Saturday, October 12, 2019

Tử vi với hai mặt sáng tối ( Phần 2 )





Trong một xã hội luôn có sự phân công vị trí của mỗi thành phần theo trách nhiệm gánh vác. Các tổ chức trong xã hội về chính trị hoặc kinh tế,... Trong một tổ chức, hoặc cá nhân có người làm bác sĩ, kỹ sư, giáo viên, bộ đội, công an, chính trị, kinh doanh,... lại có người làm việc lách luật, phạm pháp, xã hội đen,... Tử vi cũng phân định các cách cục như trên không sai khác. Định hướng của một xã hội tùy vào xu thế phát triển được số đông hướng tới, hoặc do sự tác động của thời thế tại quốc gia. Trong giai đoạn chiến tranh, lực lượng quân đội bảo vệ chủ quyền nắm lệnh, được hưởng chính danh trong xã hội. Nhân mệnh trong giai đoạn xã hội thời kỳ này chứa Sát tính phát khởi sẽ giảm nghề nghiệp khác để hướng tới binh nghiệp. Trong giai đoạn tổng động viên đất nước, những tri thức và thanh niên xung phong trước khi định hướng các ngành nghề của bản thân theo các bố cục, đều sẽ gặp kết quả nhập ngũ chuyển thành binh nghiệp cách. Sự phân công của xã hội hình thành nên các nghề nghiệp, mỗi nghề nghiệp thăng tiến phát triển và cơ hội tới một giới hạn nhất định. Trong thời bình, định hướng của xã hội sẽ có sự thay đổi với giai đoạn bất ổn, biến loạn về chính trị hoặc an ninh quốc gia. Sự nghiệp của nam mệnh được đánh giá bằng ba chữ Khoa, Quyền, Lộc. Trong giai đoạn chiến tranh biên giới phía Bắc, sự bất ngờ do Trung Quốc tiến công theo đường biên giới gây ra cảnh tàn phá nặng nề ở nhiều tỉnh phía bắc. Tai họa tới vận làng khi chiến sự khởi tại biên giới, Sát khí cường vượng khiến nhiều người chết. Trong giai đoạn này, nếu nhân mệnh thai sinh tại đây sẽ chịu tác động bởi khí Sát tạo ra do xung đột của vận nước. Tương tự vậy, trong thời gian, có những vùng được sự phát triển lớn do vị trí thuận lợi, nhân mệnh tại đây thành tựu lớn hơn ở các vị trí khác. Trong bản mệnh luận, trong quá trình phát triển của đương số về tham vọng với tài bạch, danh tiếng, địa vị, sự phát triển này luôn tới một giới hạn nhanh chóng buộc mệnh tạo phải đưa ra các quyết định quan trọng để thay đổi khi tiến tới giai đoạn thoái lui. Thường sự giải đãi đến từ việc không tập trung vào công việc hoặc tư tưởng hưởng tới hưởng thụ thành quả sau một giai đoạn cố gắng. 





Hóa Kỵ trong đa phần các trường hợp đều mang ý nghĩa cản trở, khó khăn đương đầu, tuy nhiên một vài cách cục phản vi kỳ cách cầm gặp sao này để thành cách. Sự hưởng thụ và khoảng cách giữa giàu và nghèo ngày càng lớn trong giai đoạn thời vận hiện nay. Có những mệnh quý tử thường là Thiên Lương hay Thái Âm sinh ra trong gia đình rất giàu có, khi sự phát triển rất mạnh phục vụ tri kiến, phát triển giáo dục, bằng cấp Hóa Khoa cũng phát sinh những dịch vụ nâng cao theo chi phí. Phú cách tức Lộc sinh ra Khoa. Truyền đạt những kiến thức, tri kiến về kinh doanh hoặc kiến thức sống để thành tựu. Xã hội dần phát triển lấy tri thức làm trọng, cần thiết hơn trong giai đoạn chiến loạn với ưu tiên là giải phóng đất nước. Cũng như vậy, trong chủ nghĩa tư bản với động cơ lợi nhuận, bất bình đẳng trong giàu nghèo mang tới khuyết điểm, cũng là cơ hội để tạo kích phát do phát khởi từ tham muốn tiềm thức của mỗi nhân mệnh. Trong sự tranh đoạt của xã hội là Sát Phá Tham giao hội Tử Vũ Liêm, và xung đột, bất mãn, mâu thuẫn là Cự Cơ Đồng, là động lực phát triển và đào thải như trong tự nhiên. Cũng do tham vọng nên những phát kiến mới thay đổi đời sống xã hội trở nên tiên tiến, hiện đại cũng xuất phát đa phần từ phương Tây. Mỗi nhân mệnh là một thành phần của xã hội, tùy tư chất của mệnh tạo đóng góp ở một vị trí nhất định. "Thiên địa bất nhân , dĩ vạn vật vi sô cẩu. Thánh nhân bất nhân , dĩ bách tính vi sô cẩu". Trong vận hành của xã hội phát khởi tham vọng là Tham Lang, sau đó thỏa hiệp, tới luật pháp để thiết lập trật tự là Thiên Hình. Phát khởi tham muốn chiếm hữu, sở hữu là bản tính của nhân mệnh, tuy nhiên, khi tích lũy lớn, hao tâm tổn sức, nhân mệnh vẫn không thoát khỏi được kiếp số, quy luật sinh trụ dị diệt. Dẫn tới sự phát triển lịch sử hàng nghìn năm về tìm kiếm tri kiến để giải đáp ngay bên trong chính mỗi nhân mệnh, sinh và tử được cổ nhân nghiên cứu tới hiện nay tri kiến là dòng nối tiếp giai đoạn rất dài. Cũng chính vì sinh diệt nối tiếp vạn vật, do vậy các tư tưởng khởi phát nghịch truyền thống Không Kiếp và Không Vong, hay mất định hướng Tử Tham Triệt hình thành, nhìn nhận vạn vật sinh diệt tới Không, dẫn tới việc từ bỏ các tham muốn tạo khổ cực tố bản thân, hướng tới hưởng thụ tinh thần. Tuy nhiên khi tư tưởng chú trọng tới sinh diệt do sự kích phát của Không Vong trong bản mệnh, cũng hình thành một khuynh hướng tích lũy bởi Tham Hỏa Khốc Triệt Tồn Không, mang ý nghĩa khi nhìn nhận cuộc đời là sự sinh diệt cuối cùng về Không, dẫn tới tư tưởng táo bạo, làm những việc gan góc. 



Hai khuynh hướng của Không Vong tuy nhiên tính chất hoàn toàn trái biệt nhau. Thượng cách hay hạ cách là do cách nhìn và phán xét trong thế giới quan của mỗi nhân mệnh tới cách cục này. Tham muốn, nhìn nhận một vấn đề của mỗi cá nhân là khác nhau, vui vẻ, khổ cực cũng sai khác, dẫn tới sự phát khởi ứng hợp rất đa dạng của các tổ hợp tinh đẩu tới mỗi nhân mệnh. Lý tưởng dẫn dắt toàn bộ cuộc sống của nhân mệnh, do vậy nên môn này có tên Tử Vi. Hưởng thụ cuộc sống là cách cục cơ bản, tuy nhiên rất dễ khiến các bố cục tạo bởi Sát cách trở nên phá cách do tính chất hoạch phát, hoạch phá của Sát tinh. Phàm là nhân mệnh, đáp ứng về nhu cầu của bản thân là tất yếu, khi khát đều cần nước, khi đói đều cần vật thực. Trong một số trường hợp khác, có những kẻ lập dị có sở thích sai trái pháp luật. Trong thế âm có dương, trong dương chứa âm là nguyên cục của ngũ hành. Vượng quá hóa suy, đây là điểm quan trọng khi luận định cách cục tử vi. Lạc quan là yếu tố dẫn tới thành công, nhân mệnh hình thành bố cục Sát cách đắc lệnh nếu ở cách thiên lệch dù thành tựu sự nghiệp lớn ắt sẽ sớm gặp tai họa dẫn tới bế tắc, thử thách tới nhân mệnh. Khi xét định các bố cục nghiệm lý qua các thời kỳ, những vị trí quan trọng chính trị, trọng trách gánh vác, đứng đầu xã hội được nhân mệnh Tử Vi, Cự Môn và Phá Quân nắm giữ. Thứ tới là Thiên Phủ, Vũ Khúc, Thái Dương, Thái Âm. Trong bố cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, cách cục Tử Tướng, Tử Phủ và Tử Vi cư Ngọ. Trong bố cục Cự Nhật với Cự Nhật cư Dần, Cự Môn cư Tí Ngo, VCD có Cự Cơ xung. Với Phá Quân trong cách cục Phá Quân Tí Ngọ. Nghề nghiệp bác sĩ thường ứng với Thiên Tướng, Thiên Lương, Thiên Đồng hội Hình Diêu, Lộc Tướng Ấn. Kinh thương là cách Vũ Tham, Cự Cơ hội Kình Đà Hao. Nghề luật sư thường ứng Cự Môn. Nghề giáo viên thường ứng Thiên Lương, Thiên Cơ. Nghề quản lý, giảm sát, điều tra là Liêm Trinh, Thiên Phủ. Nghề cơ khí, kỹ thuật là Thiên Cơ. Nghệ thuật ứng với Âm Dương Lương hội Xương Khúc. Mỗi lá số do bản tính của nhân mệnh sẽ ứng phù hợp với các nghề nghiệp trên, cũng sẽ có một số trường hợp khí hình gốc vượng hoặc ứng hợp hoàn cảnh xã hội, hay tác động hiện tại của đương số dẫn tới nghề nghiệp sai khác. Lại có các cách cục ly hương, xuất ngoại như Cự Môn hội Lộc Tướng Ấn, đặc biệt là Cự Nhật. Hoặc cách Vũ Sát, Vũ Phá, Liêm Phá có tính ly hương rất lớn. 





Cách cục hình thành ứng hợp, nhân mệnh sẽ phát triển theo khuynh hướng này, hoặc thay đổi do hành vận tác động biến hóa cách cục. Khi luận cách cục, có những tinh đẩu mang tính chất rất đặc biệt như Không Kiếp nếu luận không nắm rõ phân định ắt sẽ không thể luận được kết quả, đặc biệt là hạn hung sát, hạn tử. Chỉ riêng cách cục Đào Hồng Không Kiếp đã phân định rất nhiều trường hợp, tuy đa phần các trường hợp nhập vận trên tạo tai họa với nhân mệnh, nhưng các mức độ tác họa hoàn toàn khác nhau. " Hồng Đào Không Kiếp đồng danh, Ấy phường yểu tử đã đành một hai". Cách cục Đào Hồng hội Không Kiếp tác họa rất lớn khi cặp sao này đồng độ tại Tí Ngọ. Đào Hoa là vị trí Mộc Dục của vòng Trường Sinh theo tam hợp cục. Có 8 địa chi gặp Đào Hoa tại Tí Ngọ là các địa chi Tị Dậu Sửu và Hợi Mão Mùi. Trong đó hai trường hợp Đào Hồng đồng độ là năm Mão và Dậu. Nhân mệnh sinh trong hai niên chi này luôn gặp cách Đào Hồng đồng cư Tí hoặc Ngọ. Nếu hội Không Kiếp trong trường hợp này chỉ gặp một trong hai sát tinh, trường hợp Địa Kiếp tam hợp chiếu, hình thành cách cục Lưỡng Kiếp đồng độ, đặc biệt khi hội thêm Kình Đà tại tuổi Ất Mão thành Kình Kiếp và Ất Dậu thành Đà Kiếp. Tại đây cách Đà Lưỡng Kiếp hội Đào Hồng mang tai họa lớn hơn Kình Kiếp, do nhập thế La Võng mang ý nghĩa kiếp số, khi Đà Nhị Kiếp hội La Võng là kiếp nạn do thiên địa tạo, khó có thể tránh thoát, đặc biệt khi mệnh cách  cư Dần Thân hội Không Kiếp trừ Phá Quân, Thiên Tướng, Cự Nhật, các cách cục chính tinh còn lại đều khó có thể tránh được tai họa lớn, thậm chí là hạn tử tuyệt. Khi luận định tính chất của tổ hợp Đào Hồng Không Kiếp thuộc hạn tử tuyệt không mang ý nghĩa do tính chất đào hoa dẫn tới nhân mệnh tuyệt khí số. Điểm quan trọng tại đây tại một tính chất của Đào Hoa là sự bất ngờ, ở vị trí Mộc Dục của vòng tam hợp cục, đây là vị trí mờ ám, tức có tính mê muội như Thiên Diêu trong cách Hình Diêu. Thiên Diêu mê muội dẫn tới Thiên Hình tam hợp chiếu là hình khắc. Tính chất của Đào Hoa cũng vậy, một mặt hình khắc là điểm ít thường chú ý của Đào Hoa do Kiếp Sát tam hợp chiếu tạo ra. Hồng Loan cũng mang ý nghĩa máu huyết.  Khi Hồng Loan xấu cần chú ý đến các bệnh về đường máu. Với hai chính tinh Thiên Cơ và Tham Lang do tính chất âm mộc và Cự Môn thuộc âm thủy, là hai tinh đẩu khi hội Sát Kỵ rất gặp bệnh nan y, đặc biệt là ung thư. Xét định nghiệm lý các lá số tỉ lệ cao, đặc biệt là chính tinh thuộc ngũ hành Mộc. 





Với cách cục Vũ Sát, Vũ Phá, tuy mang ý nghĩa không mấy hay nhưng thường gặp họa do hình sát, thương tích khác với các sao trên. Đây là điểm rất quan trọng để đương số đề phòng. Khoảng 6 năm trước, người viết nhớ tới một lá số mệnh tạo Tham Lang trong đó có một lá số Đào Hồng Kỵ Kiếp, lưu đại vận nhập vận xung sát mắc bệnh ung thư. Khi đó nữ mệnh tuổi đời còn trẻ, diện mạo rất thanh tú, mệnh cách Đào Hồng Thanh Kỵ Kiếp Linh, tới đại vận thứ hai gặp ách nạn tại cung độ Cự Đồng lạc hãm hội Quế Sứ Hoa Thương cách. Trong năm trước, một nữ mệnh cách VCD nội Cự Nhật Hỏa Linh Kiếp Tuế, ngoại cách Cơ Âm gặp tật ách khi nhập vận Thiên Lương.  Tính chất của Không Kiếp khi hội Tứ Sát Kỵ Hình tác họa lớn, để cách cục thành cách trở nên đắc dụng là rất khó khăn. Lá số của nhân mệnh đứng đầu xã hội khi chế hóa Sát cách mang một đắc tính riêng biệt, yếu tố thiết yếu hướng tới là đóng góp xã hội, do vậy lý tưởng của Tử Vi trở nên cao viễn, đủ sức chế ngự Sát cách cường vượng và ứng thế bộc phát khi nhập vận. Tương ứng như Phá Quân đắc lệnh tượng là quân tử, sinh tử ắt bất trọng bằng thanh danh. Trường hợp này cũng như một số cách cục ứng hiềm tự tử do trầm cảm khởi bởi Sát cục tác động, tính mất định hướng của Không Vong. Khi lý tưởng trở nên cao viễn, Sát cách tự đắc dụng, hợp hóa. Tử vi xuất phát từ Trung Quốc, tuy nhiên thường phát sinh dị biệt do các phái luận hình thành mới tại đây, các môn khoa học huyền bí và tôn giáo vẫn thường giữ được bản chất sau khi truyền tới Việt Nam, khi đại cải cách văn hóa Trung Quốc khiến rất nhiều kinh điển sâu sắc, uyên thâm của cổ nhân về dịch lý, toán mệnh thất lạc hoặc phá hủy. Tử Vi Đông A lưu truyền không mấy rộng rãi, đa phần sử dụng trong nội bộ triều, cách an sao cũng không phức tạp, tuy nhiên tính lý của tổ hợp dẫn hóa và tinh đẩu quả thực giai đoạn tử vi phổ biến hiện nay đã biến đổi khá nhiều. Khí hóa hình, hình hóa thế, thế hóa vận, vận phân định hung cát do khí hình tạo. Thường người nghiên cứu nếu chưa thể xét khí hình nhân mệnh thì lấy xem tướng để phối kết hợp việc chịu tác động và phối kết hợp của tổ hợp sao tới nhân mệnh. Cự Kỵ là cách miệng méo, tuy nhiên Cự Kỵ Hình thường sẽ có vết trên khóe miệng, nếu có Quyền Linh hóa cục thành Quyền, khóe miệng hướng xuống, hóa cục thành thâm trầm, nếu độc tọa môi thâm, có Hình Ấn theo binh nghiệp nắm đại quyền, tuy nhiên hậu vận sẽ phá tán do Cự Kỵ phản cách về sau. Đây là trường hợp khí hình vượng tương ứng ngoài tướng số. Trong trường hợp cách cục phá cách, tuy bố cục Cự Kỵ Hình Linh Quyền chủ mắt lộ, môi thâm, răng thưa, thường ưa phản trắc là nguyên cục không thể chế hóa Sát cách, hình tướng tương ứng chỉ là khí hóa của ngũ hành biểu thị cho kết quả của các tổ hợp giao hội, hành vận Sát Phá cẩn trọng hình tù. Tử Vi Đông A lấy khán hạn quá khứ làm trọng, để nhìn rõ độ số của nhân mệnh trước các tổ hợp Sát Kỵ giao hội, định hướng của các cách cục. Lá số tử vi là mặt sáng, việc hợp hóa bên trong ứng với từng mệnh tạo riêng biệt là mặt tối, việc nhìn sự giao hóa với khí hình khó khăn hơn rất nhiều với định cách cục trên lá số tử vi. Mỗi nhân mệnh một tính cách, một bản thể riêng rẽ, tính cách cũng vậy đại đồng tiểu dị. Cũng thường nghe " Sinh bất phùng thời" chỉ người có năng lực tuy nhiên thời thế khó dụng thân. Chính sự tiểu dị có thể tạo nên thành tựu hay thất bại với các cách cục Sát trọng cực vượng. Thí như một lá số Liêm Sát Kình Hình Hổ Kỵ Xương hội là một lá số tự nội cách hàm chứa nguy khốn lớn với cách Kỵ Hình Thất Sát có Xương Liêm dễ gặp bất mãn, yểu tử khi không có Khoa, Quyền, Lộc cát hóa, cũng sẽ nhiều đương số gặp tử tuyệt với bố cục này tại tiền vận. Tuy nhiên đây là lá số của một chánh án rất nổi tiếng trong thời kỳ trước người viết có luận, là điểm huyền diệu của mệnh lý, khi nhân mệnh có thể điều hòa Sát cục mang ý nghĩa tử tuyệt rất rõ ràng. 

0 comments: