Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Sunday, October 30, 2016

Thiên Cơ Sửu Mùi cách





Thiên Cơ độc tọa tại vị trí Sửu Mùi


Sao Thiên Cơ thuộc nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương là ngôi sao tài năng của nhóm sao này với tính chất hay. Thiên Cơ chính là cơ hội, thời cơ nên Mệnh tạo có Thiên Cơ tốt chính là thời cơ vận hội được ban cho mỗi người. Thiên Cơ luôn nhị hợp với sao phá cũ đổi mới là Phá Quân. Trong thực tế những kẻ giàu là những kẻ biết thức thời. Vì vậy, mệnh cần Thiên Cơ không tạo ra tai họa. Thiên Cơ nằm trong bộ Cự Cơ Đồng không mấy hay bằng có thêm Thiên Lương, sao Thiên Cơ rất cần sự may mắn của Thiên Lương, đặc biệt là Lương khi đồng cung khiến cơ hội may mắn rất lớn, đó là cách Cơ Lương cư Thìn Tuất. Trường hợp này Thiên Lương xung ở đối cung vẫn còn sự may mắn ở bên ngoài mang lại, cũng là cách sống thọ nếu không bị phá cách.
" Lương xung tọa thủ kiêm thọ ấm".
Cung Thiên Di là sự tiếp xúc của con người với xã hội, ra ngoài đường chính là Thiên Di. Các tai nạn bao gồm cả bệnh tật thường do tiếp xúc bên ngoài và khi được may mắn như việc gặp đúng thầy đúng thuốc bên ngoài giúp mà khỏi bệnh. Thiên Cơ cư Sửu Mùi cung Tài Quan có hai sao Thiên Đồng và Cự Môn ở vị trí không mấy tốt đẹp. Bộ Cự Cơ Đồng không hoàn chỉnh khi Sát Phá Tham và Tử Phủ Vũ Tướng Liêm tốt đẹp và ngược lại. Thiên Cơ tại vị trí này vẫn còn may mắn khi được Thiên Lương xung, hay hơn cách Thiên Cơ cư Tị Hợi nhiều, tuy nhiên về mặt công danh không thành công, tất nhiên là chỉ so sánh vị trí sắp xếp của các Chinh Tinh trong Tử Vi. Mệnh Thiên Cơ độc tọa tại cung Sửu Mùi cần gặp Khôi Việt, đặc biệt là cách Tọa Quý Hướng Quý để tăng tính chất quý và địa vị cho Chính Tinh. Lục cát tinh là Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt nhập Mệnh thường mamg ý nghĩa tốt, hỗ trợ đắc lực cho Chính Tinh. Thiên Cơ là ngôi sao chủ tài năng, ngộ Khôi Việt là cách tài năng được phát triển. Mệnh có Thiên Cơ các cung hạn trải qua càng quan trọng gắn liền với công danh toàn cục. Thiên Cơ là sao tối kị Hỏa Linh, bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương ngộ Hỏa Linh là hạ cách, tối kị gia thêm Sát Kỵ lâm vào cảnh nghèo hèn, yểu tử. Thiên Cơ ngộ Hỏa Linh cần hóa thành Khoa và có một trong hai Lộc giảm tính xấu của Hỏa Linh mang lại.



Thiên Cơ là ngôi sao không ngại bộ Kình Đà, ngược lại cách Cơ Kình là cách nắm bắt thời cơ, cũng là cách gây dựng được sự nghiệp. Do đặc tính của Thiên Lương ở cung Thiên Di tác động lớn tới cung Mệnh, đây cũng là cách trưng bày hàng hóa, kinh thương cách. Mệnh có Thiên Cơ hình thành hai chiều hướng là nắm bắt được thời cơ và bỏ lỡ thời cơ. Phá Quân ở cung nhị hợp Nắm và Thả, việc Phá Quân tốt xấu ảnh hưởng lớn đến cung Mệnh. Phá Quân tại vị trí Tí Ngọ là nơi đắc ý của Phá Quân, nếu Sát Phá khám phá tốt dễ dẫn đến thời cơ tốt. Mệnh Thiên Cơ tại vị trí này cần cả Tuần Triệt để đánh trúng. Bộ Cô Quả cần thiết để có kết quả. Trong các Thiên Can, Thiên Cơ hóa thành Kỵ ở can Mậu là cách bỏ lỡ thời cơ, tính trắc trở của Kỵ ảnh hưởng tới Thiên Cơ nếu không có sao giải cho Kỵ như bộ Kỵ Quyền, Kỵ Khoa, Long Hà Kỵ. Nếu chỉ có Hóa Kỵ đi với Thiên Cơ tại vị trí này vẫn không hay vì tam hợp có Thiên Đồng nhập La Võng và Cự Môn tại Tị Hợi ở vị trí không đắc ý. Hóa Kỵ bởi Cự Môn, Thiên Đồng hay Thiên Cơ đều  luận xấu. Thiên Cơ cư Sửu Mùi tối kỵ gặp Không Kiếp, cách này dễ gặp hung hiểm đặc biệt mang yếu tố quyết định khi nhập hạn Quế Sứ Hoa Thương nếu thành cách hoặc hanh tam hợp cung Mệnh. Cung Phụ Mẫu có cách Tử Phủ Dần Thân giáp cung ảnh hưởng nhiều tới Mệnh, bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm không bị phá cách hạn đến dễ gặt hái được công danh, tiền bạc. Tuổi Ất được bộ Quyền Lộc và Thái Âm hóa KỴ khá tốt. Tuổi Bính được Quyền Lộc nếu có thêm Xương Khúc cả tam hóa rất tốt đẹp, chủ thành công nhờ nắm bắt thời cơ. Thiên Cơ kỵ gặp Tang Môn đồng cung thuộc cách Cơ Lương Tang Điếu chủ ngã, bị chôn vùi. Cách này chỉ cần gặp Khoa khả giải, hoặc gặp Phượng Các tam hợp đồng cung đều trở thành tốt đẹp. Thiên Cơ thủ Mệnh cung an THÂN nên cư tại Thiên Lương hoặc Thái Âm, các vị trí Thiên Đồng và Cự Môn xấu.

Một số cách cục của Hóa Kỵ




Một số cách của Hóa Kỵ với Chính Tinh và Bàng Tinh


Hóa Kỵ là hóa khí của các Chính Tinh hoặc Trợ tinh Xương Khúc qua các Thiên Can khác nhau. Tứ Hóa là sự biến đổi theo từng Thiên Can của các sao này. Hóa Kỵ là hóa khí rất dễ nhận biết và kiểm nghiệm trong thực tế. Qua sách vở đều nêu khá rõ ràng về tính chất chủ yếu của Hóa Kỵ với đa số các Chính Tinh và Xương Khúc hóa khí. Hóa Kỵ chủ lo lắng, là hóa khí chủ bất ngờ, cản trở và thường có tính chất thu liễm, ẩn tàng như mùa Đông. Hóa Kỵ là ám tinh, một trong ba ám tinh Thiên Diêu, Đà La. Hóa Kỵ cũng mang tính chất cấm hoặc bị cấm, đây là hóa khí xấu trong tứ hóa, khi đối nghịch với cả ba hóa Khoa Quyền Lộc nên không thể xem nhẹ. Kỵ tinh còn là sự ghen ghét, đố kỵ. Trong đa số các trường hợp đều mang ý nghĩa xấu. Một Hóa Kỵ khi đắc cách là rất khó nhưng ý nghĩa tốt đẹp rất mạnh. Như bộ Tứ Hóa hay hơn cả Tam Hóa. Hóa Kỵ khi tốt là được ra quyền cấm, bị ghen ghét vì ở địa vị hoặc tài sản quá lớn, là ám tinh mà tính Ám ở đây về lộc ám hơn minh lộc rất nhiều. Hóa Kỵ khi tốt nhất là kỳ tài, là khiến kẻ khác khiếp sợ, còn là không thể bị cản trở. Hóa Kỵ đi với từng Chính Tinh có các ý nghĩa khác nhau, là những mặt xấu tồn tại trong tính chất của các Chính Tinh. Trong các cách Hóa Kỵ thì Cự Môn hóa thành Kỵ là xấu nhất, Cự Môn là sao thuộc ám tinh, chủ sự sợ hãi, ngộ Hóa Kỵ là cách bất cát, thị phi rất lớn, đây cũng là cách tránh đò sông, thủy tai cách. Tuy nhiên cần cân đo nặng nhẹ của các tổ hợp sao, như cách Cự Kỵ nếu có Khoa Quyền Lộc hoặc chỉ cần Khoa Quyền lại là cách rất hay vì hình thành bộ Khoa Kỵ chủ cấm đoán hợp lí, sợ hãi có bằng chứng khoa học và cách QUYỀN KỊ là cách rất hay. Bộ Kỵ Quyền có thêm Linh Tinh và Song Lộc chủ quyền lực sinh sát rất lớn. Hóa Kỵ còn hợp với Thanh Long hình thành cách kỳ lạ, chủ vận hội đến. Hóa Kỵ gặp thêm sát tinh tính tác họa rất lớn, như cách KỴ HÌNH, KỴ KIẾP, DIÊU ĐÀ KỴ, KÌNH KỴ, TRIỆT KỴ đều là các cách xấu.


Các chính tinh Thiên Đồng, Vũ Khúc hóa thành Kỵ không thành cách xấu, nếu gia cát tinh luận tốt. Trong các cách của Hóa Kỵ thì cách Kỵ Kiếp đồng cung hay tam hợp chủ bị ghét bỏ, là cách gặp tai họa tối kỵ gia thêm sát tinh, Kỵ Kiếp là sự giao hội của một ám tinh chủ cản trở và một sât tinh chủ tai kiếp, mệnh có cách này thuộc dạng theo ác nếu có Chính Tinh là Sát Phá hoặc Tử Vũ Liêm, Cự Nhật và được thêm Quyền Tinh, nhược nếu có Cơ Nguyệt Đồng Lương là cách gặp nạn, tuy vậy tai họa hai cách cục đều xấu tùy theo bàng tinh. Cách Sát Phá ngộ Kỵ Kiếp nếu không có các sao chủ Quyền Tinh nhược gia Sát là cách bị bắt, bị ghét mà trừ bỏ, như thêm Thiên Hình tối kị Thất Sát vì hình thành bộ Kỵ Hình Thất Sát tương phùng là cách chết yểu, hoặc sống chung với sự đè nén, áp bức. Hóa Kỵ khiến các cách xấu thêm xấu, giảm độ số cách cục tốt của các sao không hợp với Kỵ, vì vậy hay xuất hiện tại những hạn chết, tai ương. Lưu Hóa Kỵ của phi tinh các năm là sao cần chú ý, hình thành các cách Lưỡng Kỵ, Lưu Hóa Kỵ ngộ Hóa Kỵ nguyên thủy cũng là cách xấu. Khi nói đến Hóa Kỵ luôn cần phải xem sát tinh ở tam hợp chiếu về, cần các sao giải Kỵ để giảm trắc trở, khó khăn của các công việc. Vì Hóa Kỵ là sự cân bằng trái ngược của cả bộ Khoa Quyền Lộc tốt đẹp. Xét trong thực tế kẻ dụng được Hóa Kỵ là kẻ thường mang cho người khác nỗi khiếp sợ mỗi khi nhắc tên như cách Linh Kỵ Quyền Hình Khoa Quyền Lộc hoặc là ngưỡng mộ bởi tài năng. Hóa Kỵ tốt là đứng trên tất cả, khiến người ta bất ngờ về khả năng của bản thân. Các dị nhân, hiện tượng dị thường chính là Hóa Kỵ. Vì vậy nên xếp vào hàng Ám Tinh vì có sự kỳ lạ, khác thường. Lại cũng mặt trái ngược là Hóa Kỵ, nếu mệnh có cách Đồng Lương ngộ Tam Ám gia Phượng là cách hay gặp sự việc kỳ lạ, ngay bộ sao Tam Ám nổi tiếng về hung cách vẫn có thể thành công rực rỡ, đặc biệt nếu có Khoa Quyền Lộc. Sao hợp với Hóa Kỵ là Thiên Lương, Thiên Đồng vì hai sao này chủ phần Phúc và phần May của con người, nếu tốt là may mắn dị thường, như các cách Trúng Số thường kể một câu chuyện kỳ lạ xung quanh may mắn.

Saturday, October 29, 2016

Một số tính chất bộ Không Kiếp trong tử vi





Một số tính chất về bộ sao Không Kiếp trong Tử Vi



Tử Vi luận bộ Thiên Không Địa Kiếp an theo tháng sinh là bộ sao phản tác dụng lớn nhất qua câu phú " Không Kiếp là tối hung thần, đóng đâu tại đó mười phần hiểm nguy. Duy Tị Hợi miếu vì, hoạch phát hoạch phá tựa thì sấm ran". Bộ Không Kiếp là hai sao thuộc cách Đại Sát Tinh vì rất dễ gây nguy hiểm lớn đến cả tính mạng khi không hợp cách tại Mệnh hoặc Hạn. Thiên Không Không Vong và Địa Kiếp Chi Thần là sự hỗn loạn của Âm Dương, ở tháng Tị và Hợi là hai tháng sao này đồng độ. Tháng Tị là khởi vượng của Hỏa và tháng Hợi là khởi vượng của Thủy. Bộ Không Kiếp đầy đủ có đặc tính rất nổi bật là sự bất ngờ có hoặc không, được hoặc mất rất rõ ràng. Hầu hết các Chính Tinh khi gặp Không Kiếp đều phải luận theo tính chất mất và được của bộ sao này. Không Kiếp là bộ sao an theo Giờ Sinh, có thể lấy tháng sinh và trục Tị Hợi để an hai sao này trên lá số. Bộ Không Kiếp hiện trên cung Mệnh khiến đương số bị phụ thuộc hơn về các biến động của xã hội, trời đất. Địa Kiếp chính là kiếp nạn mắc phải, nhưng kiếp nạn hay số kiếp luận khác nhau về sự tốt xấu, khi tốt là kiếp số khiến chúng ta phải gánh vác địa vị cao, phải đảm nhiệm trọng trách lớn, là số kiếp của mỗi người. Khi Địa Kiếp xấu chính là tai kiếp, kiếp nạn mà ta phải gánh chịu như kiếp nô lệ, kiếp vô sản. Địa Kiếp là sao liên quan đến số kiếp nên mặc định có tác động lớn hơn cả Chính Tinh. Thiên Không là sao chủ sự bất ngờ, khi đơn thủ luận khác hoàn toàn khi đi với Địa Kiếp. Thiên Không chính là sụ bất ngờ tác động lớn hơn cả Chính Tinh, khiến Chính Tinh và Bàng Tinh phối hợp thay đổi đáp số sau khi tổ hợp ra ý nghĩa. Tính bất ngờ của Thiên Không đa phần theo chiều hướng xấu vì sẽ tìm được vị trí có cả bộ Không Kiếp. Bộ Không Kiếp là bộ sao xấu trong đa số trường hợp, nhưng khi đã thành cách lại là cách thành công không thể ngờ, đây là bộ sao giá trị cho các cách bạo phát tròn thời gian rất ngắn gây bất ngờ cho tất cả mọi người, là chuyện khó tin. Mệnh Không Kiếp sinh tháng Tư và tháng Mười đều có đặc điểm tượng trưng bởi tính cách ẩn và hiện. Bộ Không Kiếp thường được các sách luận đúng về tính chất bất theo quy tắc, khả năng suy nghĩ táo bạo và khuynh hướng khác truyền thống là đặc điểm quan trọng. Khi tìm hiểu bộ Không Kiếp rất đơn giản vì nhiều người nổi tiếng thành danh sinh hai tháng này, và do bộ sao này tác động mạnh ngang ngửa hoặc hơn Chính Tinh nên tính chất bộc lộ rõ rệt. Mệnh Không Kiếp có hai dạng là có Sát Tinh kích phát tiềm lực của Không Kiếp và dạng bị Không Kiếp tác động tạo nên họa hại.



Không Kiếp hỉ được cư Tị Hợi nhập Miếu Địa khi đồng cung tại Tị Hợi thủ Mệnh hoặc xung chiếu ở đối cung đều thuộc cách này, nếu không bị gia Hình Kỵ hoặc các bộ sao xấu như Tam Ám, các sao kỵ như Lộc Tồn, Đào Hồng, là cách hoạch phát lớn. Nếu Mệnh có Sát Phá ngộ Không Kiếp cư Tị Hợi là cách hung tinh được chế hạn vận mang tính thăng trầm lớn, nếu có TRIỆT ở bản cung hoặc được Khoa Quyền đến Tả Hữu là cách tốt đẹp. Không Kiếp nhập Miếu hỉ nhất được Sát Phá, kế đến Thiên Tướng và Cự Môn. Về bàng tinh gặp Triệt đến Tả Hữu và Binh Tướng đều tốt. Không Kiếp tại Tị Hợi nếu tại Đại Hạn cũng cần thiết Mệnh phải có các sao cần gặp và tránh tụ tập hung sát tinh như Kình Đà Hỏa Linh Kỵ Hình tại cung hạn gây biến đổi tính chất, nguy hiểm tới Mệnh. Không Kiếp thường được luận đắc địa tại Dần Thân là vị trí ít gây họa hơn tam hợp. Với Dần Thân mệnh có Địa Kiếp tốt hơn gặp Thiên Không, ở đây kỵ gặp thêm các bàng tinh không hợp. Bộ Không Kiếp rất khó thành cách, gặp Hóa Kỵ hình thành cách Kỵ Kiếp, gặp Đà La hình thành cách Đà Kiếp, gặp Lộc Tồn hình thành cách Tồn Không và Tồn Kiếp. Với Không Kiếp cần gặp sao phù hợp và tránh các sao kỵ gặp nên khó tốt đẹp. Một Sát Phá ngộ Không Kiếp Đà không luận là xấu. Cự Môn ngộ Không Kiếp là cách cục có tư tưởng khác thường, Cự Môn là ngôi sao chủ miệng, cũng là ngôi sao chủ tư tưởng khi gặp Hóa Kỵ thành cách Cự Kỵ là cách hung vì Hóa Kỵ chủ lo âu, bất ngờ. Cự Môn gặp Không Kiếp, đặc biệt là khi Không Kiếp nhập miếu hoặc đắc là cách hay, nếu có thêm Khoa Quyền Lộc chủ thượng cách, lưu ý phải tránh ngộ Hóa Kỵ hình thành cách Cự Kỵ và Kỵ Kiếp xấu phá hỏng toàn bộ cách cục. Trong các Chính Tinh ngộ Không Kiếp kỵ nhất là Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Lương, Thiên Đồng, Thiên Cơ. Một số kỵ Địa Kiếp hơn Thiên Không và ngược lại. Bộ Không Kiếp cần hiểu rõ tính chất cơ bản để tránh luận đoán sai, khi Mệnh Hạn có Không Kiếp tại thế xấu nên dùng Tĩnh chế Động nếu không dễ gặp cảnh bị rơi vào bẫy, ví như các trường hợp đột xuất không ngờ đến mà gặp họa như tai nạn lao động, Không Kiếp khó đề phòng do tính Bất Ngờ của sao Thiên Không và họa kiếp do Địa Kiếp gây ra. Nếu thuộc cách đề phòng tốt là cách thành công đến.

Wednesday, October 26, 2016

Luận về bộ sao Quang Quý






Bộ sao Ân Quang và Thiên Quý luận đoán


Ân Quang và Thiên Quý là sao an theo bộ Xương Khúc. Ân Quang và Thiên Quý là hai sao khá đặc biệt trong Tử Vi, nhưng một số sách có phần cường điệu hóa tính chất của hai sao này. Ân Quang và Thiên Quý có ít những câu phú luận về bộ sao này.
" Quý Ân Thanh Việt Cái Hồng nam tận cửu trùng nữ tác cung phi".
" Nhật Nguyệt Sửu Mùi ái ngộ Tuần không Quý Ân Xương Khúc ngoại triều văn tất thượng cách đường quan xuất chính"
Ân Quang và Thiên Quý là hai sao chủ về ân tình và quý mến nhau. Ân Quang chủ về tình cảm, Thiên Quý chủ về sự quý trọng. Cũng như Thai Tọa an từ Tả Hữu, hai sao này có tính thiên về được phong thưởng, may mắn. Qua nghiệm lý và các sách cũng đưa ra rằng Mệnh hoặc cung có bộ Quang Quý tọa thủ có khả năng hóa giải sát tinh chỉ đúng khi hai sao này không bị phá cách nặng nề. Ân Quang kỵ đồng cung với Thiên Khốc thành cách bị  hiểu nhầm khi làm ơn mắc oán. Lưu ý cách Ân Khốc khác cách Ân Phượng lại là cách hay, Phượng Các luôn tam hợp với Thiên Khốc nên các sao đồng cung với Phượng Các hay hơn vị trí tam hợp. Bộ Quang Quý đóng tại các cung đều cho thấy rõ tính hàm ơn, ân nghĩa nơi chiếm đóng. Đặc biệt hai sao này nếu gặp Thiên Lương thành cách rất may mắn, Thiên Lương là sao hay giúp người, chủ lương thiện, lương tâm hợp với Ân Quý, cách này tăng thêm tính may mắn cho Thiên Lương tức bộ Âm Lương. Mệnh Ân Quý nhiều khi được luận là có tính từ tâm là võ đoán, quan trọng là Chính Tinh đi với hai sao này và các Sát Tinh có trợ hung hay không. Đôi khi may mắn là dụng được sắt mài thành gươm báu, Sát Tinh cần đắc dụng thì nếu Mệnh ác trong thâm tâm vẫn còn từ tâm. Ân Quang là sao có nhiều ý nghĩa tốt đẹp khi giao hội với hầu hết các bàng tinh và chính tinh. Các tên của sao trong Tử Vi đều mang đặc tính chính của các sao này. Ân Quang là sao có tính ân điển và có tính sáng. Một số sự ân thưởng như huy chương, bằng khen ta nhận ra nó mang vinh quang lại cho bản thân. Tuy vậy có những sự hi sinh mới có thể mang được vinh quang cho mình, lớn hơn là cho tổ quốc là những liệt sĩ hi sinh được truy tặng. Trong trường hợp gặp sát tinh, bàng tinh phá cách trùng trùng bất khả kháng thì cái chết có thêm vinh quang vẫn tốt hơn cái chết bình thường, tệ hơn là chết lãng xẹt. Đây là xét trên mặt báo công, xét về Mệnh thì đều là cách chết. Ân Quang hợp với bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương, tiếp đến là bộ Phủ Tướng vì đây là bộ sao chủ tình cảm, tình yêu gặp Ân Quý mang tính quý trọng. Thiên Quý trong bộ Ân Quý là ngôi sao tăng tính quan trong, Thiên Quý là sự quý trọng bởi tình cảm, khác với Ân Quang là sự vinh quang, mang tính ân tình. Thiên Quý mang về sự quý trọng tức có thể nặng về tình cảm hơn. Bộ sao Quang Quý kỵ gặp Không Kiếp là ngôi sao mang tác họa không ngờ, dù Ân Quý có thể bởi sự may mắn và tình cảm mà có thể tránh khỏi kiếp nạn không ngờ từ bộ sao này, tuy vậy nếu gặp dễ rơi vào hạn xấu đến rất xấu. Con người nếu gặp may mắn dễ thành công hơn bằng chính chỉ sức lực của bản thân. Như các cậu ấm cô chiêu cha mẹ kiếm tiền và địa vị cho bản thân con cái thật may mắn hơn cách tự lực cánh sinh. Quang Quý được an từ Xương Khúc và Thai Tọa được sinh bởi Tả Hữu. Các sao Xương Khúc Tả Hữu có thể hóa khí. Các sách thường không luận kỹ về bộ Thai Tọa và Quang Quý và không đặt đúng tầm quan trọng của hai cặp sao này.

Thursday, October 20, 2016

Luận các tổ hợp đặc biệt trên lá số





Luận các tổ hợp đặc biệt trên lá số Tử Vi



Khi luận giải Tử Vi, người xem lá số thường mắc phải định kiến về Mệnh Tài Quan mà không xem xét tương quan của Mệnh với 12 cung và sự tốt xấu, mạnh yếu của các cung còn lại. Như việc lấy Mệnh Tài Quan làm gốc để luận lá số thành bại, phân thượng trung hạ cách là việc chẳng đúng lẽ của Tử Vi. Một số biết lấy thêm cung an Thân và cung Phúc Đức làm trọng đã tiến bộ hơn nhưng vẫn còn sai sót. Cái lý của Tử Vi là tất cả toàn bộ 12 cung mang những đặc điểm tính cách vốn có của con người, chờ đại hạn hoặc tiểu hạn đến để bộc lộ ra. Cái bản tính chưa bộc lộ ra mang tính ẩn, và Mệnh Tài Quan là thứ bộc lộ ra trước tiên và ảnh hưởng mạnh hơn vì ở tuổi nhỏ khi mới hình thành cá tính. Từ đây ta quan trọng về thế đứng của cả 14 chính tinh ban đầu khi sắp xếp tinh hệ, sau khi an vòng Tử Vi và Thiên Phủ cho thấy sự giao hội của các chính tinh. Tinh hệ Tử Vi cư Ngọ là tinh hệ hoàn thiện, là một trong những tinh hệ tốt nhất vì bộ Âm Dương rất sáng, Tử Phủ Vũ Tướng Liêm hợp cách. Khi đó, Mệnh ở tùy từng vị trí mà xét sự tốt xấu, nỗ lực của bản thân. Như tinh hệ này thì Mệnh an tại vị trí Sát Phá Tham hay Cự Đồng sơ bộ vẫn bất luận xấu, vì các cung còn lại sẽ được các nhóm sao tốt. Giải thích cho việc có người nhờ cha mẹ mà giàu, nhờ anh chị, bạn bè mà có quyền chức, có kẻ lại nhờ nhả cửa. Quan trọng khi vận hạn tới các cung tốt thì phải luận là tốt vì Hạn chính là thực tại. Mệnh Tài Quan chính là sự nỗ lực mang tính bản thân, thường các sao chủ quý nhập Mệnh chính bản thân là quý nhân của người khác, các sao tam hóa, các cát tinh khác đều mang ý nghĩa như vậy. Trong đa số các phép xem số toán mệnh đều nhấn mạnh tính nỗ lực của Hậu Thiên rất lớn. Trong Tử Vi cũng không ngoài cách đó. Ở thời phong kiến, con vua lại làm vua không phải là đều có lá số Mệnh phú quý, nhưng kẻ có Mệnh phú quý thì ắt khó có thể nghèo hèn. Trên lá số Tử Vi, các cung tập hợp nhiều cát tinh hợp cách với chính tinh và tổ hợp tọa thủ là các cung tốt. Tùy tính chất các Chính Tinh và Bàng Tinh tại đây mà luận tính cách ẩn tốt hoặc xấu. Vì vậy các cung thuộc Đệ Tam Nhân luận khó trúng vì lý do vậy. Như bất luận thuộc cung, sao Thiên Lương cư Mão là cách Dương Lương gia Khôi Việt Tả Hữu Xương Khúc bất kiến Không Kiếp Hỏa Linh đều luận đương số là Mệnh có sự may mắn. Khi gặp may mắn sẽ phát rất lớn, bất kể Mệnh tại các vị trí khác nhau. Tuy vậy, nếu Mệnh lại thuộc Thất Sát, gia Hình Kỵ đồng cung Thân là cách chết yểu, vì cung Thân tối kỵ Thất Sát, cung Mệnh quan trọng hơn cung Thiên Lương. Vì vậy, thuộc cách dù may mắn vẫn phải chết khi đáo hạn xấu. Việc phân biệt rõ ràng các Chính Tinh được bàng tinh gia hội hợp cách hay bất hợp, mức độ tốt xấu cho biết đến sự thành công của đương số. Đặc biệt, các cách có hung tinh như Không Kiếp và Kỵ Hình cần xem kỹ về các chính tinh đi với các sao này. 12 cung các đại hạn và tiểu hạn đều phải trải qua các tam họp hoặc chính bản cung. Như chỉ cần xem các bàng tinh và chính tinh đi với Kình Đà. Nếu Đà La tốt tức được Tứ Linh Khoa Quyền Lộc Xương Khúc thì trong các sự việc, nhường nhìn một thì lợi mười, trong kinh doanh không tập trung mà mở rộng bao phủ, trong chiến đấu không nên tấn công mà phòng thủ. Với Kình Dương tốt ta luận ngược lại. Không cần phải ở cung Mệnh Tài Quan Thân vẫn luận như vậy, tuy nhiên cần phân biệt với từng hạn có tụ tập các hung tinh hay các sao phá cách ở mức độ lớn để biết trọng khinh. Nếu Đà La ở một cung tốt nhưng Mệnh Hạn đều báo hiệu cái chết thì Đà La buộc phải xuống quan tài. Đây là một yếu tố để giảm họa khi tới hạn xấu, nếu Tổ Hợp thuộc Mệnh Hạn tác động mạnh khiến tính chất của hạn từ Ẩn về Hiện tác động xấu rõ, khi đương số ngăn tính chất xấu hung tinh và dụng Đà La thì giảm tác động của hạn xấu. Vì vậy một lá số tử vi nhưng cùng tới hạn xấu một chết một họa nặng.


Các tổ hợp sao đặc biệt cần chú ý ở các cung khi luận giải tử vi, tránh trường hợp coi thường dẫn đến luận đoán thiếu chính xác. Các sao chủ tăng tính quan trọng hoặc nghiêm trọng như Tuần, Đại Hao, Hồng Loan, Khôi Việt, Quốc Ấn, Thái Tuế, Khoa nếu hội họp tại tam hợp cần xét tốt xấu. Nếu ở vị trí xấu là Mệnh không hay vì cách cục cao thấp chủ các sao tăng tính quan trọng có được hợp cách với Chính Tinh. Như Cự Môn ở tất cả vị trí trên lá số được Khôi Tuần Đại Khoa Quyền Ấn là Cự Môn rất tốt, từ tính chất của Cự Môn suy ra các tính tốt đẹp cỉa Mệnh. Lưu ý các sao tăng tính quan trọng ở tất cả vị trí cần hợp cách hoặc không bị hung sát tinh hội họp tránh trường hợp Mệnh tốt, Đại Hạn chỉ khá xấu nhưng Tiểu Hạn nhập cung Trọng Điểm gia Không Kiếp Kỵ Hình phải mạng vong, những lá số này không thể luận có Số Mệnh tốt. Các sao tăng tính quan trọng được cát hóa, các cung còn lại xấu tốt không ở mức quá khiến Mệnh lao đao, vi vậy Tổ Hợp Trọng Điểm quan trọng trong một lá số. Các cung chứa các tai họa bởi tụ tập hung sát tinh hoặc không hợp cách cũng luận nhiw trên. Trong Tử Vi, cung Hạn rất quan trọng trong việc luận đoán vì đây là hiện tại, là những thứ đang trải qua, phối hợp với Mệnh cho kết quả sẽ tương đối chính xác về sự việc diễn ra tại hạn. Như Mệnh có Triệt, Đại hạn gặp Tam Không, tiểu hạn có Tử Vi hoặc Nhật Nguyệt là xấu, có thể dẫn tới nguy hiểm. Cần kết hợp Mệnh và Đại Hạn như Đại Hạn với Tiểu Hạn để luận đoán. Mệnh là tính cách thường trực, Đại Hạn là tính cách bộc lộ và Tiểu Hạn bộc lộ do thay đổi ngắn hạn. Chỉ đơn giản như vậy nhưng để tìm ra những kinh nghiệm nếu không có sách vở từ thời trước rất khó khăn. 

Wednesday, October 12, 2016

Luận cung Thiên Di





Các tính chất của cung Thiên Di


Cung Thiên Di là cung xung chiếu với Mệnh, có tính quan trọng chỉ sau Mệnh Tài Quan. Biểu hiện cát hung khi tính cách của Mệnh tác động ra bên ngoài và những tác động ngược lại đối với Mệnh. Cung Thiên Di là cung xung chiếu của Mệnh, là sự bên ngoài đánh giá về Mệnh, phân biệt rõ ràng các trường hợp sao đi theo bộ như Xương Khúc, Tả Hữu, Khôi Việt ở Thiên Di và các sao có tính chất trái ngược khi xung chiếu như Thanh Long Bệnh Phù, Thái Tuế Thiên Hư, Tang Môn Bạch Hổ. Với một sao tam hợp, một sao xung chiếu trong bộ thuộc cách củng chiếu có tính chất riêng khác với tam hợp và tọa thủ tại bản cung. Một số trường hợp củng chiếu hay hơn tọa thủ Mệnh. Không phải xem Tử Vi phải nhìn trọng yếu hoàn toàn về cung Mệnh, quan trọng là cả 12 cung và quá trình vận hành của Mệnh có thực sự đi theo chiều hướng phát triển, như các cách phát tài nếu hai đại hạn tiếp theo Mệnh chủ về tài là cách cục tốt đẹp, nếu theo đường quan lộc phải xem xét luận kỹ càng, chưa hẳn tốt hoặc họa. Thiên Di cung là cung tam hợp với cung Phúc Đức và cung Phối, do vậy với Nữ Mệnh quan trọng hơn Nam Mệnh. Tam hợp Phúc Phối Di là cường cung mà cung an Thân có thể cư tại các vị trí này. Cung Phúc Đức thể hiện tầm quan trọng trong việc phúc họa, tình hình, sự quan tâm giúp đỡ của họ hàng với bản thân và ngược lại. Cung Phúc Đức rất kỵ gặp phải cách xấu như Địa Kiếp tọa thủ là cách hữu tai, lắm nạn. Cung Phối thể hiện tầm quan trọng với bản thân vì người phối ngẫu khi trưởng thành luôn ở bên cạnh ta, các cường cung đa số thuộc về bản thân là chủ yểu, Phối Ngẫu tốt thuộc cách vượng phu ích tử mệnh dễ thành công, hoặc là nam thì có chí hướng tiến thủ, thành công, có địa vị là tốt. Vì vậy cung an Thân cư ở các vị trí ảnh hưởng trực tiếp tới bản thân và mang tính cá thể, liên quan mật thiết nhất với bản thân. Cung Thiên Di tốt bên ngoài đánh giá ta tốt, cũng là cách gặp niềm vui, phát tài, phát danh, học được kinh nghiệm, kiến thức ảnh hưởng lớn đến tính cách của bên ngoài tạo ra. Mỗi người ra đường đều để ý đến các việc khác nhau, và thay đổi tính cách cũng khác nhau. Như việc ra đường ta để ý đến cách kinh doanh của mỗi gia đình để học hỏi, trong khi người khác để tâm tới việc khác như bụi bặm, việc mất vệ sinh, hoặc đưa cái chú ý về cái xe đẹp,.. Là một trong nhiều cách Mệnh và Di phối hợp. Nếu cả hai cùng tốt ra ngoài học được điều hay, có người ngưỡng mộ, yêu quý. Trong trường hợp một thứ xấu tức xảy ra vấn đề khi giao tiếp bên ngoài. Cung Thiên Di cũng thể hiện khi con người bước đến cung Phối hoặc hạn cung Phúc vì đến tuổi trưởng thành cần có mối quan hệ xã hội. Trong thực tế ngày nay việc cung Thiên Di ngày càng cần thiết vì giao lưu rất nhiều. Trong các trường hợp xa xứ làm ăn, học tập thấy rõ tác dụng khi cung Thiên Di tốt xấu. Mệnh xấu Di tốt thường là cách li hương cầu thực mà tốt lên. Một số chính tinh như Thiên Lương ở cung Thiên Di là cách ra ngoài được giúp đỡ, được chỉ bảo để tăng hiểu biết tránh khỏi tai họa. Đặc biệt sao Thiên Lương ở cung Thiên Di thuộc cách may mắn như được phù hộ vì có lúc thoát nạn trong phút chốc như thực tế ta thường gặp là may mà được khuyên bảo về nhà gặp ngay tình huống nguy hiểm để biết cách xử lý.
" Lương xung tọa thủ kiêm thọ ấm".
Thiên Di là một cung rất cần sự tốt đẹp, nhưng cần lưu ý một số sao xung chiếu có đặc điểm trái ngược với Mệnh như sao Bạch Hổ và Tang Môn, Lộc Tồn và Phi Liêm. Tùy theo cách cục mà Mệnh có thường Mệnh cần thiết tốt hơn cung Di vì tất cả các cung còn lại đều được chi phối bới bản tính của cung Mệnh.


Các sao chủ công danh và quyền lực hoặc hóa khí như Hóa Khoa và Hóa Quyền cần thiết có mặt tại bản cung hơn tam hợp và tam hợp hơn xung chiếu vì chủ thể hiện sự thành công của bản thân không nên để ở vị trí bên ngoài. Như sao Hóa QUYỀN chủ quyền lực nhập Mệnh là cách bản thân tạo ra uy quyền bởi bản tính nghiệp tạo bới chính tinh. Nếu ở cung Tam Hợp tức Tài hoặc Quan có QUYỀN là cách sử dụng tiền bạc hay quan chức để tạo nên quyền uy. Trong trường hợp ở cung Thiên Di vẫn khá tốt đẹp, chủ quyền lực bên ngoài mang vào để ta thi hành nếu Mệnh xấu hoặc bản thân ra ngoài được mọi người tín nhiệm. Cách QUYỀN ở cung Thiên Di không phụ thuộc bản thân bằng cách cư Mệnh hoặc ở tam hợp Tài Quan, tức đụng đến tính cách là quyền uy, ta đụng đến tiền là có Quyền, đụng đến công danh là có Quyền. Cũng chính là cách mang ý nghĩa thành công về tiền bạc và địa vị. Trong trường hợp đi qua câc đại hạn, Hóa QUYỀN tại tam hợp hoặc bản cung Mệnh phát huy hiệu quả, nếu ở cung Thiên Di chỉ tốt khi ra ngoài. Tuy nhiên một số sao xung tốt hơn tại Mệnh. Như hung tinh ở vị trí xung đỡ xấu, sao Phượng Các tại vị trí xung chủ ra ngoài được ngưỡng mộ. Cách TỌA QUÝ HƯỚNG QUÝ của Khôi Việt tốt hơn ở vị trí tam hợp. Tùy vào ngành nghề cũng phân ra các cách cần thiết ở cung Thiên Di. Như kinh doanh có Vũ Khúc hoặc Thiên Lương xung là cách tốt. Thiên Di nếu có bộ Không Kiếp tọa thủ nhiều khi xấu hơn bản cung, vì Thiên Không là ngôi sao chủ bất ngờ. Nếu Không Kiếp tại Mệnh có thể bản tính ta xấu, quan trọng là tính chất thiên về bất ngờ khi ra ngoài của Thiên Không.
" Thiên Di tối kỵ Kiếp Không lâm vào".
Sao Thất SÁT dù gia cát xung, tức Mệnh là Thiên Phủ vẫn xấu. Vì vậy Thiên Phủ là ngôi sao cẩn trọng, chủ che dấu.

Tuesday, October 11, 2016

Phá Quân Thìn Tuất thủ mệnh







Mệnh Phá Quân độc tọa Thìn Tuất


Phá Quân độc tọa tại Thìn Tuất thường bị chê là cách tiểu nhân tại vị, bất nhân bất nghĩa. Mỗi chính tinh đều có hai mặt tốt xấu, khi tốt là hợp, khi xấu là bất hợp. Sao Phá Quân tại Thìn Tuất là vị trí đặc biệt của chính tinh này khi nhị hợp với Cự Môn và xung chiếu Tử Vi. Sao Tử Vi là đế tinh, khi đắc cách chủ chính nghĩa, là hành động được mọi người hưởng ứng, mang tính lãnh đạo. Cách Phá Quân chủ bất nhân chỉ khi Phá Quân bị hung sát tinh xâm phạm khiến sao này nhấn mạnh tính chất Phá hoại, Phá Quân khi đó chính là quân làm phản, xâm phá những thứ mà Tử Vi đã gây dựng từ chính nghĩa. Bộ Sát Phá Tham thường mang hung tính vì Thất Sát là sao chủ chiếm đoạt hoặc đánh mất, Tham Lang là sao tham lam, hạch sách. Khi đó Phá Quân là sao cầm đầu chống lại xã hội. Không phải mọi việc xấu của Phá Quân là thất bại, việc Phá Quân khi xấu làm ngược đạo, bất chính nhưng vẫn có thể thành công. Phá Quân khi xấu ở đây nói đến tính cách chuyển biến theo chiều hướng bất thiện, khác với cách Phá Quân gặp phải hung họa khi gia sát tinh. Thìn Tuất là nơi La Võng gọi đầy đủ là Thiên La và Địa Võng. Đa số các sao dụng được bộ La Võng đều có thêm tính mưu mô, yểm trá. Một số trường hợp phúc thiện tinh ngộ LA VÕNG là cách túc trí đa mưu, làm việc tốt, bàn mưu kế, kế hoạch tốt đẹp như cách Cơ Lương. Phá Quân có hai sao Thất Sát và Tham Lang tam hợp ngộ La Võng dễ chuyển biến theo chiều hướng xấu.
" Trai bất nhân PHÁ QUÂN Thìn Tuất, gái tệ bạc Tham Sát Dần Thân".
Hoàn toàn đúng nếu có thêm hung tinh trợ giúp như Kình Dương chủ cướp đoạt, Hỏa Tinh dễ nổi nóng, làm việc bất nhân. Phá Quân là một trong những ngôi sao lãnh đạo trong Tử Vi, nếu trường hợp ngược lại tức Tử Vi làm việc bất chính thì Phá Quân thực hiện hành động bắt giữ, Thất Sát chủ giết tha. Trong triều đại xưa thì Vua tức TỬ VI là Thiên Tử, chữ Trung rất được coi trọng, vì vậy dù PHÁ QUÂN hợp cách chủ chính nhân quân tử lật đổ Vua cũng mang tiếng BẤT TRUNG. Phá Quân ở vị trí Thìn Tuất xung chiếu tức trực tiếp là đối thủ của Tử Vi, vì bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm đã hình thành nên nắm chính nghĩa, cách Phủ Tướng ngộ Tử Vũ Liêm khiến nhóm này được lòng người, do Phủ Tướng là tình cảm, tình thương bao bọc. Cách Phá Quân lại có sao Cự Môn chủ phản, có Thiên Cơ đồng cung là mưu kế, cơ trí nhị hợp khiến Phá Quân lâm Thìn Tuất lại mang thêm tiếng oan do La Võng. Vì vậy, cổ nhân nhấn mạnh đây là cách Bất Trung, rồi tiếp đến là Bất Chính do nhị hợp Thiên Cơ chủ mưu kế, bộ La Võng là mưu mô. Cũng vì vậy Phá Quân ở vị trí này đã mang sẵn địa vị, cách cục này các sách thường ghi là Vượng Địa chỉ kém cách Phá Quân cư Tí Ngọ. Phá Quân không hóa thành Khoa do không có tính chất bằng cấp, khoa học của Khoa, ngược lại Hóa QUYỀN và hóa LỘC là hai hóa khí rất cần thiết cho Phá Quân. Nhóm Sát Phá Tham trái với ba nhóm còn lại chỉ cần một hóa có thể làm nên việc lớn, quan trọng là hung tinh hợp cách để bạo phát và không gặp các trường hợp tối kỵ tránh chết yểu vì đã mang sẵn hung tính, hạn cần tốt để tạo môi trường tốt. Phá Quân cần hóa Quyền hoặc các sao chủ Quyền là trước vì tính chất PHÁ của ngôi sao này. Tuổi Giáp tứ hóa Liêm Phá Vũ Dương hợp với Phá Quân. Tuổi Quý có Phá Quân hóa thành Lộc, cách này chủ khám phá ra cơ chế tạo ra tiền bạc, Tham Lang chuyển thành tài tinh, nếu có THAM HỎA đồng độ phú cách. Phá Quân rất cần có Tả Hữu để có đồng đảng nếu xấu và phụ tá nếu tốt. Tả Phụ và Hữu Bật mang sẵn tính chất của Khoa khiến Phá Quân trở thành đúng. Nếu Tả Hữu hóa thành Khoa rất tốt, gia thêm Khôi Việt và Quyền Lộc là kỳ cách, theo binh nghiệp được chiến công hiển hách, có thể giữ địa vị cao nhất. Các sao Tử Vi, Cự Môn và Phá Quân rất cần Khôi Việt để tăng địa vị, lưu ý Khôi Việt cần có Khoa hoặc Xương Khúc, kỵ cách Khôi Việt ngộ Thiên Hình hoặc Linh Hỏa dễ gặp nguy hiểm. Có Xương Khúc khiến tăng thêm hiểu biết, giảm Sát Khí của bộ sao này, bộ Xương Khúc cần gặp cho Sát Phá Tham đặc biệt Phá Quân tại Thìn Tuất để tránh bộ Không Kiếp hội họp tại đây. Phá Quân cần gặp Triệt Tuần, là cách phân biệt đúng và sai, nhưng tránh trường hợp tạo thành cách Nhị Không không mấy hay.


Phá Quân và Thất Sát qua kinh nghiệm và cổ nhân đưa ra đây là hai chính tinh có khả năng đắc dụng với Không Kiếp. Tuy nhiên phải phân biệt rõ ràng cách Không Kiếp tại Mệnh và Không Kiếp tại Đại Hạn. Phá Quân gặp Không Kiếp đơn thủ hoặc tam hợp, hội họp tại Mệnh đều không phải là cách xấu. Tuy nhiên với Phá Quân tại Thìn Tuất nếu không có các sao hợp với Phá mà ngộ Không Kiếp không phải là cách hay vì hình thành cách Kiếp ngộ La Võng. Không Kiếp cần ở Tị Hợi hoặc Dần Thân là bốn vị trí đắc địa của sao này. Phá Quân tại Thìn Tuất nếu có KHÔNG hoặc KIẾP đồng cung là cách gặp Không Kiếp đơn thủ, cách này hợp với Phá Quân. Hai sát tinh Không Kiếp nếu hợp cách luận bạo phát nhanh và lớn hơn tứ sát Kình Đà Hỏa Linh đắc địa, đặc biệt cách KHÔNG KIẾP ở vị trí Tị Hợi khi đồng cung bổ trợ nhau lớn về mặt tính chất và khả năng không ngờ của Thiên Không.
" Không Kiếp tị hợi miếu vì, hoạch phát hoạch phá tựa thì sấm ran".
Khi Phá Quân ngộ Không Kiếp tại Mệnh cần thiết có Triệt tại bản cung, tiếp đến bộ Tả Hữu, Binh Tướng, lưu ý tránh gặp Lộc Tồn xung hợp. Tả Hữu khiến Phá Quân giảm khó khăn, tăng sức lãnh đạo, chỉ huy. Nếu có Khoa Quyền chứng tỏ thành công phá mọi khó khăn nếu đơn thủ Kiếp, là cách bất ngờ tạo nên thành tựu vì bộ Không Sát tính bất ngờ cao. Phá Quân có thể gặp thêm Kình Dương nhưng tránh gặp cách Dương Linh chủ bạo hành, ngược đãi cách dễ rước họa. Phá Quân hạn gặp Không Kiếp là cách hay hơn tọa thủ tại Mệnh, chủ có khả năng thích nghi và chiếm đoạt, giành thắng lợi với môi trường bất lợi. Phá Quân kỵ nhất gặp Lộc Tồn đồng cung, hội họp vì Phá chủ phá bỏ, ngộ Lộc Tồn là cách mâu thuẩn một bên phá một bên tồn tại. Và Sát Phá ngộ Lộc Tồn là tồn tại những thứ mất mát, còn hung họa. Cách này cần Khoa Quyền hoặc Triệt để giải trừ ý xấu.

Monday, October 10, 2016

Thiên Phủ Sửu Mùi thủ mệnh




Thiên Phủ độc tọa tại vị trí Sửu Mùi

Thiên Phủ thuộc bộ Phủ Tướng là một trong các chính tinh có nhiều đặc điểm tốt trong tử vi. Thiên Phủ thường được gọi là Đế Tinh cùng sao Tử Vi vì dẫn đầu một nhóm sao gọi là chòm Thiên Phủ. Thiên Phủ và Thiên Tướng luôn tam hợp dẫn đến tính chất đặc biệt của tổ hợp này. Thiên Phủ không giao hội với bộ Tử Vũ Liêm, trong khi đó Sát Phá Tham xâm phạm Tử Vi hình thành cách TỬ THAM không mấy hay đi cùng với Liêm Sát và Vũ Phá. Thiên Tướng độc tọa ở cung Tị Hợi, cung còn lại VCD có Tử Tham xung. Cách cục Thiên Phủ cư Sửu Mùi không mấy hay vì không hình thành các tổ hợp về tiền bạc và cả địa vị. Thiên Phủ và Thiên Tướng đều không hóa khí, cung còn lại VCD khiến Mệnh khó nổi danh. Nói chung nếu tại vị trí này Thiên Phủ không gặp các cách tối kỵ đều đa số chủ thọ, đặc biệt khi Thân và Mệnh đồng cung. Thiên Phủ là ngôi sao chủ quản lý, mệnh có Thiên Phủ hợp các vị trí giám sát, quản lý. Thiên Phủ là bao phủ, được gọi là cái kho. Mệnh có Thiên Phủ hỉ gặp tài tinh Lộc Tồn, Hỏa Lộc hoặc Vũ Khúc là cách phát phú ông. Thiên Phủ nhập Mệnh đa phần có tính cách cẩn thận, ổn trọng.
" Nam Thiên Phủ giao long vãn uyên".
Đây là câu phú thường gặp khi nhắc đến ngôi sao này. Thiên Phủ là ngôi sao quản lí, luôn có Thiên Tướng chủ hỗ trợ ở tam hợp. Cách Phủ Tướng cần thêm bộ Tả Hữu để gia tăng tính thực trong công việc quản lí. Hai sao Tử Vi và Thiên Phủ rất cần có Tả Hữu giúp sức, nếu không khó thành tựu. Ở cung VCD có Tử Tham xung là cung hạn mang tính quan trọng của cách cục. Cách Thiên Phủ độc tọa ở Sửu Mùi là cách cục khá dễ luận giải vì không có sự giao hội của các chính tinh mà chỉ có hai chính tinh. Thiên Phủ như tất cả các sách đều viết tối kỵ gặp Triệt, thứ đến là Thiên Không và Tuần. Ngộ Nhị Không hay Tam Không mức độ nguy lớn vì Thiên Phủ tối kỵ gặp Không Vong, khi đó chữ Thọ của cách này khó đạt được. Thiên Phủ là ngôi sao hợp với Tứ Sát Kình Đà Hỏa Linh, các hung tinh này tạo lực kích phát để Thiên Phủ trở nên quan trọng hơn. Thiên Phủ tại vị trí này giáp bộ Nhật Nguyệt nên cư Sửu tốt hơn ở vị trí cung Mùi vì được bộ Âm Dương sáng. Thiên Phủ được bộ Nhật Nguyệt giáp nên có được tính phòng bị cao, bản tính cũng là ngôi sao chủ ẩn nên tối kỵ bị Triệt án ngữ. Thiên Phủ tượng là ngôi nhà lớn, dinh thự, ở cung Điền Trạch luôn có CỰ MÔN là ngôi sao chủ nhà đất. Thiên Phủ là ngôi sao chủ nói, gặp Thiên Tướng là cách tương trợ, nâng đỡ, cũng là cách dùng lời nói tạo tình cảm để che giấu mục đích, do vậy Thiên Phủ là ngôi sao có tính lãnh đạo vì giỏi sử dụng lời nói để thu phục, vì vậy cần Tả Hữu phụ họa làm tay chân đắc lực. Thiên Phủ là ngôi sao chủ nói, cũng như Cự Môn nhưng Cự Môn thiên về Ám Tinh, chủ phản đối, bài bác thì Thiên Phủ chủ khéo lấy lòng người bằng tình cảm lời nói. Cách Cự Thanh là cách hay nhưng không bằng Phủ Thanh. Thiên Phủ ngộ Thanh Long là cách rất tốt vì chủ sự sống ngay cả khi bị Triệt án ngữ. Thiên Phủ ngộ Thanh Long là cách lên tiếng nói, đây là ngôi sao rất cần thiết với Thiên Phủ ngộ các cách xấu.
" Phủ ngộ Không Vong phùng Thanh Long phản vi cát tường".
Không chỉ giảm tính xấu của cách PHỦ ngộ Không Vong còn khiến cách này trở nên tốt đẹp. Mỗi Chính Tinh đều có một bàng tinh rất cần thiết để hóa giải các cách xấu. Trong đây còn chứa cách Binh Tướng cũng là cách hay để chế ngự Thiên Không. Thiên Phủ có tính che dấu nên có Thái Dương ở cung Nhị hợp, ngộ Thiên Không là cách không che giấu nổi, khi có Thanh Long là cách khi bị lộ trước Thất Sát ở đối cung vẫn lên tiếng được, nếu im lặng tức là cách chịu tội hoặc đã chết.


Thiên Phủ tọa Mệnh hỉ gặp Khôi Việt để tăng tính quý, cũng mang đến thêm danh vọng và địa vị cho Thiên Phủ. Bộ Khôi Việt Xương Khúc Tả Hữu được gọi là lục cát tinh vì ít biểu hiện các đặc tính xấu mà chủ giúp Chính Tinh về các mặt công danh. Do cách Phủ Tướng không có hóa khí nên cần thiết có các sao mang tính quan trọng, gặp Thanh Long, đến Tả Hữu là cần thiết nhất, cần gặp Lộc Tồn để tăng tài cách và được sao Quốc Ấn mang tính quốc gia. Gặp Đào Hồng chủ nói lớn, Hồng Loan cũng hợp với Thiên Tướng thành cách TƯỚNG HỒNG chủ dung mạo đẹp. Nếu có Hóa Khoa rất tốt, đặc biệt là cách TẢ HỮU hóa thành Khoa. Thiên Phủ đã mang sẵn tính Quyền trong bản chất của Chính Tinh này, ngộ Hỏa Linh không nguy hại tăng thêm quyền uy, có Kình Dương hợp với Kinh Thương. Thiên Phù đồng cung với Thái Tuế hoặc trong tam hợp Tuế Hổ Phù cũng là cách hay, đặc biệt có Phượng Các tức bộ Tuế Phượng. Đại hạn đầu tiên của Thiên Phủ tới Thái Âm hoặc Thái Dương mang các tính cách khác nhau, tới Thái Dương có tính công khai, Thái Âm có tính che giấu bộc lộ. Hạn đến tam hợp Phúc Phối là cung hạn then chốt. Mệnh Thiên Phủ tối kỵ cung an Thân là sao Thất Sát, đặc biệt là khi Thất SÁT xấu như bị Kỵ Hình hoặc Bạch Hổ xâm phạm rất dễ yểu mệnh nếu bản Mệnh và đại hạn thuở nhỏ không tốt.



Saturday, October 8, 2016

Lá số Cự Cơ Mão Dậu p3



Lá số Cự Môn và Thiên Cơ ở vị trí Mão Dậu p3

Cung Hạn là sự biến đổi của bản tính do môi trường tác động. Như việc học tập trong sách vở từ tiểu học đến hết trung học phổ thông cung cấp cho mỗi người rất nhiều kiến thức khoa học để phòng tránh nhiều thiên tai, điện lửa,... và Văn Học cung cấp cho con người cách đối nhân xử thế, cách để thành công trong cuộc sống, môn Đạo Đức răn đe chúng ta về việc luật pháp và hậu quả các hành vi trái pháp luật. Tuy cùng một giáo viên dạy cùng lớp nhưng mỗi người đặt sự chú ý tới một môn học hay vấn đề khác nhau. Và số mệnh bắt đầu từ sự phân biệt ấy. Môi trường tác động vào Mệnh chính là cung Đại Hạn kéo dài 10 năm của mỗi người, và đại hạn góp phần luận đoán cả nghề nghiệp, hầu hết tất cả mọi mặt diễn ra trong đại hạn. Một mệnh tốt cần các cung đại hạn hợp với cung Mệnh, hoặc một đại hạn tốt đẹp. Vì vậy xác định hành vận thuận hay nghịch là yếu tố quan trọng để nhận xét Mệnh cùng cách cục nhưng thành bại khác nhau. Mệnh Cự Cơ không mấy tốt thuở nhỏ thường hay táy máy, nghịch ngợm. Do mệnh gia KÌNH KỴ LINH HÌNH VIỆT nên đã nhiều lần bị thương tích, trong đó có hai lần nặng là mổ viêm ruột và bị mảnh vỡ va vào cổ. Mệnh cũng có lần suýt bị điênh giật chết vì ngậm dây điện tức Cự Kỵ có VIỆT LINH HÌNH, may phúc ấm lớn tức cung An Thân cư Phúc Đức là điểm mạnh có sao Thiên Lương tốt đẹp chủ bất phạ tai ương, Mệnh có HÓA KHOA cũng giảm họa hại. Hồi nhỏ tuổi phải xa cha mẹ thường xuyên, hay gây mâu thuẫn trong nội bộ, chủ thích tự lãnh đạo, thuộc cách phản đối. Đại vận đầu tiên ở cung Mệnh đánh dấu việc hình thành nhân cách con người, tuy nhiên Mệnh cũng có sự ham học hỏi, có tài năng sớm bộc lộ. Ở đại hạn đầu tiên, ra ngoài được người ngưỡng mộ, yêu quý chủ do bố mẹ tạo ra ứng với cung Thiên Di rất tốt đẹp có Âm Dương tam hợp chiếu. Bước qua đại vận thứ hai theo chiều thuận là cách Tham Lang cư Dần ngộ  Triệt Hỏa Ấn Tướng Hồng tại bản cung, tam hợp có Thất Sát ngộ Tồn Đào Tả, Phá Quân có Không Bệnh, xung chiếu là Liêm Binh Tuần Bật. Xét bản cung đại hạn là sao Tham Lang nên tính cách đặc trưng của ngôi sao này. Tham Lang chính là tham vọng có thêm Đào Hồng là dâm cách, phối hợp với Mệnh tức vào hạn này lòng dâm lớn, có TRIỆT tại bản cung và Thiên Không tam hợp, Tuần xung chiếu thành cách TAM KHÔNG, thuộc cách sớm nắng chiều mưa, khi từ bỏ lòng tham, khi lòng tham trỗi dậy. Tham Lang nếu như vậy là xấu nhưng có Hỏa Tinh tại bản cung, Hỏa Tinh ở cung Dần đồng độ với Tham Lang là cách phát phú, tuy ở đây không mấy tốt đẹp vì bị Lộc Tồn ngộ Tam Không là cách xấu chủ mất nhiều được ít. Chủ lòng ham muốn làm giàu rất mạnh nhưng không có thời cơ, chủ bất mãn do Mệnh chính là Cự Môn. Cung hạn có cách BINH TƯỚNG nhị hợp với Thiên Hình ở cung Tài hình thành cách Binh Hình Tướng Ấn, mệnh có Khoa Quyền lạc nhàn nhi hiển danh nên đi học đào tạo Sĩ Quan. 


Bộ Sát Phá Tham có THẤT SÁT là ngôi sao quan trọng cư Ngọ nên không mấy xấu, mặc dù ngộ Tam Không Đào Hoa Lộc Tồn là cách tự tạo ra họa hại cho chính bản thân, cũng trong thời điểm này cung an Thân dần phát triển và quan trọng hơn ảnh hưởng nhiều tới tính cách tức cung Mệnh. Trải qua cung hạn này học hỏi, khám phá tức Phá Quân về kinh tế nên đúc rút được kinh nghiệm. Như Mệnh có cách thuở nhỏ tiếp xúc với sách vở, lớn lên học cách làm giàu từ những tư tưởng đã có từ cung hạn trước. Lá số này thuở nhỏ tiếp xúc với ngành điện, điện tử trên mạng ảo tức sao Linh Tinh ngộ Thiên Hư, hạn Tham Lang cư Dần có tính làm giàu mạnh nên tập trung vào ngành này, đáng tiếc là cách cục Sát Phá Tham chủ mất nên cố gắng đến mấy cũng không có thành tựu, vào học ở trường quân đội, tài cách bị triệt dở chừng do đại hạn xấu, chờ sang đại hạn Âm Dương cư Sửu ngộ Tuế Phượng Lộc Xương Khúc Khôi Tuần Đại để tiếp tục bước tiếp. Hạn ở cung Phu Thê là hạn rất tốt đẹp, mặc dù Âm Dương ngộ Kình xung và Đà La tam hợp nhưng gặp các sao hợp cách Sát Tinh chuyển thành lực kích phát, Đà La hợp với Hóa Lộc và Kình Dương hợp với Xương Khúc Khôi. Hạn này nổi danh và gặp nhiều may mắn do có cách Âm Lương tốt và hình thành cách Dương Lương Xương Lộc hội. Trong trường hợp này có thể chia làm hai hướng lựa chọn tùy thực tại của bên ngoài, tức theo Tài Lộc hoặc Danh Vọng. Mệnh chọn theo tài lôc hạn được Đại Hao, Cự Cơ rất hỉ tới hạn Hao, nhưng đây là cách Hao Lộc không mấy tốt đẹp, đầu tư được nhiều mất cũng không ít. Mệnh có Diêu Kỵ tới hạn này đủ bộ Diêu Đà Kỵ là tam ám, mệnh Việt Linh Hình kỵ hanh Nhật Nguyệt nhưng không mấy lo vì được cả bộ Tứ Hóa toàn phùng hóa giải nhiều cách cục xấu. Đại hạn này phát nhanh và lớn do Mệnh có hung tinh đến hạn tốt.
" Hung tinh đắc địa phát dã như lôi, cát tinh đắc địa bình thường sự nghiệp".
Cách này không nói lên sự thành công của lá số mà nói lên thời gian dẫn tới thành công. Một số sách tử vi nhầm cho rằng cát tinh đắc địa thì sự nghiệp tầm thường, nghĩa gốc là có cát tinh thì sự nghiệp lên một cách yên ổn hơn. Lá số này chủ các cách phát tài, nếu đi theo quan lộ hạn tới Vũ Phủ hoặc Thiên Đồng đều là hạn điều tiếng và đổ vỡ. Hạn Vũ Phủ cư Tí bản cung có Phi Liêm Địa Kiếp, tam hợp là Liêm ngộ Binh Tuần Bật, bên trái là Tử Tướng ngộ Thanh Long cư Thìn có Mộc Dục. Đây là cách để lại tiếng xấu do có cách Thanh Long Mộc Dục chủ danh tiếng ngộ Kiếp Tuần là tiếng bia miệng xấu suốt ngày không yên. May mắn là có Thanh Long tại đây, nếu chỉ có Kiếp Tuần lại là cách xấu hơn rất nhiều. Sao Thanh Long gặp Thiên Phủ là cách lên tiếng hợp lí, tuy bị ảnh hưởng đến thanh danh nhưng vẫn giữ được tài sản của Vũ Phủ. Cách Vũ Phủ cư Tí nhị hợp có Âm Dương Lộc là  tài cách, chủ tiền có kho giữ, hơn nữa được Lộc Tồn xung chiếu thuộc cách Lộc trùng điệp. Trên lá số cung Tài Bạch có Thiên Đồng ngộ Thiên Mã cũng là cách dễ phát tài khi Tham Lang ở cung nhị hợp đồng độ với Hỏa Tinh. Hạn đến sao Thiên Đồng về cung Tài Bạch ngộ Tam Ám gia thêm Kình Đà Linh Việt Hình có Cơ Tang dù có Khoa Quyền là cách cục xấu, chủ phá tài, hoặc họa về tài, có thể nguy hiểm tính mạng Thiên Lương tốt đẹp có thể giải được họa nhưng những năm tiểu hạn xấu đến phải rất đề phòng sấm sét búa đao do đã hình thành đủ bộ Cơ Lương. Nói chung cung Thân chủ thọ nhưng hạn xấu cần phải thật đề phòng nếu không cũng khó thoát cảnh mạng vong. 

Friday, October 7, 2016

Lá số Cự Cơ Mão Dậu p2




Lá số Cự Môn và Thiên Cơ đồng cư Mão Dậu p2


Cung an Thân là cung quan trọng hơn cung Mệnh, thể hiện tính chất thay đổi của Bản Tính qua sự tác động thời gian. Cung an Thân trở nên quan trọng khi thân thể phát triển hoàn chỉnh, cung này có sự tác động tới tính cách và gắn liền với cung Mệnh không thể tách rời, cùng thể hiện ra ngoài tính cách mỗi người. Vậy nên có thuyết cung an Thân là hậu vận, bắt đầu từ 32 tuổi. Một cung Mệnh xấu và cung Thân tốt cho thấy tính cách khi phát triển về sau càng hướng tới thành công, tất nhiên là việc ở cung Đại Hạn chi phối chủ yếu về thành công của con người. Với cung an Thân có Thiên Lương cư Tị ngộ Trường Sinh gia Đà Khốc Xương Khúc Khôi Đại Tuế Phượng Ân Quý Lộc Mã là cách cục khá tốt đẹp cho Thiên Lương, chủ bản thân có sự may mắn lớn về thân phận, cũng là cách về sau được hưởng thụ phúc ấm tổ tiên vì Thiên Lương tốt đẹp cư Phúc Đức. Xét về nội tâm, Mệnh có Cơ Diêu Triệt là cách ham muốn tình dục lớn, tam hợp có Kình Dương càng mạnh hơn, gia bộ Kỵ Hình Việt Linh dễ vi phạm pháp luật vì ham muốn này. Tuy nhiên với cung an Thân là Thiên Lương cư Phúc Đức tốt đẹp khiến đương số kìm chế, gặp may mắn không xảy ra chuyện trong khi nhiều lúc không kiềm chế được bản thân. Cách cục Lương cư Tị Hợi các sách viết về việc nam lãng đãng, nữ đa dâm là võ đoán, cách này cần thêm nhiều yếu tố mới có thể luận như vậy. Một cung Thân tốt, cung Mệnh không quá xấu là yếu tố tốt để thành công, hơn hẳn cách Mệnh tốt mà Thân xấu. Không chỉ cung Thân có tác động tới tính cách, bản tính của cung Mệnh. Ngược lại, các thói quen, tính cách tốt xấu của Mệnh cũng ảnh hưởng mạnh tới cung Thân. Như việc Mệnh có cách vi phạm pháp luật nghiên trọng dẫn tới cung Thân cũng bị ảnh hưởng vì thân thể bị giam cầm, còng giữ. Cung Mệnh có yếu tố tiên quyết thành bại hơn cung Thân, nhưng xét về mặt sống chết, hoặc về tính bình thường thì Thân và Hạn quan trọng hơn Mệnh. Sao Thiên Lương, Thiên Đồng rất hỉ gặp Trường Sinh, chủ phúc ấm dày. Cung Thiên Di tại bản cung là VCD có nội là Âm Dương Lương, ngoại là cách Cự Cơ Đồng. Bộ sao Âm Dương Lương hoàn toàn tốt đẹp, nhưng tại vị trí này gặp thêm Cự Môn ngộ Diêu Kỵ ở đối cung hình thành cách Tam Ám Diêu Đà Kỵ, cách Tam Ám làm xấu cung Thiên Di, chủ ra đường thường vướng thị phi, bị tụ tập tức cách CỰ CƠ ĐỒNG nói xấu sau lưng. May còn Phượng Các tại bản cung nên đa phần lời nói không hay là do ghen ghét với tài năng mà ra. Trên lá số này bản cung Tài Bạch và cung Thiên Di bị bộ sao Tam Ám xâm phạm. Tam hợp Phúc Phối Di là tổ hợp cung trọng điểm khi gặp bộ Tuế Hổ Phù, Khôi Việt, Đại Tiểu, Sinh Vượng, Tuần. Vì vậy hạn đến tổ hợp này chú trọng cả lưu phi tinh về có tác động rất lớn tới cách cục.


Một lá số Tử Vi tốt đẹp tức số mệnh tốt phải có toàn bộ 12 cung không có khuyết điểm nặng nề khiến Mệnh gặp họa lớn khi lưu động tới cung số ấy. Mệnh phải tốt nhưng không tập trung hoàn toàn các cách cục tốt tại Mệnh dễ dẫn đến cách tử vong khi nhập hạn ngoài tam hợp vì hội tụ rất nhiều hunv tinh tại đây. Mệnh Thân Hạn phải cần có điểm nhấn, tức các cách cục dụng được hung tinh mới luận là số quý vì hung tinh bị trấn giữ, đắc dụng không gây hại thì hạn đến không gặp lo lắng hung họa. Như cách THAM ngộ Hỏa Linh là cách tốt đẹp chủ ý chí tham vọng làm giàu hoặc tham vọng quyền lực là cách dụng được hung tinh. Trái lại cách CƠ NGUYỆT ĐỒNG LƯƠNG ngộ Hỏa Linh là cách xấu, có hiểm họa ẩn tàng, nhưng nếu lại có các bàng tinh hợp với Hỏa Linh lập thành cách lại chuyển tốt như cách LINH KỴ QUYỀN, cách HỎA TINH ngộ LỘC. Cung Hạn là kết cục cùa Số Mệnh trong quá trình phát triển, đây là cung thể hiện mặt tích cực nhất cung Tử Vi, tức thể hiện sự bình đẳng về các cơ hội thành công khi gặp thời thế của Mệnh tạo. Mệnh Thân dù rất tốt đẹp, nhưng đáo hạn Sát Phá Tham gia Hình Kỵ Không Kiếp Linh là cách tử nạn rất dễ gặp. Mệnh và Thân tốt nhưng hạn xấu vẫn phải chết. Trên thực tế có rất nhiều cách chết. Vì vậy, không có lí do gì hạn gặp Cơ ngộ Khôi Việt Song Lộc Tả Hữu lại không phát phú nhanh chóng dù cung Mệnh xấu. Cần phân biệt thêm cung Mệnh xấu và Mệnh ( Số Mệnh ) xấu. Với số mệnh xấu là kẻ cả đời không thể ngóc đầu dậy, thuộc cách bần hàn. Và cung Mệnh xấu có thể phát tài hoặc địa vị khi hạn tốt đến. Tất nhiên việc theo đuổi công danh hay tiền bạc đều qua quan niệm của mỗi người, nhiều kẻ có tài chọn cách sống cuộc sống bình dị vui vẻ. Và một cái hay của cách Cự Cơ để được luận là cách có thể phát phú khi có bộ Sát Phá Tham đắc ý vì Tiền Bạc bên ngoài, lại hạn Nhật Nguyệt giáp Vũ Phủ và hạn Vũ Phủ đều là tài cách. Khi Cự Cơ ngộ Song Hao tức Sát Phá Tham ngộ Lộc Tồn thì Vũ Khúc Thiên Phủ có Thanh Long, nếu Sát Phá Tham ngộ Phi Phục Thanh thì Tử Phủ Vũ Tướng Liêm có Lộc Tồn là cách Tài Tinh Trùng Điệp. Mệnh Cự Cơ ngộ Song Hao đắc ý là mệnh kinh doanh hoặc theo công danh đều luận tốt, nếu theo công danh chú ý đến tính lãnh đạo, cầm đầu của Cự Môn. 

Thursday, October 6, 2016

Lá số Cự Cơ Mão Dậu p1



Lá số Cự Môn và Thiên Cơ đồng cư Mão Dậu


Nam Mệnh có Cự Cơ Mão Dậu có các tính chất khác với nữ mệnh, bộ sao Cự Cơ với nữ tình duyên không được tốt tuy mệnh tạo có tài năng lớn. Với nữ giới cung Phúc Phối Di nên tốt đẹp. Cự Môn và Thiên Cơ là cách không lợi về đường tình duyên. 
" Cự Cơ Mão Dậu bất đáo nhân duyên". 
Cự Cơ nhập Mệnh bộ Âm Dương Lương vào cung Phúc Phối Di. Thiên Lương cư Tị Hợi cư Phúc khiến cách này dễ gây ra rắc rối tình cảm vì Lương cư Tị Hợi khi không hợp cách dẫn đến cách nam lãng đãng, nữ đa dâm. Nam Mệnh mệnh Thủy, bản cung Mệnh là Cự Cơ ngộ Khoa Kỵ Diêu Y Tiểu Tang Triệt. Xét ở bản cung Mệnh là tính cách chung chi phối cả hai cung Tài và Quan, con người thành lập cá tính từ nhỏ. Cự Môn và Thiên Cơ nhập Mệnh có Cự Môn hóa thành Kỵ và Thiên Cơ hóa Khoa tuổi Đinh, gia Diêu Y kị với Cự Môn và có Tiểu Hao ngộ Tang Triệt. Bản tính người này là cách Cự ngộ Kỵ Diêu tính ám khá lớn, thêm Triệt là cách bài xích, phản đối. Nếu không có Hóa Khoa là cách cục xấu vì hình thành thêm bộ Cơ Tang chủ cơ thể bị vấn đề. Khoa tại bản cung lực cát hóa lớn, nếu ở tam hợp không hay bằng, ở cung xung chiếu giá trị giảm lớn. 
" Khoa Quyền củng chiếu bất như lâm viên". 
Như việc chính tinh tại Mệnh là Cự Môn hóa thành Kỵ khác sao Hóa Quyền ở cung Tài Bạch hóa thành Quyền. Mệnh Cự Môn cư Mão Dậu khác với mệnh Thiên Đồng cư Tị Hợi. Tam hợp là nơi rất quan trọng vì ảnh hưởng phần lớn tới bản cung. Bản cung mệnh Cự Cơ có cách không mấy tốt đẹp vì Hóa Khoa không thể giải cả bộ Cơ Tang và Cự Kỵ Triệt Diêu. Xét đến các cung tam hợp để luận hoàn cảnh môi trường và tiếp nhận của bản tính với các tác động. Do mệnh thuộc cách ÁM và có tính phản kháng, bất mãn nên kị các sao tăng thêm khuyết điểm. Các tác động trực tiếp là cung Tài và Quan ở tam hợp. Như một kẻ bản thân có bộ máy tiêu hóa tốt, nhưng đồ ăn mới là thứ quan trọng, nếu ăn phải chất độc thì phải chết, ăn phải chất bổ thì khỏe mạnh. Hai cung Tài Quan phối hợp với Mệnh mới có được kết quả chính xác về sự xuất phát của số. Cung Tài Bạch có Thiên Đồng hóa Quyền ngộ Việt Linh Hình Mã Hỉ Khách, cung Quan Lộc là cách VCD ngộ Thai Tọa Kình  Hư. Xét các cách quan trọng nhất là các cách trọng điểm, tức gây tác động hiển hiện và bộc phát lớn vì các cách này như các sự kiện quan trọng trong quá trình đi hết cuộc đời.



Xét tổ hợp lớn là Đồng Cự Cơ có Song Hao ngộ Khoa Quyền gia Tang Hư Khách với Diêu Triệt Kỵ Việt Linh Hình và Kình Mã Thai Tọa  hình thành bộ Cự Cơ Hao Kình gia Khoa Triệt Kỵ Linh Quyền Hình Việt và Mã Thai Tọa. Xét tổ hợp Mệnh là cách kinh doanh buôn bán và binh nghiệp là hai hướng chính của Mệnh. Ở bộ sao  Cự Đồng ngộ Kình Tứ Mộ có Mã Thai Tọa gia Việt Linh Hình Quyền, có Binh Tướng nhị hợp vơi Thiên Hình ở sao Tham Lang cư Dần, chủ theo ngành quân sự, lực lượng vũ trang,  nếu không có Khoa Quyền luận theo côn đồ du đãng. Khoa Quyền là hai sao chủ sự thành công, mệnh xấu có Khoa Quyền là cách cục cao hơn một bậc so với không có. Tuy hai hóa khí này có thể hướng sát tinh tới thành công nhưng không phải là sao giải họa nếu hung tinh tụ tập, đặc biệt là bộ Không Kiếp. Mệnh do có cách vi phạm kỷ luật là Kỵ Hình, có cách chống đối, phản kháng lại cấp trên là Cự Kình ngộ Việt Linh Hình Kỵ, có bộ Khoa Triệt án ngữ tại Mệnh nên không quá xấu, Tiểu Hao ở Mệnh giảm tính nghiêm trọng. Mệnh theo con đường danh khó thành nghiệp lớn vì bị cách Hư Kình tọa thủ cung Quan Lộc. Cách Cự Kỵ Triệt ngộ Việt Linh Hình Kình việc ăn nói dễ gây mất cảm tình, tuy vậy may mắn Cự Cơ không bị ngộ Lộc Tồn thuộc cách bất mãn tồn tại, là cách cục xấu của Cụ Môn. Vì vậy số theo con đường kinh doanh hợp thời hơn khi Thiên Cơ Hóa Khoa. Nếu theo con đường Quan Lộc dễ đổ vỡ, dù vẫn được đảm nhiệm chức vụ lớn vì Cự Cơ ngộ Song Hao có Khoa Quyền Kình Mã. Trong trường hợp đầu tư kinh doanh được cách Cự Cơ Mão ngộ Song Hao tức Cự Cơ ngộ Kình Dương là cách rất hay tạo thời cơ và biết vận dụng thời cơ, ngoài ra còn giải được một phần của Hóa Kỵ, tuy nhiên lưu ý bộ Kỵ Hình có thêm Tang Môn chủ phi pháp nhập hạn xấu cần cẩn thận nếu không phải vào tù vì sao Phá Quân ở Tật Ách. Cách Cự Cơ rất ưa gặp Song Hao vì ở đây tính thay đổi của Cự Môn đẩy cao vì có thêm Cơ Phá nhị hợp, Cự Môn cũng là sao chủ tài sản, thiên về nhà đất, tượng là cái cửa có sự khai mở của KÌNH hoặc trao đổi của Hao là cách trao đổi được hàng hóa, cũng là trao đổi tiền bạc. Trường hợp này có Triệt Tuần tại hai cung Mệnh và Di xung chiếu khiến tính lưu động giảm, may được Thiên Mã ở Tài cung vẫn hợp cho buôn bán, trao đổi. Cung Thiên Di vô chính diệu tọa thủ các sao Phượng Hổ Đại Khôi Quý Xương Tuần là cách Di tốt hơn Mệnh, cách này không mấy hay khi Mệnh hơi yếu, nếu Mệnh tốt luận bên ngoài trợ giúp, ca tụng Mệnh. Cung an Thân an tại cung Phúc Đức nên có cả bộ sao ở Thiên Di. Đặc điểm của người này là cung Thân tốt hơn cung Mệnh, cung Thân có sao Thiên Lương cư Tị ngộ Trường Sinh gia Xương Khúc Khôi Đại Tuế Phượng Tuần, xung là cách Việt Linh Hình Quyền Mã. Đây là bố cục cung Thân rất tốt, cung Thân chính là thân xác, cũng là thân phận cần thiết hơn cung Mệnh. Vì vậy, sự may mắn luôn đến khi cả đại hạn xấu. Ứng với câu phú Thân tốt hơn Mệnh tốt. 

Sunday, October 2, 2016

Cự Môn cư Thìn Tuất cách






Cự Môn tọa thủ tại vị trí cung Thìn Tuất


Cự Môn cư tại vị trí Thìn Tuất là cách Cự Môn độc tọa tại La Võng. Cự Môn không thuộc nhóm sao chủ khéo và giỏi như Vũ Khúc, Thiên Cơ và có đặc tính Ám nên khi nhập vào vị trí La Võng tức cung Thìn Tuất gây nhiều khuyết điểm xấu. Cự Môn và các sao ám không nên cư tại cung thuộc La Võng chủ dễ gặp nạn liên quan đến bị bẫy, Thiên La và Địa Võng có tính chất giống Đà La. Cự Môn rơi vào vị trí hãm địa bộc lộ bản tính Ám tinh, cách này tối kỵ giao hội thêm Đà La và Hóa Kỵ thành cách CỰ MÔN phùng Đà Kỵ tối hung. Ở cung Thìn, sao Thái Dương hãm. Cung Tuất ở vị trí đắc địa tốt hơn. Cự Môn là ngôi sao chủ tiếng nói, cũng mang tính thị phi. Nếu ở cung Thìn được sao Thanh Long, tức ở tuổi Đinh, Kỷ là cách Cự Thanh Hà là cách rất tốt đẹp cho Cự Môn, hóa giải tính Ám của sao này, cũng là cách phản đối được sự đồng thuận, với cách CỰ THANH của tuổi Đinh là hay mặc dù Cự hóa thành Kỵ, có thêm Hóa Kỵ trong trường hợp này tạo thành cách LONG HÀ KỴ chủ vận hội đến, như Thiên Cơ đắc cách. Thanh Long biến đổi tính chất có tính quyền biến, Thanh Long rất hỉ khi giao hội với Hoá Kỵ. Qua nghiệm lí cách Long Kỵ đồng cung chủ mưu kế tốt. Lưu ý trường hợp khác các sao Phi Liêm hoặc Phục Binh thủ mệnh có Hoá Kỵ tam hợp hoặc đồng cung như Phi Kỵ hoặc Binh Kỵ đều không hay bằng cách Thanh Long thủ mệnh. Luận giải các cách kia cũng khác nhau. Cự Môn hỉ được Hoá Quyền và Hoá Lộc. Với tuổi Tân sao Cự Môn hoá thành Lộc. Tính Ám của Cự Môn rất hợp với Hoá Lộc, chủ có tiền ngầm.
" Tân nhân tối ái Cự Môn".
Cự Môn là ngôi sao chủ đứng đầu, nếu có thêm Xương Khúc thành cách Tứ Hoá toàn phùng vì tuổi Tân an theo Cự Nhật Khúc Xương.
" Cự Môn Thìn Tuất vi hãm địa, Tân nhân hóa cát lộc tranh vinh".
" Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự Môn".
Hãm và Đắc tức là các vị trí xấu hay tốt của Chính Tinh khi an xong hai vòng Tử Vi và Thiên Phủ. Tính quan trọng của vị trí hãm đắc đặt lên hàng đầu vì chính tinh như một tổ hợp các bàng tinh. Chính tinh có tính quyết định lớn tới bản tính của con người. Cự Môn rơi vào thế Thìn Tuất xấu xa nhưng được tuổi Tân rất tốt đẹp vì có TỨ HÓA. Hóa là kết quả biến đối tính chất theo từng Thiên Can của Chính Tinh. Tứ Hóa có tính quan trọng hơn Chính Tinh vì là kết quả thành tựu của Chính Tinh. Cự Môn kỵ gặp sao Lộc Tồn. Ở cung Thìn các tuổi Quý và tuổi Canh ngộ Lộc Tồn là các cách cát xứ tàng hung. Tuy vậy, tuổi Quý được cách Quyền Lộc, tuổi Canh được cách Song Lộc nên không quá xấu. Cự Môn ngộ Hóa Kỵ gia sát là một trong những cách tai nạn sông nước.
" Cự Kỵ nên tránh đò sông, Binh Hình Việt Hỏa mắc vòng binh đao".
" Cự Đồng ngộ Kình Kỵ nhập mộ cung nan phòng thủy nạn".
Cách Cự Kỵ là cách cục xấu mà tuổi Đinh gặp phải, thuộc cách chủ bị ghét bỏ, cũng chủ sự lo sợ cho Cự Môn và Hóa Kỵ đều là hai sao chủ sợ hãi, lo lắng. Cự Môn rất kỵ Hỏa Tinh và Linh Tinh, đây là hai sao phản tác dụng của Cự Môn ngộ Hao cách. Cách Cự Môn ngộ Hao Kình hoặc Hao Đà đều là những cách khá hay. Lưu ý Kình Dương không ở các vị trí xấu như cách Kình ở Dậu của tuổi Canh. Cách Cự Kình là cách phản kháng, cũng chủ khai mở. Trái ngược là cách Cự Môn ngộ Đà La chủ sinh dị chí, Cự Môn ngộ Đà La không mấy tốt vì hai ám tinh gặp nhau, cần ngộ Hóa Lộc để giải tính ÁM. Kỵ ngộ thêm Hóa Kỵ thành cách Cự Môn phùng Đà Kỵ.


Xét về Cự Môn cần phải rõ đặc tính lo âu, sợ hãi của sao này vì Cự Môn chủ bất mãn, là ngôi sao có tâm lí không ổn định, mệnh có Cự Môn xấu thường khổ sở về mặt tinh thần, là cách bất mãn tồn tại không được giải quyết. Cổ nhân đưa ra câu phú thường luận cả cách CỰ ĐỒNG, tức Cự Môn chủ bất mãn, Thiên Đồng chủ khai thông, xấu hay tốt là do bàng tinh quyết định.  Cự Môn ngộ Hỏa Tinh là cách lo lắng thái quá vì Hỏa Tinh có tính động lớn. Thêm Kình Dương là chung thân ải tử.
" Cự Hỏa Kình Dương chung thân ải tử".
Hỏa Tinh có thêm Kình Dương là cách lửa bốc lên cao, nhập Mệnh có cách này chủ nóng tính khó làm chủ bản thân, cần những chính tinh chịu được Kình Dương và Hỏa Tinh. Như cách Tham Lang và Tử Phủ có bộ sao này rất hay. Sao Linh Tinh gặp Kình Dương có tính lạnh lùng, tính phản kháng của Kình Dương tăng. Cự Môn hỉ được bộ Đào Hồng, giảm khuyết điểm trong tính cách lo âu của sao này, do có THÁI DƯƠNG tam hợp cũng là cách ngày vui vẻ. Mệnh có Cự Môn kỵ hạn đến sao Thất Sát thường dẫn đến khủng hoảng về mặt tâm lí, nhất là cách Cự Kỵ. Thất Sát là ngôi sao chủ mất và được. Cách Thất Sát tại hạn không nên gặp thêm Hóa Ky, đặc biệt là cách Kỵ Hình rất xấu. Cự Môn và cách CỰ NHẬT luận tương đối dễ do đặc tính của Cự Môn và Thái Dương chỉ hai sao trong nhóm Cự Nhật. Cụ Môn là ngôi sao kỵ đứng ở các vị trí xấu, các bàng tinh Khôi Việt giúp tăng giá trị của Cự Môn , Xương Khúc khiến Cự Môn phản đối có lý lẽ, dẫn chứng thuyết phục, Tả Hữu tăng tính lãnh đạo của Cự Môn. Quan trọng hơn là hóa khí Quyền Lộc với hai tuổi Quý và Tân rất cần thiết để Cự Môn hoàn chỉnh.