành. Với nhóm Tang Hư Mã giao hội với Đà Hao mang tính chất kiên trì vượt qua khó khăn, có tính cam chịu, nhẫn nhịn, cũng có tính phòng vệ. Cách cục này có tính chất hay hơn về mặt tính cách hơn cách Kình Hao. Tuy nhiên dễ cam phận nếu cách cục không có các sao chủ mạnh bạo, tăng cường. Cách cục Tang Hư Mã đi với nhóm Lộc Tướng Ấn là cách cục khá hay hình thành bộ Lộc Tang hay Lộc Mã giao trì đều mang ý nghĩa tốt. Cách cục này chủ bản thân có tính cách ổn định dụng được sát tinh hay cách cục xấu. Với Tang Hư Mã đi với Thanh Phi Phục trừ vị trí Thanh Long, các vị trí khác mang ý nghĩa xấu. Cách Thanh Phi Phục mang tính bất ổn là tính chất cơ bản. Cách cục Tang Hư Mã chủ khó khăn nên cách cục giao hội mang ý nghĩa xấu, có thể mang tính phi pháp.