Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Sunday, July 29, 2018

Tử vi với nhân duyên phụ mẫu, dòng họ


Mối quan hệ với nhau rất bền vững. Thầy lang sai lầm thì giết một người. Thầy địa lý sai lầm thì tạo tai họa tới cả dòng họ. Thời hiện nay mối quan hệ của họ hàng có phần giảm với trước đây, khi các đô thị xây dựng dân cư di tản quê hương. Trong toán mệnh tử vi tính thông linh, việc nhân duyên sinh mệnh khởi nguyên tứ trụ định toán mệnh cách cục ứng hợp với Phụ Mẫu rất lớn. Cung độ Phụ Mẫu, Phúc Đức có liên quan tới mối quan hệ của mệnh tạo bên ngoài. Với lá số tử vi tức tứ trụ của mỗi người đều có thể luận liên quan tới sinh tử của phụ mẫu dù hai mệnh số là hai lá số tử vi riêng biệt, hai nhân thể riêng biệt nhưng có liên hệ qua việc khởi duyên sinh. Điều tất yếu cách cục luôn biến hóa với hoàn cảnh bên ngoài. Như một số tổ hợp trọng điểm cách. Nếu gặp cách cục Âm Đà Diêu Hổ Kỵ Khốc nhập vận trùng phùng lưu Sát Kỵ thì là hạn xấu cho nữ giới trong nhà ứng hợp, hoặc bệnh tật, tai họa với cách cục nặng thì tuyệt mệnh. Với Cự Nhật Tồn Kiếp Phù Khốc Khách nhập vận trùng phùng lưu Sát Kỵ là cách cục tang với phụ tức cha, trong gia đình là đàn ông. Với mệnh cách do bố cục Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham trong đa phần các trường hợp dù cát hóa lớn đều ứng với cuộc sống gia đình thuở nhỏ bất ổn như phụ mẫu chia rẽ, hoàn cảnh khó khăn,.... Do cách cục này Sát tính vượng không gặp Phủ Tướng chủ ổn định bởi tình cảm, tương trợ cho cách cục. Duyên khởi mối nhân duyên dẫn tới linh ứng trên lá số tử vi của bản thân, xét sinh tuyệt của người thân là điểm huyền diệu của vạn vật. Mối quan hệ của phụ mẫu với mệnh tạo rất lớn. Ứng hợp dự đoán trên lá số của mệnh tạo. Vạn pháp khởi do duyên tức nguyên cớ, cũng do trong nội tâm chứa, trong tử vi cũng có mối liên hệ mang tính dự đoán như vậy. 



Vạn vật tuân các quy luật có khả năng  dự đoán, khởi sinh bởi duyên nhân và quả, đôi khi lấn át việc tự tính độc lập do ý thức sinh không thể dự đoán số mệnh mà bản thân thường lấy làm riêng biệt. Tính huyền diệu của tử vi là dự đoán quả do khởi nhân và thiên cơ định ứng hợp với các mệnh tạo tính tương hợp rất lớn giữa phụ mẫu với tử tức. Với lá số của mệnh tạo khởi sinh như tứ trụ định mệnh cách Liêm Sát, Vũ Sát, Tử Sát, đều là cách cục biến động rất lớn trong gia đình, tính bất ổn và ly tán mạnh. Lá số của mệnh tạo luận thông căn với phụ mẫu, cũng thông căn với họ hàng phúc tổ. Với cách cục tuyệt cách ứng Phụ Mẫu thì đồng thời là lúc phụ mẫu gặp tai họa. Dòng khởi của vòng Trường Sinh không gián đoạn liên tục từ Sinh tới Tuyệt lại khởi Sinh cho chính tác động trường tồn của duyên khởi vậy. Trong thời gian nghìn năm từ lá số của đời trước với đời sau vẫn định cách toán mệnh được như việc sắp xếp trước của thiên tạo. Đôi khi tri thức của bản thân khiến ta không tin vào những sự thực ngoài hiểu biết. Nếu người không nghiên cứu sâu, không thực lý chứng thực toán mệnh thì khó tin. Việc lấy tứ trụ của bản thân để xét tai họa phụ mẫu càng khó tin. Với liên kết của dòng họ với bản thân mệnh tạo cũng vậy. Những việc sử dụng nội khí gây kình lực hay trường hợp của cụ Hà Châu cũng dễ khiến bản thân người khó thể tin, dù thấy tận mắt. Do đó khi nghiên cứu các môn toán mệnh người thầy chân chính là nghiệm lý. Cũng như việc chứng minh một quan điểm đúng thì cần nghiệm lý để có kết quả. Khi nhìn rõ và thực lý mối quan hệ của vạn vật thông căn. Lợi ích cho xã hội phong kiến, suy tôn người đứng đầu là thiên tử tức con của trời để rõ tính hợp vị và danh thuận tránh tai họa bất mãn xung đột do Cự Phá tạo ra. Tuy nhiên việc vậy ảnh hưởng tới sự phát triển của toán mệnh về sau. 




Hiện nay những tri kiến của huyền học không còn nhiều người lưu giữ lại do cuộc sống hướng tới văn minh và thông tin trên các báo mạng, thế hệ trước đây kinh sách chữ Nho là nhiều, kiến thức uyên thâm của lớp nhà nho đa phần không còn. Tử vi sách nhiều phần còn luận giải trên cơ sở các câu phú cứng nhắc. Các môn huyền học hàm chứa tri kiến và là khởi nguồn nghiệm lý của thuyết nhân duyên quả hợp cũng như Âm Dương Ngũ Hành. Thường người lầm tưởng cái Không là sự kết thúc, chấm dứt thời gian dài. Tuy nhiên vạn vật thực chưa từng tồn tại Không cách như vậy. Không cách chỉ là một trạng thái của tính biến chuyển, dịch lý, không bền vững. Trong luận thuyết Âm Dương biến chuyển, sự tương tục luôn tiếp diễn, không có điểm dừng cố hữu, chỉ có điểm dừng tạm thời. Kẻ không thấu rõ, nhìn có cái mất vĩnh viễn, thực không tồn tại một thứ cố hữu và vô hữu, vạn vật luôn biến chuyển. Tên gọi nắm bắt vật chỉ là một điểm trong quá trình biến chuyển, trong thời điểm xác định như một cái ảnh của một cuốn phim, lầm tưởng ảnh đó là thực về vật, chấp rằng các bức ảnh thời gian ngay sau đó cũng là một vật. Như một thỏi vàng, sau 1 khoảnh khắc vẫn là thỏi vàng. Thực tế không có tính cố hữu, luôn biến động. Do không có tính cố hữu, chỉ có tính biến chuyển nên không có tính vô hữu, chỉ là do duyên khởi thành vật, tính hợp tan là vậy. Trong lòng vật chất tạo nên vàng đang biến động, nhân duyên tác động tới cũng biến động. Trong hư không cũng vậy, nhìn thực chỉ Không nhưng không phải vậy. Bản thân con người cũng biến đổi như vậy, Mệnh và Thân tức tâm và thân biến động liên tục theo lý Âm Dương. Nhân duyên không bao giờ dứt. 




Tử vi luận Mệnh Thân do thế của Âm Dương và Ngũ Hành, Thân do thể ngũ hành hóa hợp. Thể của vật như chất da tóc, ngũ tạng, khởi tạo Thân đều hóa từ ngũ hành. Thể của tâm tức mệnh biến hóa theo tính chất dụng tức tính động khi biến đổi của ngũ hành. Như Hỏa có tính nóng, nhiệt huyết ở dụng. Tại thể chủ sáng, phát nhiệt. Thân và Mệnh là thể và dụng vậy không khác với vạn vật. Tử vi cũng chỉ là lá số cố hữu với tứ trụ của mệnh tạo. Không có số mệnh, tuy nhiên có kết quả do bản tính tạo ra. Không cách là bố cục rất mạnh. Do khi xuất hiện chữ Không, tức chuẩn bị có sự biến đổi lớn xảy ra. Vì vậy Không Vong có tính tác hóa mạnh gồm Thiên Không, Tuần, Triệt. Mang ý nghĩa cát hung tùy cách cục. Ngũ hành hóa hợp dẫn tới Thân Mệnh hình thành nên bản tính sợ chết và tan rã của mỗi mệnh tạo. Cũng vô thức tránh các tai họa tiếp xúc bên ngoài. Từ sự hóa hợp âm dương ngũ hành và khuynh hướng ngẫu nhiên của vật vô tri. Nhân duyên khởi thành sự sống. Các chất vô cơ hình thành hữu cơ, phát triển thành vật sống. Sau hình thành nhận thức, phân tách dần nhận thức với thân thể thành Mệnh và Thân. Trước vật hướng tới sinh tồn, tìm kiếm thức ăn. Người đã hình thành tri kiến và lấy nghiên cứu chính vạn vật trở lại. Tham muốn là gốc của phát triển. Tri thức phát triển bởi nhà khoa học. Đa phần người thường hướng tới tham muốn về vật chất và địa vị, tình duyên. Nhân duyên về tình cảm gia đình, tư tưởng hướng tâm tác động khiến gia đình là một thể tách so với người còn lại. Dòng họ cũng vậy, trước một người làm quan cả họ được nhờ, việc mối quan hệ trong dòng họ rất quan trọng, cũng do địa lý thường sống tập trung giúp đỡ lẫn nhau. Trong luật pháp cũng quy định về gia đình dòng họ là các mối quan hệ nhân duyên ràng buộc. Hiện nay thì thường ly tán do xã hội phát triển mức sống. 





Một câu chuyện buồn là sự việc tai nạn gần đây khi ngày hỉ sự hôn phối của người trẻ xảy ra tai nạn giao thông khiến 13 người trong họ tuyệt mạng khi rước dâu là tai kiếp đồng ứng. Những tai kiếp mang tính bất ngờ, thuộc về vận khí của dòng họ. Mỗi người trong xe đều có thời vận bản thân riêng, có người đang vận may mắn, có người đang vận xấu, ứng hợp tác động của vận của người điều khiển xe. Bản thân mỗi người thường trong đời ít là một lần gặp may khi tránh được tai kiếp trên đường. Tại đây là đồng cộng tai kiếp ứng hợp. Trong khi lái xe đường dài, việc buồn ngủ thường gặp, trên đường giao thông là nơi nguy hiểm, khí Sát vượng do nếu bất cẩn thì dễ xảy ra tai họa. Những việc nguy hiểm, tỉ lệ tử mạng lớn, như chiến sự, công nhân xây dựng cũng ứng hợp khí Sát vượng. Có một mệnh tạo người viết luận lá số trước đây làm công việc lái xe  đường dài, có những lúc ngủ gật nguy hiểm như linh tính tỉnh thức tránh được một số lần tai kiếp tới tính mệnh của bản thân và hành khách. Trên xe người điều khiển ứng Quyền cách, mang tính định đoạt. Nếu mệnh tạo gặp cách cục ứng tai kiếp do Sát thì tai họa tới là cộng nghiệp. Cũng như kẻ cầm quân, đứng đầu nắm binh quyền là quyền sinh sát, khi bản thân sai lầm thì binh lính vào thế tử tuyệt. " Nhất tướng công thành vạn cốt khô" mang ý nghĩa về tính chất quan trọng quyết định của tướng lĩnh cầm quân. Có những dòng họ bản thân chứng kiến khi suy tuyệt ly tán, tai kiếp bất thường tới nhiều người. Trong gia đình tức vận nhà cũng vậy, khí suy tuyệt gia đình từng người gặp tai họa ập xuống. Khi nhân duyên bất khởi thì tử vi ứng hợp ý nghĩa biến hóa khác. Trường hợp dị biệt mệnh tạo có khuynh hướng cách ly tu đạo, đây là trường hợp nhân duyên đều dứt, đa phần chỉ còn ứng hợp với phụ mẫu. Các bố cục Tài Quan bất ứng, hóa thành nhân quả ứng tư tưởng, tham muốn của mệnh tạo. 

Sunday, July 22, 2018

Thế bao vây tiến công với Sát cách



Hai thế phát triển của Tử Vi tại vị trí của Đà La và Kình Dương. Một trước, một sau của Lộc Tồn. Thế của Kình Đà là thế thay đổi. Lộc Tồn là thế tích lũy. Quy luật của vạn vật cũng theo hai thế vậy. Kình Dương và Đà La được luận là Sát Tinh. Đây là hai sao quan trọng trong Lục Sát do khí sát của tính chất. Kình Dương chủ tiến công, cạnh tranh, chiếm đoạt. Với Kình Dương thiên về chiều sâu. Kình Dương có dương tính, mang ý nghĩa chủ động. Đà La chủ phòng thủ, cạnh tranh, chiếm đoạt. Với Đà La thiên về chiều rộng. Đà La có âm tính, mang ý nghĩa bị động khi phối hợp với các sao chủ nghe theo. Mệnh tạo luôn gặp một trong các cách cục cơ bản an theo Thiên Can gồm Kình Hao, Đà Hao, Lộc Tướng Ấn hay Thanh Phi Phục. Với Lộc Tướng Ấn và Thanh Phi Phục thường luận cách cục chủ cát. Bố cục Kình Hao và Đà Hao chủ sát. Do tính chất quan trọng của bốn cách cục cơ bản nên tác hóa tạo nên bản tính riêng của mệnh tạo, phối hợp với bố cục Chính Tinh thành tổ hợp. Người luận tử vi thường đánh giá tốt với Kình Dương hơn Đà La. Trong quan trường, thương trường hay chiến trường tức dụng tới tranh đoạt, hàm chứa Sát luôn gặp bố cục Kình Đà, biến hóa liên tục thay đổi tùy thời cơ sử dụng. Do đó Kình Đà luôn gặp Hao tại tam hợp tức hai sao chủ thay đổi phối hợp. Đà La có đặc tính quan trọng do âm kim, chủ mưu kế, mang tính chất bành trướng. Kình Dương do dương công thường bộc lộ, dương tính thực chất có khuyết điểm. Kình Đà luôn tồn tại khi có cạnh tranh, phát triển. Do thuộc Sát Tinh bố cụ thuộc Sát cách có tính bộc phát, hoạch phát lớn.  




Báo quân đội có viết về sự phát triển của viễn thông quân đội. Chiến lược đặc biệt của Viettel dụng thế của Mao Trạch Đông chiến lược " Lấy nông thôn bao vây thành thị". Trong trận đánh Điện Biên Phủ lấy chiến lược tạo từng thế bao vây chắc chắn từng bước xiết chặt vòng vây, lấn, tấn, dũi. Hai chiến lược trên chủ tính chất của Đà La. Trong kinh thương hay chính trường không nằm ngoài hai thế Kình Đà. Cạnh tranh chủ thay đổi. Với bố cục Sát cách, thế bị động là thế chủ tai họa. Đà La chủ âm kim, mang ý nghĩa mưu kế, chủ lấy thế mở rộng, vây lấn đều là thế chủ động. Kình Dương chủ dương kim, mang ý nghĩa tiến công, lấy thế chiều sâu, đột phá làm trọng. Mệnh cách tùy Kình Đà cát dụng chế hóa Sát cách. Với Đà La trong bố cục Linh Xương Đà Vũ Kỵ đa phần mang họa với việc nghe theo, dễ rơi vào tai họa, hạn chí đầu hà khi ứng Đà La. Kình Dương trong bố cục Cự Hỏa Kình đặc biệt khi có Không Kiếp chung thân ải tử, tức phẫn uất mà sai lầm khi ứng tính chất Kình. Kình Đà khi thành tựu mang ý nghĩa hoạch phát rất lớn, tăng mạnh vị thế, khí hình của mệnh cách. Một Kình Dương nhập mệnh chế hóa Sát thành công với quyết định táo bạo, quyết đoán tấn công trong quan cách hay tài cách. Một Đà La nhập mệnh chế hóa Sát thành công với quyết định tính toán, bày mưu tính kế, chờ đợi thời cơ trong thế chủ động. Câu chuyện phát triển của Viettel mang ý nghĩa ứng hợp với sức phát triển mở rộng, mang tính chất của Đà La ngay ở hiện tại. Thành đi liền với Bại. Với Sát cách hoạch phát đi liền với hoạch phá do thời vận. Dễ biến hóa theo chiều hướng cực đoan nên luận có tính Sát. Tính hoạch phát rất lớn, đặc biệt nếu có Không Kiếp tới mức độ không ngờ mà được. 




Kình Dương và Đà La luận từ vận thiên hạ, vận nước tới trong cơ thể. Bệnh tật là thứ nguy hiểm. Mệnh có Kình Tang giao hội Sát cách ứng hợp nội ngoại. Nếu bên ngoài cuộc sống khó khăn, chống lại hoàn cảnh, bế tắc. Cách cục Kình Tang chính là Kình Mã. Phú luận " Kình tứ mộ, Mã triều lai biên cương ắt hẳn trổ tài võ công". Hoặc bố cục Kình Phượng hay chính là Kình Khốc câu phú " Đồng Âm Kình Dương phùng Phượng Các nhất thế uy danh". Bố cục Cơ Nguyệt Đồng Lương với thế Đồng Âm và Cơ Lương. Bố cục Cơ Lương chủ thời cơ, cơ may. Đồng Âm chủ âm tính, phối hợp chung. Đồng Âm chủ âm nhu, với Kình táo bạo, tại đây là Kình Khốc luôn có Phượng chủ táo bạo được thời vận mà thành tựu. Hai cung độ Tí Ngọ chỉ hình thành được bố cục Kình Tang Khốc. Bố cục Tuế Hổ Phù không giao hội Phượng Khốc tại đây. Cách cục Đồng Âm ngộ Kình Phượng là bố cục Đồng Âm Tang Kình Mã Khốc Khách. Bố cục Đồng Âm có Tang Môn là cách cục chủ hình thành phe phái đồng lòng, với Kình Khốc đứng đầu. Câu phú thứ hai là bố cục trợ tinh giao hội của Kình Mã. Các câu phú cần rõ tính chất của bố cục tránh sai lầm khi luận. Nếu bố cục Đồng Âm Kình Phượng hội Tả Hữu tối hỉ. Kình Dương các câu phú luận đều rõ ý nghĩa cơ bản chủ táo bạo, dương công của sát tinh này. Phân biệt rõ Kình Dương giao hội Tang Hư Mã, Tuế Hổ Phù. Trong hai cách cục trên có thể gặp Phượng Khốc với sao Thiên Khốc hỉ ngộ Kình Dương tăng dương tính và thành tựu của bố cục. 



Với sao Đà La phú thường luận mang ý nghĩa không mấy hay do Đà có tính ám, chủ âm tính thuộc âm kim tính Sát tức sát tinh. Do âm ám, chủ mưu kế. Thời Nho Giáo lấy nhân trí tín lễ nghĩa làm trọng, thường Sát tinh với Đà La mang ý nghĩa mưu kế thủ đoạn, dẫn tới định cách ý nghĩa xấu với sao này. Đà La bố cục phức tạp hơn Kình Dương và khó thành cách hơn Kình do Đà chủ bị động, bố cục chế hóa Đà La chủ mang ý nghĩa định đoạt, có tính chủ động tranh đoạt. Đà La thường luận trong cách cục Cự Đà Kỵ với câu phú thường gặp " Cự Môn phùng Đà Kỵ tối hung". 
Đà La và Kình Dương đều có tính dồn nén, bộc phát. Đà La chủ chịu đựng lớn và phản kháng tính Sát khi bộc phát rất mạnh. Trường hợp thứ hai chủ chờ thời cơ dụng mưu kế. Kình Dương chủ thẳng, Đà La chủ vòng. Với Kình Tuế chủ quan điểm, bày tỏ rõ ràng. Cách cục Đà Tuế chủ lời nói vòng vo, phối hợp chính tinh chủ ngôn ngữ như Cự Môn và Thiên Phủ tính chất tăng mạnh. " Phủ Đà Tuế đóng Tỵ cung 
Cuồng ngôn loạn ngữ nói rông tháng ngày".

Đà La do không phù hợp với Tuế Hổ Phù ở tính chất quan điểm. Khi giao hội với Tang Hư Mã hình thành cách cục Đà Hư chủ ưa nói sai sự thật, chủ che giấu nên khó đắc cách hơn với Kình Dương. Với bố cục Đà La thành tựu đa phần tính thâm trầm, ít nói. Đà La do âm kim khi hóa Quyền cách thành uy quyền do Sát, cơ mưu lớn. Tuy nhiên đa phần mệnh cách Đà La thường là bố cục bị động, tác họa do Đà La chủ nghe theo. Hoặc cách cục Âm Ám gồm Diêu Đà Kỵ tức Tam Ám giao hội. Đà La khi tốt chủ cơ mưu tính toán hơn người, mở rộng bành trướng. Thường mang ý nghĩa trái biệt, phi thường như cách Cự phùng Đà La sinh dị chí. Đà La thường gặp trong các bố cục bộc phát khi dồn nén, chủ loạn trí nên khi giao hội hình thành cách Đà Hỏa hay Linh Đà khó cát hóa. Với cách Linh Đà Kỵ Khốc chủ ác tâm do dồn nén mà ra tay làm hại mang ý nghĩa âm ám. Bố cục tốt của Đà La giao hội Văn Cách. Đà La tối hỉ ngộ Khoa, Xương Khúc. Đà La giao hội Phượng Khốc đồng độ với Phượng tốt hơn với Thiên Khốc. Với cách Đà Khốc khi tác họa thường bản thân gặp oan khốc. Bố cục Đà Hao cát hóa phức tạp hơn với Kình Dương. Tuy nhiên thành tựu đa phần lớn hơn do tính bộc phát rất mạnh. 

Luận sát tinh ứng thành bại



Ngày thời nhỏ người viết thường bỏ việc học tập, ưa tới nhà thầy để được chỉ dạy về tử vi và thuyết âm dương ngũ hành của cổ nhân. Sau này cũng cố gắng tìm hiểu thêm kinh sách về tử vi. Tới nghiệm lý qua các lá số thực tế quả thực dụng biến hóa khó khăn với kinh sách. Qua mỗi thời giai đoạn, xã hội biến đổi ý nghĩa các cách cục biến hóa theo ý nghĩa có sai biệt.  Tính chất cơ bản tổ hợp không đổi nhưng ý nghĩa theo hoàn cảnh lại thay đổi. Quá trình này vẫn biến đổi trong thời đoạn nay do tư tưởng của xã hội thay đổi. Mệnh Thiên Cơ tốt vẫn giỏi tính toán. Mệnh Cự Môn tốt vẫn ưa bất mãn. Mệnh Thất Sát ưa tranh đoạt. Mệnh Phá Quân ưa thay đổi, phá cũ đổi mới. Mệnh Tham Lang chủ tham mưu. Mệnh Thiên Lương ưa bày tỏ. Mệnh Tử Vi ưa gánh vác, xây dựng. Mệnh Kình Dương ưa tiến công. Tư tưởng hay tính cách hình thành bởi Chính Tinh và Bàng Tinh không thay đổi. Tuy nhiên sở dụng và thành tựu do các bố cục có biến đổi trừ trường hợp định cách mạnh. Như mệnh tạo có Tham Hỏa ngộ Lưỡng Lộc Mã Khốc Khách tất cả mệnh cách vậy đều là mệnh phát phú. Tuy nhiên tính hoạch phát về phú cách có mức độ khác nhau tùy ứng hợp hoàn cảnh. Mệnh cách Tham Hỏa tham muốn phú cách tới thế giới do hoàn cảnh thành tựu khác với Tham Hỏa tham muốn giàu có tới làng xã ở lý tưởng ban đầu. Đó là ý nghĩa của môn Tử Vi, cũng chính ý nghĩa của sao Tử Vi. Với cách Tham Hỏa vậy thí như ứng hợp một mệnh tạo xuất thân gia đình phú hộ trong địa phương, tham muốn hướng tới kế là quốc gia. Mệnh tạo còn lại xuất thân nghèo khó tại vùng núi, tham muốn hướng tới kế là địa phương. Khi mệnh tạo xuất thân trước thuộc phong kiến trong dòng dõi vua. Tư tưởng ứng hợp ở mức lớn hơn. 



Cũng thí như việc nhận lương 10 triệu hiện nay ở nông thôn và thành thị với hai mệnh tạo khác nhau. Sức ảnh hưởng của hoàn cảnh tới biến hóa của tổ hợp sao tại mệnh cách rất lớn. Do vậy Sát cách được chế hóa thường thắng thế với trợ cách cát hóa do Sát cách không phụ thuộc vào khí hình gốc với xuất thân. Thường thời phong kiến luận mệnh vua tức mệnh trời là đế cách khi định lá số. Tuy nhiên đa phần chủ ứng hợp khí hình gốc mạnh tại hoàn cảnh bên ngoài, tổ hợp lá số tử vi nhiều mệnh tạo xấu. Do đó có vua lên ngôi đã vong mạng, do bệnh tật nan y, quốc gia bị xâm chiếm, ngoại xâm,... Nếu mệnh cách tốt đẹp thì không gặp tai kiếp lớn tới vong mạng. Tử Vi chỉ truyền đời không phổ biến do vậy. Do đó sau này thường người nghiên cứu luận mệnh cách Tử Vi cư Ngọ với Quần Thần Khánh Hội là đứng đầu trong các cách cục. Hội đủ Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt với Tam Hóa tránh được Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp là mệnh đại quý nên nghiệp lớn. Nếu khí hình gốc vượng, tức xuất thân dòng dõi thì mệnh cách đại phú là hợp cách. Tuy nhiên khi nghiên cứu kinh điển cổ nhân lưu thì có các lá số mệnh cách Tử Vi cư Ngọ hay Tử Phủ Dần Thân giao hội Khoa Quyền Lưỡng Lộc Xương Khúc Tả Hữu có thành tựu nhưng không phải mệnh đứng đầu. Về tính cách và tư tưởng ứng hợp với bố cục trên. Mệnh cách vậy có khả năng gánh vác, trách nhiệm lớn, nhân từ, chính nghĩa. Tham muốn xây dựng xã hội. Tuy nhiên không phải mệnh cách đứng đầu xã hội. Trước tới nay đều vậy. Lá số mệnh cách vậy trong quốc gia thời nào cũng gặp. Thực tế đều mệnh Sát cách chế hóa nắm lệnh do tính bạo phát công danh lớn, chủ nắm bắt thời cơ và có bản tính ứng hợp táo bạo, quyết đoán, tham vọng nên thành tựu đại nghiệp. 



Luận thành tựu với các lá số Tử Phủ Vũ Tướng Liêm giao hội Xương Khúc Tả Hữu Khôi Việt Khoa Quyền Lộc. Một số cách cục tàn bạo, bố cục Sát chế ngự khuynh hướng khởi tham vọng to lớn với dã tâm thành tựu rất lớn trong xã hội. Vua chúa cũng vậy. Trước nay đều có. Cổ nhân luận mệnh đại phú, đại quý vậy hướng tới lòng nhân khi định số mệnh nên thường luận cát tinh hội cách cục Chính Tinh cát hóa là mệnh tốt. Tuy nhiên Tử Vi Đông A trước nay dụng trợ cách đa phần dụng tới Sát cách. Người luận tử vi là luận cuộc đời của người khác. Có thể phân tính thiện ác, tính cách đặc điểm tốt xấu, tiểu nhân, quân tử. Tuy nhiên thành tựu, phú quý cần rõ ràng và nhiều phần không liên quan tới vậy. Tham Hỏa đứng đầu trong phú cách với mệnh khí hình thấp. Ngay cả mệnh Vũ Tham cũng luận vậy. Tham Lang khi đi với Sát tinh là Hỏa Tinh chủ tính cách tham lam, tham muốn nặng về vật chất. Lòng tham có Hỏa Tinh mang tính thường trực và tăng mạnh khi đạt được các thành tựu. Bố cục Sát Phá Tham cũng chủ thực hiện kế hoạch mới do Tham Lang khởi tạo. Do đó gặp mệnh Tham Hỏa mệnh tạo thường có các tư tưởng làm giàu, tham muốn lớn về tiền bạc, nhu cầu vật chất. Là ý nghĩa của Tham Hỏa đồng độ cách. Do bản chất Sát cách khởi phát bởi bố cục Sát là Sát Phá Tham và Hỏa Tinh nên tính chất đột biến, hoạch phát, không ngừng tham vọng rất lớn. Khí hình gốc xuất thân nghèo, chủ thấp khi thành tựu được 1 muốn 2, được 2 muốn 10 không thôi. Khí hình trở nên vượng tác hóa của SÁT khởi. Cũng từng mệnh số có khả năng hóa Sát sai biệt, không giống nhau dù lá số tử vi với hoàn cảnh gia đình tương tự. 



Chữ Sát khởi bởi chữ Tham. Đây là điều tối quan trọng nhất trong tử vi và tử vi đông a, cũng là nguồn gốc thành tựu của Sát cách. Lòng tham muốn được xã hội đánh giá tốt hay xấu, phù hợp đạo đức hay không. Bố cục Sát cát hóa lòng tham muốn cống hiến công sức cho xã hội, như một tỉ phú nước ta về xây dựng muốn xây dựng công trình lớn để đời cho Việt Nam là lòng tham lớn, tham muốn táo bạo. Khởi quyết tâm thực hiện do chế hóa Sát. Tham muốn thực hiện bởi Sát cách và thường tương hỗ. Người xem tử vi kinh sợ với Sát cách. Cũng sách tử vi man thư ưa luận Sát cách chủ tính cách xấu, tàn ác là sai lầm căn bản khi luận. Trở lại cách cục Tham Hỏa. Đặc biệt khi có thêm Lộc Tồn tại đây chủ tham muốn tích lũy tăng dần sau mỗi đạt được kế hoạch, cũng chủ hoạch phát bền vững. Nếu thêm Tồn Kỵ cần nhập vòng Trường Sinh để cát hóa tránh gặp họa lớn khi nhập vận xấu phá cách. Bố cục Tham Hỏa tối hỉ nhập vận Cự Cơ Đồng có Lộc Tồn hoạch phát lớn. Rất cần thiết có Xương Khúc, Khoa tránh chữ hoạch phá. Trợ tinh trợ lực cho Sát Tinh tốt hơn cho bố cục Chính Tinh cát. Người viết diễn đạt nội dung nên bài viết có phần dài hơn. Phần Tử Vi tới luận Sát Cách có phần phức tạp hơn để định trợ cách về sau. Vì vậy có những mệnh cách khi xem tướng số hoặc xem lá số tử vi định lá số thành tựu đại nghiệp.




Thứ tới là bất công. Đây là phần quan trọng khi luận Sát cách. Bởi khởi tham muốn dẫn tới bất công. Khi thuở sinh thành không biết tới tham muốn tiền bạc, trưởng thành thấy xã hội đều lấy tiền bạc làm thước đo nên khởi tâm tham muốn.  Mệnh Thiên Đồng cát hóa bất kiến Sát khó thành tựu là vậy. Xã hội tác động là vậy. Xã hội trọng người tài khác với xã hội trọng quan hệ. Xã hội trong thời chiến loạn khác thời bình.  Nhiều mệnh quý tiền nhân luận sinh bất phùng thời là vậy. Thời chính là hoàn cảnh, là chữ Hình trong khí hình, dẫn hóa ứng hợp bố cục tổ hợp sao. Người viết thường nghe thầy dạy về phần khí hóa. "Thời loạn cuộc lắm kẻ trộm cướp,  bất lương mà thành tựu tướng soái. Cổ kim nhiều kẻ giả dối mà đoạt được thiên hạ". Để luận về các cách cục về tính cách bất ứng với thành tựu như nhiều sách thời nho luận. Như sử sách của ta thường ghi nhiều tướng lĩnh địch phương Bắc tướng số diều hâu, miệng nhọn, mũi khoẻo thuộc ác tướng, tham lam, sợ chết lại thống lĩnh quân. Trong khi Trung Quốc dân số rất đông, bình quân sinh mệnh cách quý hiển, bố cục tốt đẹp không ít. Một mệnh cách gặp Sát tinh hội họp đa phần thường khó thoát được tai kiếp về một mặt tình cảm hoặc sự nghiệp, bệnh tật hay gia đình. Khó khăn và bế tắc do bố cục này tạo ra, mang tính bất ngờ và hoàn cảnh tác động. Do vậy người thành tựu ít, kẻ bại nhiều. Là sự đánh đổi.