Saturday, August 10, 2019

Tâm linh và tri kiến khoa học





Tính chất của nhân mệnh, là thực lý của Âm Dương Ngũ Hành. Trong đó có những cách dụng dịch lý có phần đặc biệt như Mai Hoa Dịch Số xem tượng cát hung của các sự việc diễn ra, như xem từ, âm thanh, nghe tiếng nói, cử động, chữ viết,... Toán mệnh lý là một phần khi dựa vào thời khắc thai sinh để dự đoán của đời của nhân mệnh, đại đồng tiểu dị, bất sai khác tuy nhiên lại phát triển có phần sâu sắc hơn khi người chính là chủ thể mà dịch số hướng tới, luận cát hung, thọ yểu, sự nghiệp, tài danh, phúc trạch, phú quý. Kỳ thực chỉ riêng môn tử vi, hoặc bát tự đã nghìn năm vẫn đứng vững, lưu truyền rộng rãi, nghiệm lý toàn cục thực có điểm huyền diệu, nếu không ắt cũng gặp khuyết điểm mà đào thải do sự nghiên cứu thấu thị của tiền nhân.  Mỗi nhân mệnh là một vòng luân hồi, do duyên để phát khởi. Mỗi lá số là một tiếp chuyển của nhân duyên, là cách dự báo theo Âm Dương Ngũ Hành bất biến luôn tác động tới vạn vật, tuy nhiên Âm Dương Ngũ Hành không phải là vật, là một phần quy luật vạn vật tuân theo. Có những việc khiến bản thân ta tin và không tin do tri kiến của khoa học và do chưa khám phá hết thế giới quan của vũ trụ. Cũng như người viết thường luận về toán mệnh, sẽ có người nhìn vào một quyển sách huyền học và tự bỏ qua do tiềm thức ứng với tin tưởng về sự thực tại của duy vật, không có sự gắn kết của tâm linh, của linh hồn. Sẽ có người bất chợt lần đầu tiên nghiên cứu quyển sách đó và nhận ra được giá trị và thứ mới lạ tồn tại xung quanh thế giới quan của nhân mệnh đó. Sẽ có người đã có tín tâm với các môn tam thế diễn cầm từ quá khứ hoặc tin tưởng về dự đoán của Âm Dương Ngũ Hành để nghiên cứu cuốn sách. Sự phát sinh như vậy khiến vạn vật trở nên đa dạng, nhân duyên thúc đẩy cũng sai khác. Trong một kho tàng trí tuệ của mạng thông tin, việc tìm kiếm trên mạng cũng mang ý niệm ứng hợp với nhân duyên. Cũng một việc những sự chứng nghiệm của các nghiên cứu về luân hồi, chuyển kiếp được các nhân chứng sống và kiểm nghiệm của những nhà khoa học, hoặc thậm chí chỉ một vài tin tức về sự dị biệt của một vài trường hợp ở nước ta. Có người sẽ do nhân duyên tìm kiếm thấy và sẽ bỏ qua, trong nội tâm sinh nghi về tính xác thực và động cơ của vấn đề này. Tuy nhiên những nhân mệnh như vậy, khi những vấn đề thường được bỏ qua một cách vô thức, lại đánh mất đi một tri kiến, giá trị của cuộc sống. Chỉ những người trong cuộc hiểu rõ, cũng như người nghiên cứu tử vi hiểu rõ về sao Linh Tinh trong một số cách cục chính là linh hồn, khi đồng độ với Đồng Việt là linh ứng. Nhân mệnh có cách cục này sẽ thường là người có niềm tin rất lớn về nhân quả và nghiệp nhân duyên, tâm linh, không phải do mù quáng, là một thể tính như việc tìm hiểu một sự vật như trên người viết đã đề cập. Vạn vật chỉ có tri kiến là hữu hạn, những việc khó tin tới người nhìn thấy sự tồn tại của hố đen của vũ trụ, đa phần những người nghiên cứu dày dặn trong khoa học bỏ qua và thực khó tin về sự tồn tại này. Qua thời gian lại được chứng minh. Sự phát hiện bởi chỉ một người duy nhất lại có thể đúng và hàng chục năm sau mới có thể chứng minh. Khi bản thân người viết tìm kiếm một thứ gọi là ý thức, một phần có thể đo định bằng thực thể có khối lượng để chứng minh sự tồn tại của linh hồn. Một đạo sư ẩn cư do một nhân duyên tình cờ ngắn ngủi, đàm đạo với người viết về thể tính của nhân mệnh. "Không cần tìm bằng chứng cho sự tồn tại của luân hồi hay tâm linh. Nó không có hình tướng, không có sắc diện, không có nặng nhẹ, không bị tác động, không bị sinh diệt, vì nó được lưu lại tại bởi chính sự liên hệ của bản thân đã tồn tại, biến đổi tới vạn vật xung quanh trong các giai đoạn sống, sự liên hệ đó liên tục với chấp về tri kiến, phân biệt thành mỗi bản thể , từ khi bản thể phát sinh và sự tồn tại của thân xác, ý niệm. Trong một xã hội đang tồn tại về các tính cách, bản tính tương ứng thực chính là sự khởi nguyên của luân hồi. Không có hình tướng do dựa vào nhân duyên để khởi, bản thể là sự liên kết của vạn vật, khi thế giới diệt, cũng chưa diệt vì lưu lại ở mỗi chủng tử thức của vạn vật. 



Về sau, khi nghiên cứu về tri kiến của khoa học, những tri kiến của vị sư trên luôn tồn tại trong tư duy của người viết, thực chứng nghiệm dần về lời luận của cố nhân. Những ngôi sao tinh đẩu đã diệt cách đây rất lâu, tuy nhiên hình tướng của chúng cách đây vạn năm vẫn xuất hiện khi nhìn lên trời, khi đặt mắt ở các vị trí khác nhau trong cùng một thời điểm sẽ thấy được những giai đoạn khác nhau đã xảy ra với ngôi sao này . Sự xuất hiện được lưu lại khắp mọi nơi, được các chủng tử thường gọi là ánh sáng mang tới do khoảng cách khác nhau dẫn tới thời gian khác nhau. Sự tồn tại về thể tính của ngôi sao được lưu lại ở tất cả các chủng tử trong vũ trụ dù ngôi sao đã tan rã, diệt, khi ở gần sẽ thấy thực cảnh, ở vị trí xa thấy sự tồn tại cách đây rất lâu. Có thể một giai đoạn sau khi khoa học trở nên phát triển hơn, ngoài ánh sáng, tồn tại các dạng khác nhau chưa thể nhận thức. Do tính phủ khắp của ánh sáng, vật tồn tại được lưu lại toàn bộ thể tính, bản tính, bản chất.Khi nhân mệnh tồn tại, các chủng tử nhân duyên, hay có thể gọi là sự kiện đã diễn ra, đã phát sinh. Nhân mệnh cũng vậy, khi tất cả đều diệt, ở tại mỗi vị trí đủ xa khi ánh sáng chiếu mang thông tin tới, nếu có đủ khả năng khoa học, trong huyền học cũng có một thể tính gọi là thông linh từ con mắt thứ ba, có thể nhìn thấu từ quá khứ, hiện tại, vị lai ở vị trí nằm ngoài vạn vật. Sự tiếp chuyển của sinh diệt bởi con mắt trần là sự tan rã, hủy hoại của xác thân. Trong các cổ thư đều lưu rõ về khả năng nhìn thấu về nhân duyên và luân chuyển sinh tử bởi con mắt thông linh. Giai đoạn rất lâu từ các thời trước, sự vận hành của con mắt thông linh đã mô tả hàng nghìn năm tuy nhiên thường không rộng rãi. Hiện nay khi thông tin phát triển, sự tương ứng của các giai đoạn lịch sử và quốc gia khác nhau với vị trí và mô tả tương đồng dẫn tới việc nghiên cứu khoa học về vấn đề này càng sáng tỏ, phá những mê tín sai lệch. Sự tồn tại của một con người và chuyển tiếp của luân hồi, có ký ức từ chủng tử của tất cả vạn vật, từ thông tin ánh sáng nhìn thấy nhân tướng luôn có mặt ở khắp nơi, nếu khoa học có thể tiềm vọng tới từng nhân mệnh, mỗi khoảng cách có thể lưu trữ nhân tướng và biến động của nhân mệnh ở từng thời kỳ, chỉ những tri kiên khoa học đã từng biết tới cũng đã cho biết rõ việc nhân mệnh không chỉ lưu lại tồn tại ở trong mỗi cơ thể, khi não diệt thì vật diệt, luân hồi là sự tái hiện của vòng Trường Sinh mỗi khi ở giai đoạn Tuyệt khởi tiếp tới Thai sinh, các chủng tử ký ức do bản tính hành thức có thể được lưu lại bởi chấp niệm, kết nối nhân duyên tới vạn vật để vận động thành một vòng tròn. Ứng với chấp niệm, luân hồi, không mang một tính thực thể có trọng lượng hay khối lượng của ý thức. 





Trong nghiên cứu của khoa học hiện đại, thực tính trong não nhân mệnh có tồn tại một con mắt thông linh, nhìn vạn vật ở thể tính khác, sự tồn tại này đã được khởi quyết là thực. Người nghiên cứu dịch lý nghiệm lý thường nhìn thấy khởi nguyên của vạn vật tuân theo quy luật của vũ trụ. Nguyên tắc này cũng dẫn tới con người không nằm ngoài, do đó khởi sinh ý niệm về số phận, sự ràng buộc của nhân duyên tới bản thể của số mệnh. Tuy nhiên khi suy xét về khuynh hướng phát triển tính chất đã dị biệt do tác động của chính trị dẫn tới biến một phần của khai phá khoa học thành tính chất chính trị trong chế độ quân chủ. Về sau cũng do khai phá trừ bỏ chế độ này dẫn tới sự đánh giá về toàn bộ khoa học phương Đông thành mê tín, dị đoan. Bản pháp không dời đổi, tri kiến về chân lý không thay đổi tuy nhiên với ý niệm cách nhìn thay đổi. Như việc bản thân mỗi người có đánh giá chủ quan về nhân tính của người khác qua gặp gỡ, giao tiếp có thể sai lầm. Trí giả thường ẩn cư tránh sự tác động khiến cách nhìn sự thực về vạn pháp thay đổi để lấy trí tuệ soi xét căn nguyên của vạn vật. Cổ thư có giá trị hiện tại cũng không còn lưu truyền, đa phần thất truyền. Tri kiến nhận thức, nghiệm lý về sự thực như một nghiên cứu khoa học về thể tính của ý thức như trên, cũng là sự nghiên cứu từ bản chất sự vật xung quanh như khoa học phương Tây hiện đại. Chỉ đường lối có sự sai khác, đa phần tính chất khai phá của tiền nhân lấy từ tri kiến về thực tại từ sự tĩnh lặng, tính Không của nội tâm trở nên sáng suốt, cũng có thể do tri kiến từ con mắt thông linh khi thiền định. Tuy tiểu dị nhưng đại đồng về nguồn căn giữa hai bên truy cùng nguồn gốc. Ngay tư tưởng khởi phát của mỗi nhân mệnh tuy biến hóa đa dạng do tính ứng hợp với thân thể mỗi người, vẫn tuân theo quy luật vận hành chung của vạn vật. Tuy nhiên để lấy tri kiến từ tư duy khách quan không mang một thiên kiến là khó khăn. Như việc một thế hệ khi được tin tưởng rằng " Địa cầu là trung tâm của vạn vật". Do thiên kiến trên bầu trời thấy vạn sao và thái dương chiếu đều xoay quanh địa cầu ở ngày và đêm, về tri kiến việc trái đất đứng yên. 





Mỗi lý luận lập luận về các thiên kiến tùy mỗi người đều sẽ nhận định là đúng hoặc trở thành sai trong từng giai đoạn. Hiện nay vẫn có một số bộ phận người cho rằng trái đất là hình vuông, sự tin tưởng mang tính tuyệt đối do những tri kiến nghiệm lý từ suy luận trước. Có thể nếu tri kiến đó được khai phá như việc du hành ra ngoài trái đất thực kiến sẽ khiến chấp kiến thay đổi. Khi tử vi an cặp Không Kiếp và Không Vong, chính là sự trái nguyên tắc của vạn vật, khiến tri kiến được khai mở liên tục từ những khám phá mới, Tham Lang là tham muốn tốt cùng về chân lý, khiến Phá Quân khám phá và Thất Sát lại thất kinh, bất ngờ về khám phá của bản thân về những kiến chấp đã tồn tại trong tri kiến bị phá bỏ như câu thường nghe " Không thể tin vào mắt mình", " Việc dường như không thể xảy ra". Tri kiến này cũng như tri kiến về luân hồi, về vòng Trường Sinh liên tục sinh diệt. Tới các thông tin về chuyển kiếp của mội người hay nhiều người có thể coi là sự lừ gạt. Thực tế, có những việc như có không gian có thể dừng thời gian là có thực tại hố đen, sự đột phá tạo ra bất ngờ. Do đó thường khi nghiệm lý về lá số theo khuynh hướng khoa học, từ khoa học huyền bí tới khoa học hiện đại thường nhìn thấy cách cục Sát Phá Tham hội Không Kiếp. Hay Cự Cơ Đồng hội Không Kiếp. Hai sao Cự Môn và Thất Sát là hai sao của sự bất ngờ, toàn cục của Cự Cơ Đồng và Sát Phá Tham đều mang tính khai phá rất mạnh, đặc biệt khi có Lộc Tồn hội Không Kiếp, do tính khai phá mạnh mẽ, khai phá ngay trong bản chất như đã hằng cố thường trụ, thường như chân lý vững chắc mà giai đoạn đó tri kiến được, tức tính chất của Lộc Tồn. Sức bạo phát của cách cục rất lớn, do vừa đắc vòng Lộc Tồn, vừa gặp Không Kiếp tuy nhiên rất khó đắc cách. Mỗi cách cục sẽ ứng hợp với tính chất bên ngoài đời thực. Như việc rất nhiều thần đồng, thiên tài có khả năng tri kiến từ thời trẻ là chữ Thiên Đồng. 





Sức tham muốn của vật dục với tham muốn về tri kiến khó có thể phân nặng nhẹ, một bên là trầm xuống, một bên là khai phá ra. Trong tùy thời cuộc, sự tác động của xã hội sẽ ảnh hưởng tới một phần tính định cách của tham muốn, như Tham Lang. Một nhân mệnh ở nơi này có thể là nhà khoa học vĩ đại, cũng nhân mệnh đó ở nơi khác phát triển tiếp nhận khí hóa từ thực tại sống có thể trở thành người tham muốn sắc diện. Vì tính khí hóa tại mỗi thời điểm, mỗi xã hội, mỗi tiếp nhận là sai khác ở ngay chính mỗi nhân mệnh. Toán mệnh là khả tri bất khả kiến. Sau trăm năm nữa người đang sống hiện tại cũng đều không còn tồn tại, xã hội đang sống là tiếp nối tương tục, là sự ổn định của vận nước. Tham vọng của người có tham muốn lớn luôn hàm chứa Sát tính loạn động, cũng khiến nhiều kẻ lâm vào cuộc sống bất mãn, đố kỵ, ganh ghét lẫn nhau. Trong bố cục Sát cách khó dụng do tính chất thường trực gặp của mỗi nhân mệnh. Ghen ghét, đố kỵ, thất vọng khi kẻ khác gặp may hơn hoặc có năng lực hơn là khuynh hướng tính chất thường ứng hợp. Thời vận tới rất nhanh, thành tựu của kẻ tay trắng gặp thời về tính chất cũng nhanh chóng như việc suy bại của một kẻ đại phú. Vận chuyển xoay vần, trước đây người cậu cũng là nguyên thủ quốc gia, thịnh suy dòng họ có lúc, vật đã có sinh mạng thì có mạnh yếu, được mất, may rủi, thịnh suy. Dòng dõi, tài sản, thứ quý báu hay giá trị, quý khí, chức tước cũng là do định nghĩa của con người tạo ra, do tham muốn của hệ đồng tư tưởng là xã hội định nghĩa các quy luật và khi gia nhập vào xã hội từ qua giai đoạn tiếp nhận tri kiến thuở nhỏ, thường nhân mệnh sẽ chịu tác động hệ tư tưởng này, và một vài sẽ trở nên đại thành tựu nếu nội tâm tạo nên sự khác biệt so với đa phần. Phàm vật ít thì quý, duy nhất là hiếm, độ số cách cục cũng phân định không sai khác. Nhân mệnh phân định nội ngoại, nội tâm và ngoại thân. Cung an Thân là ngoại thân, cung Mệnh là nội tâm. Nhiều người khi nghiên cứu lâu dài vẫn có khúc mắc trong cách phân định về tính chất của tinh đẩu ở hai vị trí cung Mệnh và cung an Thân. Cung an Thân là cái thấy được, hoặc điều khiến được, thường luận là ý thức và hành động có ý thức. Cung Mệnh là cái tàng ẩn bên trong của nhân mệnh, là bản năng, bản tính, là vô thức và hành động vô thức. Tinh đẩu tại cung an Thân và cung Mệnh tính chất sai biệt nhau rất lớn. Phần luận về biến động của hành vận càng khó khăn khi xác định ý nghĩa của các tổ hợp giao hội. Việc nhớ về tính chất giao hội của các tổ hợp là cách phức tạp nhất trong luận tử vi. Việc căn bản trò phải phân từ xét riêng trong nội cách tức bản mệnh, và xét chung toàn bộ tổ hợp Mệnh Tài Quan cách. Hành vận lưu tới xét từ tương quan ngũ hành Mệnh Cục để biến đổi tính chất của toàn tổ hợp Mệnh Thân Vận giao hội cho phù hợp. Quan trọng là khi xét luận cần nắm vững tính chất của từng bộ sao, hay nhóm chính tinh và bản thân mỗi chính tinh khi giao hội bàng tinh, thứ tới rồi mơi có thể đến hành vận phối hợp. Mệnh Thiên Lương đắc cách, thường xuất thân gia đình phú quý, tuy nhiên lại thường khó có thể hưng vượng hơn và chịu đè nén, áp lực như " Công danh đợi tuổi tác cao, giáp Liêm giáp Sát một hào chẳng sai" là vị trí Thiên Lương cư Sửu Mùi. Hoặc cách "Lương cư Tị Hợi tắc tật du" có thêm Thiên Mã càng ứng hợp. Trong thời kỳ trước, khi thời bình trở lại, những vấn đề quan tâm của người xem tử vi khác với hiện tại, trong xã hội truy cầu chữ phú và thụ hưởng càng lớn này, bề ngoài là thịnh vượng nhưng bên trong nhiều sự bất mãn, bất lực trước số phận, kích phát thêm bởi các xu hướng của thông tin, giải trí. Cũng có một vài dị biệt nghịch xu thế bất lực, nhân mệnh số thượng cách âm thầm vượt lên đứng đầu xã hội về cả phú lẫn quý như câu " Bạch thủ thành gia". Những nhân mệnh đó có một đặc điểm ứng cách cục rất đặc biệt trong tử vi, khi nghiệm lý thành tổ hợp trọng điểm cách. Không phải chỉ là tham vọng, còn có thể là sự mù quáng so với suy nghĩ người thường, cách cục Diêu Kỵ Linh Quyền giao hội Tài cách thành cách cự phú thường ít được chú ý đến vì hội Nhị Ám, dễ thành lập dị, khi nhìn nhận thực tế, nhiều kẻ thành tựu mang tính chất này. 

2 comments:

Unknown said...

Đọc báo ngày nay, cháu cảm thấy như nhân loại đã bước vào cực đỉnh của cuộc sống vật chất, phải chăng sẽ dẫn tới sự đổ vỡ để nhân loại bước vào đời sống tâm linh, phải không thầy. Cháu cảm thấy dường như tâm linh cũng đang thịnh, nhưng bản chất đằng sau vẫn là vật chất.

Bùi Dũng said...

Được đọc nhiều bài viết của thầy khi định Sát cách và luận giải lá số đã cho con cái nhìn rất khác với tử vi, rất sát với hoàn cảnh sống bên ngoài. Bố cục Sát có lẽ cũng đồng dạng với năng lượng tối trong vũ trụ có sức mạnh rất lớn và biến hóa vô cùng, rất khó để giải đoán vì mỗi Sát tinh đều mang năng lượng thay đổi rất lớn. Cách cục Diêu Kỵ Linh Quyền con lục trong trí nhớ đã có nhìn qua một lá số như vậy với chính tinh là Tham Lang anh ấy có địa vị cao, có tham vọng rất lớn nghiêm túc, thâm trầm khó đoán và quả thực có một số sở thích khá lạ thưa thầy.