Saturday, September 14, 2019

Bố cục chính tinh luận tổng quan độ số




" A man xuất thế do hữu Cự Kỵ Khốc Hình Thìn Tuất". Tức Tào Tháo thành tựu đại nghiệp do cách cục này. Phú thường luận " Cự Môn Hóa Kỵ giai bất cát, Mệnh Thân Vận kỵ tương phùng". Xét về cách cục chủ đạo đức, Cự Môn nhập La Võng tức hình thành cách Cự Nhật, theo quan điểm của phong kiến, bố cục này mang ý nghĩa bất mãn, nghi kỵ, phản đối và làm phản. Điểm bất lợi của phú luận là đánh giá rất lớn tính chất Chính, Trung, Lễ,... theo tiêu chuẩn của Nho giáo. Chính sự tác động của thời thế dẫn tới các câu phú trong từng giai đoạn lịch sử sẽ mang ý nghĩa khác nhau về đánh giá của tiền nhân tới phú quý. Cự Kỵ Khốc Hình tức là cách cục Cự Nhật Kỵ Khốc Hình là cách cục có tính độc đoán, mưu lược, quyền biến và đa nghi. Trong giai đoạn thời phân cắt đất nước, tình hình giai đoạn này có rối ren, người chú, là một người thầy của người viết về nghiên cứu dịch lý. Luận bàn truyền đạt lần đầu về ý nghĩa của nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm. Trong giai đoạn khi cả ba thể Tử, Phá, Cự hoạt động mạnh chính là giai đoạn bất ổn nhất, ba cách cục trên luôn hình thành thế cục đặc biệt trên tử vi. Khi Tử Phủ Vũ Tướng Liêm thành cách, Sát Phá Tham tại đối cung hoàn chỉnh, Cự Môn giao hội với Cơ Đồng ở thế lục hợp luôn âm thầm tạo nguy cơ bất ổn, rối ren trong nội bộ. Đặc biệt với thế đứng Tử Tướng đồng độ, Cự Cơ hình thành tại lục hợp, Phá Quân xung chiếu với Tử Tướng là cách cục bất ổn lớn do thế đứng của Cự Cơ cũng rất mạnh chủ tàng ẩn lợi ích bên trong, cũng mang ý nghĩa đắc thời để khởi binh, tạo phản. Phá Quân xung chiếu trong nhóm Sát Phá Tham với Sát cư Tí Ngọ rất đắc lực. Nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm với Vũ Phủ đồng độ có tính bạo lực. Toàn thế đứng của Tử Tướng là thế đứng của bất ổn, khi tất cả các tinh đẩu đứng đầu nhóm sao đều cường vượng, nghịch với bố cục Tử Vi cư Ngọ với Tử Vi cực vượng, Sát Phá Tham và Cự Đồng đều ở thế bất lợi, phá cách trước Tử Phủ Vũ Tướng Liêm. 






Các thế đứng của Tử Vi sắp xếp theo dịch lý, là quy luật biến đổi của vạn vật, cũng như việc phân định vạn vật theo Âm Dương, thể âm có tính chất nhu, thể dương là cương. Người nghiên cứu tử vi thời nay lao vào các lý thuyết hỗn độn quên mất cái cơ bản, những vấn đề cốt tủy của tử vi. Bất kể mệnh cách tại các bố cục tốt đẹp, độ số xét khởi đầu tiên khi luận tử vi là định cách thế đứng của tinh hệ, chính là toàn bộ cục diện của đương số, là nét tổng quan về cuộc đời nhân mệnh trên thiên bàn. Bản chất của tinh hệ Tử Vi cư Ngọ là quyền lực tập trung bởi nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm nắm lệnh. Nếu mệnh cách tại các bố cục còn lại tương ứng với tính chất của tổ hợp trên trong toàn tinh hệ để luận mệnh khí. Bố cục của tinh hệ là tổng quả của cách cục nhóm sao trong Mệnh Tài Quan, tính tổng quát lớn hơn và có ý nghĩa về tổng quan cuộc đời. Như việc phân định Mệnh Tài Quan thuộc Cự Cơ Đồng. Bản xung Mệnh là Cự Cơ, tam hợp chiếu Thiên Đồng. Ý nghĩa của toàn tổ hợp là sự bế tắc, ồn ào, tìm thấy cơ hội để khai phá trong khó khăn. Mệnh cách gặp Cự Cơ tức bản thân ta, bản tính đương số là Cự Cơ, cách cục tổng quát là Cự Cơ Đồng. Khi xét toàn bộ thế đứng của tinh hệ Chính Tinh cũng vậy, tinh hệ Cự Cơ Đồng là bản thân ta, trong cách cục tổng quát tạo bởi tinh hệ Tử Tướng cư Thìn Tuất hình thành ý nghĩa cả ba nhóm sao Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cự Cơ Đồng đều rất mạnh, xung đột lớn, biến động mạnh. Mệnh cung cho biết về tồng quan bản tính trong hoàn cảnh toàn tổ hợp Mệnh Tài Quan. Tổ hợp Mệnh Tài Quan cho biết về tổng quan vị trí hoàn cảnh bản thân trong hoàn cảnh xã hội, thế giới quan quanh tư tưởng nhân mệnh hình thành, chịu tác động. Một vấn đề thường người nghiên cứu tử vi không lưu ý tới là việc khi nhìn toàn bộ cục diện lá số, thường chú trọng rất lớn tới các Sát Tinh gồm Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp Kỵ Hình, đặc biệt với Không Kiếp, Kỵ Hình mà quên đi sự biến hóa của các Chính Tinh bởi sự hình thành các Sát tinh là Chính Tinh là tối quan trọng, phần quan trọng nhất trong tử vi là định cách bố cục Sát, tức bố cục Chính Tinh và thế đứng xung đột, mâu thuẫn của  Chính Tinh tác động mạnh hơn các tinh đẩu Lục Sát rất nhiều, do thế đứng của Chính Tinh là thế đứng cuộc đời, của các sao chính trong tử vi để định ý nghĩa với các phụ tinh còn lại, ngay cả Sát tinh. 





Nhân mệnh sinh nguyệt lệnh tháng Hợi luôn gặp mệnh Thiên Không, khả năng gặp bộ Không Kiếp hợp chiếu là 2/3. Tuy nhiên khó có thể luận về được mất, thành bại do yếu tố Chính Tinh thành cách quyết định tới độ số. Tuy nhiên nếu nhân mệnh gặp bố cục Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham thành thế đứng của Tử Phá ắt cả cuộc đời có sự thăng trầm, khó khăn rất lớn. " Vũ Sát Liêm Tham hội khúc toàn cố quý cách". Ngay can Giáp hội Tam Hóa tức Khoa Quyền Lộc bởi tứ hóa Liêm Phá Vũ Dương, lại có Khôi Việt tại Mùi Sửu thuộc tổ hợp, không gặp Lộc Tồn tại đây phá do Lộc Tồn an tại Dần. Bố cục được cát hóa toàn cục tuy nhiên cuộc sống nhân mệnh có cách cục này vẫn rất khó khăn, biến động thăng trầm cuộc đời lớn. Tử Phủ Vũ Tướng Liêm hay do Phủ Tướng hỗ trợ nhóm Tử Vũ Liêm. Tử Vi cư Ngọ hay do Liêm Phủ đồng độ và Vũ Tướng đồng độ tạo tính chất đặc biệt. Khi luận tử vi cần nắm vững tính chất của các Chính Tinh, thứ tới là các phụ tinh còn lại và ý nghĩa hóa khí khi từng Chính Tinh và trợ tinh Tả Hữu Xương Khúc hóa thành đều khác nhau. Thiên Phủ bản tính, hay tính chất cơ bản là đánh giá, nhận định, nhận xét và phán xét, có tính bảo mật, che đậy bí mật quan trọng. Do vậy khi đồng độ với Tử Vi, Liêm Trinh, Vũ Khúc tính chất phối hợp rất khác biệt. Đồng độ với Liêm Trinh được luận tốt do luôn nhập cung Thìn Tuất có La Võng, thứ tới với Thiên Phủ ưa phán xét cần gặp tinh đẩu chủ dò xét, điều tra. Khi nhận xét luôn cần tính chất trong sạch, liêm chính để nắm lệnh. Phần thông tin Thiên Phủ che giấu, bí mật quan trọng khi gặp Liêm Trinh dò xét, điều tra lưu lại bên trong. Thiên Phủ là khố. Liêm Phủ đồng độ là lấy thế danh nghĩa, chính nghĩa do Liêm Trinh nắm lệnh từ Tử Vi cư Ngọ, cách Liêm Phủ mang rất nhiều ý nghĩa hay, ở vị trí quan trọng trong tổ chức. Do tính chất cơ bản, khi Thiên Phủ ngộ Không Vong, đặc biệt là Triệt Lộ, phá tính chất lưu giữ thông tin bí mật, như việc âm mưu, tính toán bị lộ, các sai sót che giấu lộ ra bên ngoài, có phần nguy hiểm khi thế đứng Cư Đồng và Sát Phá Tham đều mang hung tính. Tại hai Chính Tinh gồm Thiên Phủ và Cự Môn đều tối hỉ đồng độ Thanh Long. 





Bản chất của Thanh Long là tiếng nói, khi Thiên Phủ gặp Thanh Long tính chất thay đổi, cơ biến rất linh hoạt, thường luận là ứng biến theo tình hình. Với Cự Môn gặp Thanh Long là cách " Lão bạng sanh châu", tức nhấn mạnh về kinh nghiệm đối định, đối chất hay giao thiệp, giao tiếp rất tốt. Trong lịch sử nước ta chỉ mới ổn định thời gian rất ngắn, người nghiên cứu tử vi nếu sống trong các thời kỳ vận nước thay đổi lớn sẽ nhận thấy sự biến dịch, các cơ hội lớn theo thời vận cũng thay đổi. Hóa khí của các tinh đẩu cũng biến đổi về tính chất khi ứng hợp với từng chính tinh. Chính tinh hay chủ tinh với các thế đứng quyết định về ý nghĩa cục diện, khi giao hội các phụ tinh sẽ biến hóa ra kết quả cát hung, thành bại. Tuần Triệt và Thiên Không mang tính Không Vong thường được luận với tính chất rất đặc biệt như " Tuần Triệt đương đầu thiếu niên tân khổ". Triệt, Tuần, Thiên Không ( Địa Không ) đều hàm chứa tính Không và tính Vong. Chữ Không là nghịch của Có, tuy nhiên Không Vong mang ý nghĩa sai khác, chủ mất đi, tổn thất nhiều hơn được lợi. " Tuần Triệt bất khả ngộ Lộc Tồn tư cơ phá hoại". Cách cục của cả Tuần và Triệt đều bất lợi với các bố cục ổn định, tích lũy. Đó là cách cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm hoàn chỉnh, Lộc Tồn, Cơ Nguyệt Đồng Lương. Khi đồng độ tại bản cung với từng Chính Tinh sẽ mang ý nghĩa sai khác. Với các thế xung đột như Cự Cơ Đồng, Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham, Cự Nhật gặp Tuần Triệt mang ý nghĩa tốt hơn xấu. Tính chất của Triệt Lộ, Tuần Trung và Thiên Không sai khác hoàn toàn với nhau. Trong trường hợp cách cục hội Tam Không, thường nhiều sách cho rằng đây là bố cục tai họa, thực tế trong các trường hợp để luận định. Với bố cục Cự Cơ Đồng, Sát Phá Tham, Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham hỉ kiến Tam Không. Lưu ý Không Vong tọa thủ bản cung tính chất khác với tam hợp chiếu. Tuần và Triệt sẽ tác động trực tiếp ý nghĩa của toàn cách cục Chính Tinh phân tách. Trong thế Cự Cơ Đồng với cách Cự Cơ Mão Dậu hội Thiên Đồng tại Hợi Tị. Nếu Triệt Lộ tại bản cung Cự Cơ, tức cách cục Cự Cơ chủ lộ mưu tính, lộ về tính toán của bản thân, cũng là cách Cự Triệt dễ gặp thị phi, đặc biệt khi có Hóa Kỵ. Nếu Triệt tại vị trí Thiên Đồng tức tại cung Tài Bạch thành cách Đồng Triệt nội cách Đồng Cự Cơ ý nghĩa vẫn chủ thế bế tắc, xung đột được thay đổi, Đồng Triệt khai thông, Thiên Đồng chủ thay đổi, tăng tính chất biến đổi toàn diện. Nếu Cự Cơ Đồng tại đây hội Tam Không chủ mệnh tạo thường tính cách thường hay quên, tư tưởng hư không, nếu đắc vòng Trường Sinh khí vượng có thể thành tựu lớn. 




Cách cục Cự Cơ cư Mão Dậu này nếu có Song Hao tại bản cung và cung xung chiếu là cách cục bạo phát về Tài Danh. Thực tế tại đây không chỉ do bản chất của Cự Cơ Song Hao. Thực tế chỉ trong ba can Đinh Kỷ Quý có Song Hao cư Mão Dậu, đây là ban can tuổi âm nam, hành vận lưu tới cung độ Tham Lang, Âm Dương, Vũ Phủ, Thiên Đồng và Phá Quân. Trong đó hai hành vận Tham Lang và vận Vũ Phủ định cách Cự Cơ bạo phát, do Tham Lang nhập vận thứ hai phát khởi tham muốn, tham vọng ở thế đứng Thất Sát cư Tí Ngọ hội chiếu rất hay. Hành vận Âm Dương tăng tính giao tiếp xã hội, cung vận Vũ Phủ là hành vận then chốt luôn hội Tồn Tướng Ấn hoặc Thanh Phi Phục. Cự Cơ cư Mão, với Đinh Kỷ có Lộc Tồn tại đối cung, với can Quý với Lộc Tồn tại ngay bản cung. Cự Cơ cư Dậu, can Đinh Kỷ tại bản cung và can Quý có Lộc Tồn tại đối cung. " Cự Cơ Mão Dậu tốt thay, công danh vinh hiển lại tay hoang tàn, ngộ Song Hao là làng quán thế". " Cự Cơ Mão Dậu hạnh ngộ Song Hao uy quyền quán thế". " Cự Cơ đồng lâm công khanh chi vị". Tiền nhân khi lưu lại các câu phú có nhiều trường hợp tổng hợp toàn bộ độ số của cách cục, người nghiên cứu tử vi nếu không suy xét cẩn trọng có thể gặp sai lầm khi định cách cục và tính chất của các tổ hợp Mệnh cách. 

0 comments: