Saturday, October 5, 2019

Tử vi với hai mặt sáng và tối


Trong cuộc sống mỗi người đều chú trọng  bởi ba mặt quan trọng là sức khỏe, công việc và tình cảm. Đôi khi số phận đưa tới những nguy hiểm liên quan tới tính mạng trong cuộc đời. Tai nạn bất ngờ xảy ra đối với mọi nhân mệnh, đặc biệt trong các tai họa tập thể, thường chung số kiếp tuyệt mạng. Tuy nhiên cũng thường thấy những nhân mạng may mắn thoát khỏi các tai nạn. Tai nạn tại Việt Nam đa phần liên quan tới các tai nạn giao thông, tai nạn lao động, các biến cố do thiên tai, hỏa hoạn. Còn lại đa phần do bệnh tật tác động dẫn tới nhân mệnh tuyệt mạng. Thực tế để một lá số tuyệt khí rất khó xảy ra, Mệnh Thân Hạn đều trùng phùng Sát Kỵ phá cách, hoặc cách cục hung họa ứng hợp hoàn cảnh tác động. Như mệnh cách có Vũ Sát Hình Linh Việt nếu nghề nghiệp cơ khí, liên quan tới đồ điện ắt rất dễ gặp tai nạn do nghề nghiệp ứng hợp. Hoặc nhân mệnh gặp cách Cơ Lương Tồn Kiếp Tang Điếu rất cẩn trọng khi nghề nghiệp liên quan tới độ cao. Tai kiếp, họa hại bất phân biệt nhân mệnh phú quý, cao thấp đều có thể xảy ra, phát sinh từ sự kiện ngẫu nhiên bất ngờ, hoặc do âm mưu của kẻ khác tác động. Việc phân định thiện ác, tham muốn của nhân mệnh được dự đoán bởi bản tính của nhân mệnh trên lá số tử vi là điểm huyền diệu của mệnh lý. Trong các trường hợp tai nạn, yếu tốt bất ngờ là điểm quan trọng để tạo ra tai họa, cặp Không Kiếp đứng đầu tạo ra tai kiếp khi xét về tính chất, tại các vị trí Tị Hợi Dần Thân Mão Dậu Sửu Mùi là các vị trí đầy đủ cặp sao này, tính chất tác động rõ rệt, tùy giao hội với các cách cục sẽ phát sinh tai nạn tương ứng. Nếu ngộ Vũ Sát Phá Liêm phùng Sát Kỵ là tai họa do thương tích búa đao, nếu ngộ Cự Kỵ Đà là tai họa do thủy tai. Chỉ ba chữ Cự Kỵ Đà nhập hạn xấu đã gây rất nhiều tai nạn thủy tai, đặc biệt trong giai đoạn trước đây khi lứa tuổi thiếu niên thường tắm tại các con sông, rạch nước. Nếu hội Linh Xương Đà Vũ là tai họa do tin lời kẻ khác. Sát tinh có hai mặt đối lập rõ ràng, trường hợp đắc dụng là tạo kình lực hoạch phát lớn về công danh hoặc tài lộc trong thời gian rất ngắn. Trường hợp phản cục tạo tác tai họa bất ngờ khiến không đương cự nổi, sát thân. Do chứa Sát tính, thường các cách cục mang tính chất ác hóa về tư tưởng, đặc biệt Cự Kỵ Diêu Kình Linh là cách cục bản thân hàm chứa tính chất nguy hiểm khi thành cách. Cự Môn khi xấu là bản thân gặp họa ly biệt, từ biệt. 




Trong tự nhiên, sự sinh tồn biến hóa theo nguyên lý mạnh yếu, ngay cả loài mạnh cũng cần sự tinh tường, kiên nhẫn chờ thời cơ để săn mồi. Trong tình thế xã hội là âm mưu, thủ đoạn để triệt hạ kẻ khác, hoặc để thu lợi về bản thân. Sự tinh tường do Sát tinh khi đắc cách là một khuynh hướng thường ít được đề cập chuyên sâu trong khi luận giải tử vi, đa phần xét tới tính tai nạn. Bản thân ta thường thấy những sự thực phơi bày ra trước mắt, ngoài cuộc sống xã hội hiện tại, về lòng tham để thực hiện được mục đích . Âm mưu, tính toán có thể xuất hiện trong tình cảm, do tài sản,....Trong các cách cục về nữ mệnh, bố cục liên quan tới sao Thiên Đồng và Thái Âm khi Sát Kỵ trùng hội mang ý nghĩa âm ám rất lớn. Thái Âm đắc cách khi Hóa Quyền tượng chủ người phụ nữ quyền lực, với khả năng tinh tường, nhìn thấu rõ được vận hành bên trong thể âm của các sự vật. Thí như việc âm thầm liên kết để loại trừ kẻ khác trong kinh thương, hoặc trong chính trị. Thiên Đồng tượng là nhi đồng, tuy nhiên khi giao hội Sát Kỵ trùng phùng thành cách lòng dạ thâm sâu. Cơ Nguyệt Đồng Lương là nhóm sao hiền hòa, tuy nhiên rất dễ phá cách trước Sát Kỵ. Khi Đồng Âm ngộ Kiếp Đà không có trợ tinh hội họp, ta có thể luận nhân mệnh thâm sâu, có tính âm ám, mưu tính sâu bên trong. Nghiên cứu tử vi để phòng tránh, để nắm rõ về bản mệnh, tính cách để chấn chỉnh, khắc phục khuyết điểm để thành tựu. Cổ nhân luận " Địa Kiếp độc thủ, thị kỷ phi nhân". Tức luận về tính chất khi thành cách của Địa Kiếp. Các cách cục còn được dẫn hóa bởi khuynh hướng của tinh đẩu, lý tưởng, mục tiêu do Chính Tinh và tổ hợp hướng tới. Có nhân mệnh hướng tâm tới cuộc sống bình ổn, vật chất đủ. Có nhân mệnh hướng tới tham vọng địa vị cao của xã hội, hoặc tham vọng về tiền bạc. Các cách cục dựa vào tham muốn để ứng hợp nội ngoại số mệnh. Người nghiên cứu tử vi thường nghe thấy cách cục Mệnh Không Thân Kiếp, đây là cách cục mang ý nghĩa khác hoàn toàn Mệnh có Địa Kiếp. Trong câu phú trên ứng hợp với mệnh cách có Địa Kiếp độc tọa, trường hợp Không Kiếp đồng cung tại Tị Hợi tính chất hoàn toàn khác. Địa Kiếp tượng do âm hỏa cực vượng tác động, thế của Địa Kiếp khi ngộ Chính Tinh chủ âm ám dễ hướng tới khuynh hướng cực đoan. Âm Đà Kiếp khi Thái Âm tại vị trí lạc hãm nhân mệnh bị Sát tinh tác họa, khi Thái Âm tại vị trí sáng hóa Quyền cách cục mang ý nghĩa rất tốt đẹp, chủ nữ mệnh có quyền lực lớn do tính âm hiểm, mưu kế khiến Hóa Quyền thành quyền sát. Trong xã hội, song song với những việc bên ngoài nhìn thấy công khai là một xã hội ngầm với những nguyên tắc riêng biệt, vì vậy cách cục Khoa Minh Lộc Ám hoặc Minh Lộc Ám Lộc được đánh giá tốt đẹp hơn cách cục Khoa Lộc và Lưỡng Lộc tại cùng tổ hợp. 





Tính chất Địa Kiếp mang tính âm hỏa tư tưởng có phần bộc phát, khi hội Thiên Không thường muốn phá bỏ những suy nghĩ lối mòn. Tính chất này có phần tương tự cách cục Cự Tồn bất mãn, tạo cách cục của Địa Kiếp âm hỏa tồn tại, ắt sẽ mang tính bộc phát trong tư tưởng. Với cặp Không Kiếp tùy hội tổ hợp Chính Tinh để luận định tính chất. Sự xung đột của xã hội gắn với đạo đức có phần lệch lạch do tính chất của tiền. Khi đất đai giai đoạn trở nên đắt giá, việc người thân trong gia đình do mâu thuẫn, xung đột dẫn tới xuống tay làm hại diễn ra nhiều. Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh là tứ sát bởi tính chất loạn động khi bộc phát rất lớn. Tả Hữu Xương Khúc là tứ trợ tinh do tạo sự ổn định trong các bố cục. Lá số tử vi tốt đẹp là giao hòa của Sát Tinh và Trợ Tinh với các bố cục Chính Tinh hợp lý. Sự nguy hiểm luôn tồn tại xung quanh hoàn cảnh mỗi nhân mệnh, khi cách cục ứng hợp, sẽ mang họa lớn hay nhỏ tùy độ số của mệnh tạo. Với nữ mệnh, cách cục Đồng Âm là cách thuần âm, giữa sự giao hội của Thiên Đồng và Thái Âm thành cách cục bổ khuyết lớn cho nhau. Nữ mệnh Đồng Âm thực tế trong tất cả các mệnh cách này đều có khả năng suy tính sâu sắc do Thái Âm và Thiên Đồng là hai tinh đầu chủ lòng dạ và cơ tính, trái với Thiên Lương ưa phơi bày, nông nổi ra bên ngoài. Trong xã hội cũng vậy, cách cục Đồng Âm được đánh giá tốt đẹp do tính chất âm nhu tạo ra, tuy nhiên cũng sẽ dễ trong tình cảm ẩn chứa sự suy tính, tính toán. Thiên Đồng là cùng chung, Thái Âm là tư tưởng, lắng nghe. Tại thời kỳ phong kiến, mệnh nữ chu tác động bởi những vấn đề đức hạnh, hoặc đạo đức theo hệ thống chuẩn mực Nho Giáo, tuy nhiên giai đoạn hiện nay là thời kỳ dân chủ, các tinh đẩu biến hóa theo hoàn cảnh xã hội, tuy nhiên bản chất cách cục sẽ không thay đổi. Thiên Lương đắc cách vẫn thường ưa bày tỏ quan điểm, lối sống của bản thân ra bên ngoài, ưa sáng hơn tới. Thiên Đồng trái nghịch tính chất, chủ bên ngoài có tính nhi đồng, trong nội tâm sẽ suy nghĩ sâu sắc. Tượng của Thiên Lương là người già, niên lão. Tượng của Thiên Đồng là nhi đồng. Khi Thiên Đồng đồng độ với Thái Âm sẽ tăng tính suy tính, tùy tinh đẩu giao hội có thể hóa thành âm hiểm, lòng dạ sâu xa. 




Cách cục Đồng Âm cư Tí được đánh giá tốt hơn cư Ngọ. Do cách Đồng Âm tại Tí với Thái Âm sáng, là cách cục chủ có tính thành tựu sớm, gặp may mắn, phúc phận hơn bố cục Đồng Âm cư Ngọ. Đồng Âm cách là cách cục thượng cách tại can Đinh, khi hội Khoa Quyền Lộc Thanh Long. Tại vị trí cư Tí thành cách Lưỡng Lộc đối củng, có Thanh Long lợi cho Đồng Âm. Cách cục Đồng Âm cư Ngọ tại đây cũng vẫn được đánh giá rất tốt khi Song Lộc tại bản cung, có Khoa Quyền tam hợp chiếu. Trái với Cơ Nguyệt Đồng Lương khi tốt là hòa hợp, ngày tháng vui vẻ về tinh thần và may mắn về vật chất. Bố cục Cự Nhật ngay cả khi đắc cách cũng hàm chứa ý nghĩa cự ly. Can Đinh nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương luôn gặp Tam Hóa và nhóm Thanh Liêm Phục hoặc Lộc Tướng Ấn mang ý nghĩa rất hay thì cách cục Cự Nhật với Cự Môn Hóa Kỵ đặc biệt trong tam hợp Dần Ngọ Tuất là cách cục hạ cách, cự ly, tư tưởng thường tự tạo khổ cực, không có một ngày yên ổn về tinh thần. Mệnh tạo có Chính Tinh tọa thủ mệnh là Cự Môn thuộc can Đinh là cách không mấy hay, trường hợp Cự Môn cư Thìn được đánh giá giảm hung do có Thanh Long đồng độ Hóa Kỵ. Cự Môn thường ưa phản đối, cho tới làm phản, là sao đứng đâu trong các bố cục ý nghĩa cự ly. Âm mưu là Đồng Âm, cự ly là Cự Nhật. Thế đứng của Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật tại can Đinh là hai thái cực của cách cục. Âm mưu hãm hại, hay mưu kế giữ vững chủ quyền cho đất nước, tại mọi vị trí xã hội trong các công việc đều mang tính chất này, là các sao chủ ẩn. Trong vận nước, khi sự phá hoại của bên ngoài và bên trong. Âm mưu tới từ bên trong khó phòng bị hơn bên ngoài. Cơ Nguyệt Đồng Lương với Thiên Đồng là trong tổ chức, Thái Âm phối hợp với Vũ Khúc có thể tạo tai họa từ bên trong. Cự Nhật cách không mang ý nghĩa âm mưu dù Cự Môn hóa Kỵ thành cách Cự Kỵ do Cự Nhật cách mang ý nghĩa chống đối công khai, trừ trường hợp hội thêm bàng tinh mang ý nghĩa ẩn tàng. Cự Cơ Đồng là nhóm sao mang rõ ý nghĩa âm mưu từ bên trong, với phối hợp của Cự Môn và Thiên Cơ dễ khiến Thiên Đồng tổ chức tan rã. Sự xung đột, phá tán là duy trì trật tự thiết lập của vạn vật, có sinh phải có diệt, có tụ ắt phải tán. Là hai mặt đối lập của âm dương không thể tách rời. Người nghiên cứu tử vi thường lưu ý để xét vận số thời của bản thân. Vật phát triển tới cực vượng, cân bằng, thoái lui, rồi diệt, không có ngoại biệt. Tuy nhiên thời gian thịnh vượng có thể kéo dài trong giai đoạn cần thiết của cuộc đời là việc cần hướng tới. Bất luận khởi tạo một kế hoạch hoặc lý tưởng lớn, nếu duy trì được thời gian tồn tại và liên tục táo bạo thay đổi, giai đoạn tích lũy càng lớn thì sức bộc phát càng lớn, thăng hoặc trầm. Sự bất ổn và khó khăn luôn tồn tại trong mỗi sự việc là tất yếu. 




Mỗi thời các thể chế chính trị khác nhau dẫn tới các thay đổi khác nhau về Quan cách. Có giai đoạn đất nước chiến tranh, hoặc giai đoạn còn tồn đọng các vấn đề sơ hở về quản lý, giai đoạn loại trừ các ung nhọt. Tác động của thời cuộc trực tiếp. Người viết có truy cập qua một số trang mạng diễn đàn, có rất nhiều người nghiên cứu tử vi có tri kiến thâm sâu với mệnh lý, tuy nhiên cũng có một số người nghiên cứu tử vi xét đoán cho những nhân mệnh chưa thực chuyên sâu về xét giao hội các cách cục của tử vi, dẫn tới lo lắng tới nhân mệnh. Một trường hợp gần đây người viết có gặp một trường hợp khi bình giải cho lá số nam mệnh VCD cư Mùi ngộ Không Triệt với nội cách Dương Lương cư Mão và Thái Âm cư Hợi hội Khoa Lộc Đà Linh Không Kiếp đắc vòng Trường Sinh là mệnh hung họa, hành vận VCD nội Cự Cơ Đồng hội Kình Kỵ Hỏa, ngoại cách Dương Lương là hành vận hung họa, khó khăn, khó có thể thành tựu. Thực tế đây là cách cục khá hay, thế đứng của Âm Dương thường thiếu tính kích phát của Sát Kỵ, đặc biệt trong trường hợp Âm Dương nhập miếu có Khoa Lộc lưu tới hành vận Cự Cơ Đồng rơi vào thế bế tắc buộc nhân mệnh phải đưa ra các quyết định táo bạo để khai thông, cách cục Cự Kỵ Kình khi định bố cục Sát rất lưu ý về tính chất của toàn bố cục. Câu phú thường luận về can Canh " Kình Dương đối thủ tại Dậu cung, Tuế điệt Dương Đà canh mệnh hung" và cách " Cự Môn Hóa Kỵ giai bất cát, Mệnh Thân Vận kỵ tương phùng". Trong tử vi khi nghiên cứu không nằm ngoài quy luật sáng tối của cuộc sống, xã hội, những tri kiến, kiến thức bên ngoài công khai rộng rãi thường có khuyết điểm về tính xác thực. Nhìn độ số của cách cục là nhìn vào tham muốn, lý tưởng và bản tính của mệnh tạo để xác định cát hung, bại thành. Lá số tử vi phân định cách cục hiển hiện để luận định bản tính khởi phát, tuy nhiên phần ẩn bên trong chỉ có thể xác định khi xét tương ứng các sự kiện của nhân mệnh để nhìn hướng đi của toàn bộ cách cục mới có thể luận đoán. Khám phá về huyền học mệnh lý đã rất nhiều thế hệ qua nhiều giai đoạn lịch sử cả nghìn năm, những tri kiến trong kinh điển phổ biến bên ngoài là một phần nhỏ trong kho tàng lớn về dịch lý Âm Dương Ngũ Hành. Khi nghiên cứu huyền học rất dễ tự ngộ nhận về tri kiến, khả kiến của bản thân, tự đánh giá bản thân cao dẫn tới bỏ qua những kiến thức giá trị. Khi nghiên cứu tử vi, người nghiệm lý thời gian lâu dài sẽ nhìn thấy sự vận hành của lý nhân duyên quả hợp rất thâm sâu, tử vi chỉ là một môn toán mệnh, là hóa thực lý về kiến thức của tiền nhân với thuyết Âm Dương Ngũ Hành, nối tiếp vào tri kiến của huyền học Phương Đông, nơi những sự huyền bí vẫn chưa sáng tỏ. Ngoài tham vọng về tiền bạc và địa vị, là tinh thần, ý thức, một phần song song với vật chất, như Mệnh và Thân, nối tiếp của cuộc sống là cái chết hay sự luân chuyển của số kiếp ?. 

0 comments: