Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Friday, July 28, 2017

Sao Phá Quân



Sao Phá Quân


Sao Phá Quân thuộc ngũ hành Thủy thuộc nhóm Sát Phá Tham. Phá Quân là chủ tinh đứng đầu nhóm sao này, tính chất cơ bản là khả năng tìm kiếm sâu về bản chất của vấn đề. Tuy nhiên khác với sự tìm kiếm của sao Cự Môn là chủ tinh nhóm Cự Nhật mang ý nghĩa của sự bất mãn mà tìm ra sâu sự thật bên trong công việc. Phá Quân là sao chủ tìm hiểu sâu về vấn đề theo khuynh hướng phá bỏ cái cũ, hay cách cục này đều mang lại khả năng lãnh đạo do hiểu biết về vấn đề và được tín nhiệm của hai sao này. Tuy nhiên xét về mặt khuyết điểm thì hai sao Cự Môn và Phá Quân đều mang khuyết điểm lớn hơn sao Tử Vi khi Cự Môn dễ chiêu lấy thị phi và bị xấu bởi chữ tai tiếng vì phản bội, tâm bất an vì Cự Môn hóa ra lo lắng do tính Ám. Với sao Phá Quân đứng đầu nhóm Sát Phá Tham thì khuyết điểm nặng do cách cục Sát Phá Tham mang tính sát phạt lớn. Phá Quân tính cương, chủ động hay ưa việc khám phá và trực tiếp công khai cái sai lầm của Tử Phủ Vũ Tướng Liêm. Với Phá Quân thủ mệnh quan trọng ở tính chất Chính hay Tà có liên hệ mật thiết tới thành bại của sao này. Vì sao Phá Quân bản thân đã đặt vào tình trạng luôn chứa chữ Sát, tính nguy hiểm cao hơn các cách cục khác đặc biệt khi bất hợp cách. Sao Phá Quân là hung tinh nên hoàn toàn có thể chế hóa Sát Tinh hóa thành Quyền lực. Một hình ảnh dễ thấy là cảnh sát công an có thể sử dụng tội phạm để phá án hay điều tra, luôn tiếp xúc với nguy hiểm là một mô tả của sao Phá Quân. Và Phá Quân cần thiết phải hợp cách và mang ý nghĩa Chính nếu không dễ bị phản cách cục hóa  bại cách. Cách cục này không phải mang ý nghĩa là Thiện mà chỉ cần thiết được sự ủng hộ quần chúng, nhưng nếu Phá Quân quan trọng sử dụng Sát Tinh nếu không cẩn thận gặp đại hạn xấu dẫn tới như cách cục ở bên cạnh hổ dữ, cận kề với nguy hiểm tuy nhiên tính chất bạo phát trở nên lớn hơn cách cục còn lại của Phá Quân. Sao Phá Quân có một biểu hiện của tính chất phá cách là chữ bất nghĩa, ở đây chính là biểu hiện của chữ gian tà. Do tính chất bản mệnh biến đổi theo chiều hướng này thường không có suy nghĩ tư tưởng lớn, thay vì khám phá về những sai lầm của sao Tử Vi để tạo ra một hướng đi tốt đẹp hơn thì Phá Quân cách cục này bị tác động lớn theo hướng tham muốn vật chất của Tham Lang và hành vi của Thất Sát và ý nghĩa của Phá Quân bây giờ là khám phá ra những sơ hở của người khác để trộm cắp, tức chủ nhìn thấy lợi ích trước mắt mà tham, không có được những phẩm chất xây dựng của Phá Quân đắc cách nên khó có được ủng hộ quần chúng dẫn tới cách cục phá cách hoàn toàn.




 Với cách cục này đa phần do môi trường sinh ra đã gặp phải hoàn cảnh bần cùng, nghèo sinh hèn và phần do cách cục của bản cung dẫn tới tai họa cướp của, giết người mà bản thân phải chịu họa sát thân. Hay việc tranh giành, gây thương tích. Với Phá Quân dạng này để hướng cách cục dụng Phá Quân thành tựu, tránh tai họa cần thiết phải thay đổi tính chất của sao Tham Lang và chuyển hướng Phá Quân thành chữ Quyền. Phá Quân phân rõ thành trường hợp cách cục Sát Phá Tham   đơn thủ đủ bộ và cách cục Sát Phá Tham giao hội với nhóm Tử Vũ Liêm. Với cách cục Sát Phá Tham đầy đủ sao Phá Quân hoàn toàn có tính chất cơ bản và đứng đầu nhóm sao này. Sát Phá Tham này đặc điểm quan trọng để thành cách cần sự trợ giúp của trung tinh và các sao chủ tình cảm để hình thành cách cục hy sinh vì lý tưởng cao đẹp, chủ yếu do phù hợp với đạo đức mà khiến sao Tử Vi đế tinh phải chịu thua trước Phá Quân. Đặc biệt khi Sát Phá Tham độc tọa quan trọng việc tinh hệ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm ở vị trí tốt xấu. Nếu nhóm sao này ở các vị trí xấu thì Phá Quân dễ được lệnh. Đặc biệt trong trường hợp Phá Quân cư Tí Ngọ có Tham Lang và Thất Sát ở vị trí hay. Nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm ở tinh hệ này cũng tốt đẹp đây là cách cục hay vì ở vị trí xung chiếu là xung đột giữa Tử Phủ Vũ Tướng Liêm nhưng đại hạn tới là hợp cách. Trường hợp Sát Phá Tham giao hội với Tử Vũ Liêm khiến tính Sát gia tăng do đây là cách cục mâu thuẫn tranh giành, ở cách cục này mệnh Phá Quân tăng tính bạo phát, cũng tăng tính phản kháng lại Tử Vũ Liêm. Mệnh tạo có Phá Quân ở cách cục này nên theo hướng biến động thất thường để dụng khả năng của Phá Quân nhìn sâu vào vấn đề. Tuy xung đột nhưng cũng là cách cũ tốt cho việc nghiên cứu về các lĩnh vực, thíc hợp cho khoa học biến tính chất của Thất Sát thành văn cách giảm tính Sát của toàn bộ cách cục.

Thursday, July 27, 2017

Sao Vũ Khúc



Sao Vũ Khúc


Sao Vũ Khúc thuộc hành Kim, nằm trong bộ Tử Vũ Liêm, khi có thêm Phủ Tướng hình thành đầy đủ nhóm  Tử Phủ Vũ Tướng Liêm. Cách cục Tử Vũ Liêm có tính chất tổ chức cao, thuộc cách phân công nhiệm vụ nên ý nghĩa hay hơn các cách cục khác và có tính chất ổn định. Sao Vũ Khúc là sao chủ hành động, cách thức hoạt động của nhóm Tử Vũ Liêm. Vũ Khúc do có tính Kim nên thường hàm chứa tính chất quyết đoán, tự chủ với bản thân, hành động có phương pháp. Vũ Khúc do tính chất như vậy nên có tính cô độc, dù các mối quan hệ rộng hay tốt đẹp. Xét về tính chất thì sao Vũ Khúc có tính Kim tương tự như Thất Sát, đều có tính chất hành động nhưng ở hai tinh hệ tư tưởng khác nhau. Với Vũ Khúc hành động dựa trên suy nghĩ kỹ càng, thiên về xét các tình huống khác với Thất Sát chủ tư tưởng hành sự mang tính bộc phát nhiều hơn tùy thuộc vào lòng tham, ham muốn của Tham Lang và tính động của Phá Quân. Sao Vũ Khúc thường được gọi là tài tinh vì tính chất hành động và do mang ý nghĩa giá trị của sao này. Vũ Khúc thủ mệnh dù cách cục tốt đẹp thường rơi vào tình trạng nóng vội muốn hoàn thành nhiệm vụ mà sinh ra sai lầm, yêu cầu bản thân cao, ít chịu việc khuất phục với người khác. Với cách cục Tử Vũ Liêm đi với Phủ Tướng thì sao Vũ Khúc có ý nghĩa hay hơn khi sự độc đoán chuyển thành tỉ mỉ quan sát. Vũ Khúc tương tự như Thất Sát cuộc đời dễ gặp nhiều cảnh thăng trầm, cũng gặp nhiều khó khăn phải vượt qua nên Vũ Khúc rất cần thiết có được cách cục ổn định tránh phù động để thành cách. Vũ Khúc đa phần sức hoạt động lớn, bản thân thường có năng lượng dồi dào, ưa nắm quyền hành. Tuy nhiên những tính chất như vậy không phải là đặc tính cơ bản và thay đổi tùy thuộc vào việc bàng tinh gia hội định nghĩa cho Vũ Khúc. Nhìn chung sao Vũ Khúc có đặc tính cơ bản là hành động, thực hiện nhiệm vụ cho nhóm Tử Vũ Liêm, đặc tính Kim đầy đủ. Vũ Khúc phân biệt rất rõ ràng tính chất khi ở trong hai bố cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm và Sát Phá Tham.




Khi ở trong tinh hệ Từ Phủ Vũ Tướng Liêm bộc lộ tính tài năng về khả năng mưu lược, phương án, kế sách vì sao Vũ Khúc duy nhất ở nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm mang ý nghĩa này. Bộ Phủ Tướng giao hội khiến Vũ Khúc sử dụng cả tình cảm lẫn suy diễn nên hoạt động trở nên kỹ lưỡng, không mang nhiều tính chất đột ngột. Vũ Khúc trong cách cục này tính ổn định cao, giảm khuyết điểm tính chất ban đầu của sao này. Sao Thiên Tướng trợ giúp Vũ Khúc ở các hành động. Thiên Tướng là sao chủ về sự tương trợ, khiến lý do của Vũ Khúc trở nên chính nghĩa và giảm tính Cô Kỵ của sao này. Điểm khác biệt dễ nhận ra ở Vũ Khúc trong nhóm Tử Phủ Vũ Tường Liêm và trong nhóm Sát Phá Tham là ở tính chất cô độc của nữ mệnh ở trong hai trường hợp này khác nhau do cách cục trên gây ra. Vũ Khúc chủ danh tiếng do tính chất trực tiếp thực hiện nhiệm vụ, lý tưởng. Ở cách cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm thì sao Vũ Khúc dễ có danh chức hơn nhờ vào khả năng làm việc so với cách cục Sát Phá Tham. Khi Vũ Khúc hay Tử Vũ Liên giao hội với nhóm Sát Phá Tham thì sao này khuyết điểm rất lớn trong cách cục này do tính ổn định và khả năng thực hiện nhiệm vụ do lý tưởng của Tử Vi và Phá Quân hoàn toàn khác nhau. Thường khi luận số người luận sẽ lấy ngay một cách cục riêng là Sát Phá Tham hoặc Tử Vũ Liêm mà đương số chịu ảnh hưởng hơn để luận và lấy cách cục kia làm đối ngẫu để luận thay đổi tính chất bố cục ban đầu. Các cách cục Vũ Phá, Vũ Sát, Vũ Tham đều gây ra khuyết điểm về tính chất ổn định của Vũ Khúc, tăng cường tính hành động theo chiều hướng hoạch phát, bộc phát làm theo bản năng của sao này khiến Vũ Khúc tăng tính Cô Kỵ. Cách cục Vũ Tham là tốt hơn trong ba cách cục trên vì sao Vũ Khúc chủ hành động mà Thất Sát và Phá Quân có tính Sát dễ dẫn tới tai họa khi đồng độ đặc biệt khi giao hội Sát Tinh, cần thiết có Văn Tinh giảm cách cục thành Văn Cách. Với cách cục Vũ Tham chủ hành động đi liền với ham muốn và sao Tham Lang cũng có tính chất vạch hướng, cân nhắc thiệt hơn nên được gọi là sao chủ Thọ. Nếu mệnh tạo gặp bộ Vũ Sát hay Vũ Phá cần thiết tránh các cách cục Sát Tinh trùng phùng như Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp Kỵ Hình và cần thiết gặp Xương Khúc Tam Hóa Tả Hữu. Nếu có Khôi Việt tối kỵ thêm Hinh và Linh Hỏa.

Tuesday, July 25, 2017

Sao Thất Sát



Sao Thất Sát



Sao Thất Sát thuộc cách cục Sát Phá Tham. Ngũ hành biểu hiện tính chất sao thuộc Kim, chủ cương cường, nhạy bén. Thất Sát thủ mệnh cuộc đời gắn với chữ Sát, các sách đều ghi lại sao Thất Sát là hung tinh, chủ được ngắn không được dài lâu, cuộc đời thăng trầm, gặp nhiều khó khăn áp lực trong cuộc sống nên thiếu niên gian khổ, khi trưởng thành nếu Mệnh Thân đồng cung thì cuộc đời do chính bản thân mình định hướng, làm chủ toàn cục. Thất Sát là sao chủ hành động của nhóm Sát Phá Tham, cũn như Vũ Khúc của nhóm Tử Vũ Liêm. Sao này bản chất dễ biến đổi theo chiều hướng cực đoan. Thất Sát thực chất có hai chiều hướng rất rõ rệt trong mọi trường hợp và đều có khuyết điểm riêng của mỗi cách cục. Thứ nhất là tính chất chủ động của sao này, Thất Sát có tính chủ động thuộc dạng hóa Sát Tinh thành Quyền. Mệnh có Thất Sát dạng này không gặp nhiều khó khăn khi vận hạn biến chuyển nhưng tính bất ổn rất lớn, thuộc cách tai họa bất ngờ khi đại hạn xấu. Thất Sát cư Mệnh dạng này thường giỏi việc gây áp lực, trấn áp kẻ khác bằng hành động. Có tính chất nghiêm nghị, tính cương có sát tính, thuộc cách cao ngạo và giỏi việc lấn lướt với kẻ khác. Đây là Thất Sát đắc cách có khả năng thành tựu trong gian khổ, tuy gặp phải hoạch phát hoạch phá không bền và đặc biệt nếu cách cục thuần Sát thì ngay khi nhập hạn xấu vong mạng. Rất nhiều lá số thành danh mệnh có sao này mà phải căm hận vong mạng khi đang ở vị trí cao nhất. Trường hợp này Thất Sát nhấn mạnh về hành động tức theo võ cách. Phân biệt cách cục này khi nhìn thấy tụ hội Sát Tinh phù trợ cho Thất Sát và đặc biệt cách cục tùy vào việc bị phá cách bởi Kỵ Hình, Không Kiếp, Việt Linh Hinh, Hỏa Kình Hao,...Mà độ số thay đổi. Trường hợp Thất Sát này mệnh tạo luôn ở trong trạng thái cân bằng lực lượng lớn của Sát Tinh, tính chất dễ mất cân bằng và nếu gặp hạn xấu tai họa đến rất nhanh. Thực tế bên ngoài xã hội ta cũng hay gặp những kẻ giang hồ khi bạo phát thì lên rất nhanh, khi gặp hạn thì khó giữ mạng sống là một trường hợp mô tả cho cách cục này. Thất Sát cách cục ở thuộc Võ Cách. Cần thiết của cách cục này là giảm tính Sát và tính bất thường khi cân bằng Sát Tinh ở mức độ nguy hiểm dễ xảy ra mất cân bằng bằng các Trợ Tinh mạnh như Hóa Khoa, Hóa Quyền, Tả Hữu, Xương Khúc. Với trường hợp còn lại khi Thất Sát thủ mệnh là cách cục thuộc văn cách của sao này. Sao Thất Sát trường hợp này cần thiết tránh Sát Tinh có tính chủ động, tấn công như Kình Dương, Địa Kiếp, Hỏa Tinh, Kỵ Hình. Cách cục này sao Thất Sát ở vị trí bị động, tính ôn định cao vì vậy ít gặp tai họa khi tới đại hạn xấu. Khuyết điểm là bản thân sao Thất Sát do có tính bị động nhưng chữ Sát không hóa Quyền mà hóa thành cách cục hiểu biết, tinh tường.





Sao Thất Sát khi trường hợp biến chuyển theo chiều hướng Văn Cách thì tính chất hiểu biết tăng mạnh, thuộc cách cục khám phá, nghiên cứu các vấn đề để tìm ra giải pháp. Thất Sát này thường theo con đường học vấn, tính bình ổn, chuyên môn lớn nhưng dễ chịu cảnh bị áp lực hay áp đặt từ người khác, tức bản thân là người chịu chữ Sát, mang tính bị động với Sát Tinh. Sao Thấy Sát thuộc văn cách không gặp phải tai họa khó khăn trùng trùng khi cách cục Sát Phá Tham giao hội với bộ Tử Vũ Liêm hình thành bố cục xung đột. Thất Sát thủ mệnh khi luận giải cần lưu ý tới tính chất hành động của sao này. Khi ngộ Kỵ Hình là chủ các hành vi đều hàm chứa tính vi phạm hình pháp, đặc biệt do tính chất của Thất Sát hàm chứa chữ Sát nên dễ phải gặp cảnh nhẹ thì gây thương tích cho người, chèn ép kẻ khác, hoặc chính bản thân bị, nặng thì có họa vong thân. Trường hợp này thường gặp khi sao Thất Sát theo hướng dụng Sát Tinh, nếu theo văn cách tai họa không lớn, đặc biệt là khi có Hóa Khoa. Thất Sát mệnh tốt là khi đương số không phải trải qua tân khổ mà vẫn hưởng lợi của sao này. Các trường hợp xấu khi Thất Sát ngộ Sát Tinh đắc cách không nên sử dụng chữ Sát vào các nghề nghiệp liên quan tới cách cục này và có vật dụng kim khí gây thương tích mà nên theo công việc nghiên cứu, phân tích hay liên quan tới chế tạo kim khí, điện tử dễ được hoạch phát mà dụng được Sát Tinh không tác họa lớn. Một Thất Sát theo nghiệp võ dụng được Sát Tinh thành tựu tiền nhân thường luận phải cả vạn Thất Sát bình thường phải vong mạng. Vì vậy khi Thất Sát  trong thời buổi ngày nay nên dụng văn tinh để tránh cách cục xấu cho bản thân. Sao Thất Sát tốt luôn cần đủ ba chữ để thành công gồm chữ Trí, Dũng và Nghĩa là điều kiện để dụng được Sát Tinh tức hóa Sát vi Quyền. Cả vạn Thất Sát mới có một mệnh tạo dụng được Sát hoàn toàn, vì cần thiết nhất giỏi việc đối nhân xử thế, giỏi huy động bằng tình cảm tới kẻ khác. Nếu đắc cách thì tính hoạch phát của sao này rất lớn. Mệnh vua Quang Trung là mệnh Thất Sát cũng khá hợp cách, chỉ ở mức độ tốt về công danh nhưng xấu về chữ Thọ vẫn bị họa sát thân. Trong lá số Tử Vi, các sao Kình Đà, Hỏa Linh, Không Kiếp được mô tả là Sát Tinh tuy nhiên tính chất đầy đủ nhất của chữ Sát là sao Thất Sát. Vì vậy khi luận mệnh Thất Sát cần nhìn rõ hai chiều hướng đi của sao này để tránh võ luận đặc biệt với cách sao Thất Sát cư cung an Thân nhiều trường hợp đắc cách không cấu nhưng lắm kẻ luận là mệnh yểu theo câu phú " Thất Sát lâm Thân chung thị yểu". Luận tử vi quan trọng nhất ở tính chính xác, không phải luận ở mức độ chi tiết hay bao quát vì một người các môn như Quỷ Cốc Toán Mệnh thậm chí chỉ ở trong một bài thơ. Những thứ quan trọn nhất là Danh, Tài, Thọ cần thiết nhìn được tổng quát toàn cục số, không phải nhìn mệnh là ra được mà cần xét cả 12 cung do lá số Tử Vi luôn chuyển động.

Sao Cự Môn và đại hạn Sát Phá Tham




Sao Cự Môn và đại hạn Sát Phá Tham



Sao Cự Môn thuộc ngũ hành Thủy, hóa khí là Ám Tinh chủ luôn có tâm trạng mang tính Âm, khi đi với Thái Dương thì Âm Dương đầy đủ nhưng khí Ám không mất đi, khiến cách cục Cự Nhật trừ trường Thái Dương đồng độ với Cự Môn là tốt đẹp còn lại các cách cục khác, đặc biệt là khi Dương nhập vị trí tối tăm, khiến cách cục Cự Nhật trở thành cách cục thị phi và chữ Ám của Cự Môn rất lớn. Cự Nhật là cách cục chủ bản thân luôn có một sự bất mãn, nếu Sát Tinh hóa vi Quyền thì Cự Môn tính Ám trở thành Quyền Ẩn, tức Quyền Ngầm có tác động rất tốt giảm thị phi cho cách Cự Nhật và Cự Môn khi tính Ám đắc dụng thì Cự trở thành kẻ tài năng và luôn cảm thấy bất mãn với cuộc đời. Cự Môn khi đi với Cơ Đồng trái lại hình thành cách Cự Cơ Đồng tính xung đột trong cách cục khá lớn, tuy nhiên nếu mệnh là sao Cự Môn thì được hưởng lợi vì đây là cách cục chủ tính Ám thường hóa thành chữ Quyền do Cự Môn trở thành ngôi sao đứng đầu, lãnh đạo nhóm Cơ Đồng trong cách cục này. Cự Môn rất giỏi trong việc sử dụng ngôn ngữ để khích động hay cổ vũ làm theo ngôi sao này. Đây là ngôi sao thành do cái miệng và bại cũng do cái miệng mà ra. Cự Môn tùy các trường hợp đồng cung với các Chính Tinh mà phối hợp ý nghĩa khác nhau. Trong đó xung đột lớn nhất là cách Cự Đồng cư Sửu Mùi. Cách thứ hai mà Cự Môn có thể đồng độ là Cự Cơ Mão Dậu, cách cục này hay hơn khi có Phá Quân nhị hợp với Thiên Cơ và bản thân Cự Môn ngộ Thiên Cơ chủ cơ hội và việc nắm bắt được, Cự Môn là ngôi sao chủ phản đối nên cần thiết  một ngôi sao lý luận, chủ đưa ra các câu hỏi, thắc mắc là sao Thiên Cơ để cách cục không bị đẩy cao về căng thẳng và khi đó Cự Môn dễ mang lấy thị phi mà cách Cự Cơ thường được luận theo ý tốt. Trường hợp thứ ba sao Cự Môn có thể đồng cung là cách Cự Nhật cư Dần Thân. Với cách cũ này ngôi sao Cự Môn được hưởng lợi lớn từ Thái Dương, cách cục này có dương tính lớn. Cự Môn và Thái Dương đều là hai sao táo bạo. Các trường hợp có Cự Môn đồng cung với một chính tinh đặc biệt là đồng cư với sao Thiên Cơ khi đó Phá Quân ở ngay tại vị trí cung Nhị Hợp hạn tới ngôi sao này mang ý nghĩa có phần khác. Sao Cự Môn ở cách Cự Nhật, Cự Đồng và Cự Cơ khi tới đại hạn Sát Phá Tham tính chất khác so với Cự Môn đơn thủ ở điểm sự tác động của cách cục Sát Phá Tham tới mệnh tạo khiến mệnh tạo chịu tác động lớn hơn. Như cách Cự Nhật hạn tới Sát Phá Tham luận theo cả hai sao phối hợp là cách Khởi tạo, Khởi phát. Cách cục này có tính bạo phát, Cự Nhật trong trường hợp này ngộ Phá Quân khá hay vì ở cung độ Cự Nhật đầy đủ nhóm sao, ý nghĩa của nhóm này luôn xung chiếu với Cơ Nguyệt Đồng Lương và chủ có khuynh hướng đứng đầu, tại ngay bản cung thì cung độ của Sát Phá Tham giao hội với Tử Vũ Liêm tạo thành cách Tử Sát, Liêm Phá, Vũ Tham. Mệnh tạo có thể đi tới cung độ Tử Sát hoặc cung độ Vũ Tham. Khi tới cung độ Tử Sát cả ba sao đứng đầu đều giao hội tại đây, thế của sao Tử Vi không lớn do Tử Vũ Liêm đi với Sát Phá Tham và Phá Quân đi với Liêm Trinh khiến Cự Nhật đắc cách làm chủ cách cục này, bằng cách phản đối và luôn tương trợ với Phá Quân nên đại hạn này tốt cho việc đề xuất thay đổi, thành lập hay mở rộng trong trường hợp Cự Nhật kinh thương. Trong trường hợp theo khuynh hướng công danh, quan lộc thì cách này dựa trên sự rối ren mà thành một phe. Trường hợp kế đến là việc Cự Cơ cư Mão Dậu tới đại hạn Sát Phá Tham. Có thể đi qua hạn Tham Lang hoặc đại hạn Thất Sát.





Ở đây cách cục Sát Phá Tham đầy đủ và cách cục Cự Nhật khuyết thiếu khi Cự Môn giao hội với Cơ Đồng. Cách cục này mang ý nghĩa ban đầu là mâu thuẫn của bộ Cự Cơ Đồng, khi nhập đại hạn Sát Phá Tham cái mâu thuẫn, xung đột đẩy mạnh hơn. Cự Môn tính lãnh đạo lớn do gặp bộ Cơ Đồng hiền hòa, trong trường hợp này do Cự có tài ăn nói và phản bác tranh luận tìm ra cái sai sót để sửa chữa. Cự Môn đưa ra bất mãn khi một hành động khởi lên, phản đối và tạo nên một ý kiến mới, thường là hướng đi khác, vị trí đứng đầu trong cách cục này do tính chất đột phá mang lại. Khi đáo hạn cung độ Sát Phá Tham thì Cự Môn khi đi với Thất Sát dễ thành thất vọng, lại có Thiên Cơ chủ suy nghĩ rất kỵ gặp Hỏa Linh, nếu có thì Cự Môn trở nên phù động mà gây ra quyết định sai lầm. Nhìn chung cách cục Cự Cơ Đồng tới đại hạn Sát Phá Tham dễ gây nên khủng hoảng cho Cự, đặc biệt với cách Cự Cơ mão dậu khi Thiên Cơ đi với Cự Môn không dụng được sát tinh, tính cát hóa yếu. Với Cự Môn đồng độ với Thiên Đồng hình thành cách Cự Đồng cư Sửu Mùi, cách cục này và Sát Phá Tham đều ở nơi hãm vì Tử Vi đầy đủ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm và cách vị trí Vũ Tướng và Liêm Phủ đồng cư tăng tính chất ổn định cho nhóm sao này khiến Cự Phá không gây ra tác động lớn cho cách cục.Như việc làm hoàn chỉnh không có lỗi khiến Cự Môn không thể chỉ ra lỗi và Phá Quân không thể tìm ra những sai lầm để phá. Tử Phủ Vũ Tướng Liêm trong tinh hệ Tử Vi tí ngọ, đặc biệt là Tử Vi cư Ngọ rất hoàn chỉnh, tùy vào bàng tinh quyết định mức độ mà ở vị trí đứng đầu tổ chức lớn hay nhỏ, đi liền với tổ chức đó,  lớn nhất là triều đình thời xưa và nhà nước ngày nay thì Cự Môn và Phá Quân cũng tương đương với vị trí như vậy. Nhiều người nhìn mệnh có cách Phá Quân cư Dần Thân hay Cự Đồng cư Sửu Mùi cách cục xấu luận lá số tầm thường là sai với bản chất. Cách Cự Đồng này tuy đứng ở vị trí thấp trong khi Tử Vi ở vị trí cao nhưng rất dễ gây ra phản vi kỳ cách khi chế hóa được Sát Tinh hóa Quyền. Cung hạn từ mệnh Cự Môn tới đại hạn của sao Phá Quân có thể phân biệt rõ rệt hai cách cục là Cự Môn đơn thủ và Cự Môn có chính tinh đồng độ. Với cách Cự Môn đơn thủ thì phân làm hai cách cục đi với Thái Dương thành bộ Cự Nhật và đi với Đồng Cơ thành bộ Cự Cơ Đồng. Sao Cự Môn đơn thủ khi luận đại hạn tới cung độ Sát Phá Tham cần lưu ý việc tính chất của Cự Môn độc toạ hoàn toàn không chịu tác động của chính tinh đồng cung nên ở đây luận theo tính chất cơ bản. Trường hợp Cự Môn đơn thủ đi tới hạn Sát Phá Tham khả năng hoạch phát lớn, khả năng chế hóa Sát Tinh lớn, đặc biệt khi Cự gặp Không Kiếp. Cự Môn thủ mệnh tới đại hạn Sát Phá Tham là đại hạn quan trọng cần lưu tâm khi luận đoán mệnh. Đặc biệt cần nắm rõ bố cục của tinh hệ Cự Môn tác động gồm Cự Nhật, Cơ Nguyệt Đồng Lương. Tinh hệ Tử Vi gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm và Tinh hệ của Phá Quân. Cự gặp Phá là đồng minh, là khai sáng một ý tưởng mới, tính chuyển động tăng nên thích hợp với Cự Cơ Đồng hơn bộ Cự Nhật. Nếu trong trường hợp Cự gặp Phá có Lộc Tồn là trường hợp không hay, cần trọng giữa chữ Giữ và Buông.

Thursday, July 20, 2017

Những thứ bí mật được cất giấu




Những thứ bí mật được cất giấu



Trong cái cuộc sống mà người đang sống có rất nhiều bí mật được cất giấu. Đây là phần Âm ẩn chứa trong thuyết Âm Dương nhị nguyên. Rất nhiều những điều xung quanh xảy ra khiến chúng ta không hiểu và ngay cả người có tâm lý vững chắc nhất vẫn phải lung lay về trực giác. Cái mở ra, đã biết, thấy rõ là phần Dương có đặc tính hướng trên, khai mở, rõ ràng. Cái chôn dấu, khó biết, mơ hồ là phần Âm có đặc tính hướng xuống, ẩn tàn, hư ảo. Thực chất Âm Dương luôn biến đổi cho nhau ở mọi vật. Vì vậy với thuyết Âm Dương đặc trưng cho sự cơ bản mà tiền nhân đã nhìn  ra một phần rất khó hiểu của những quy luật. Thường thì chia phần Phương Đông và Phương Tây trên thế giới thì Phương Đông hầu hết gắn với những thứ huyền bí, ẩn tàng. Phương Tây thì gắn với khoa học, thực nghiệm. Tuy nhiên có những việc mà trước nay không đổi trong quá trình phát triển là các thần thoại, truyền thuyết bí ẩn, bí mật ẩn dấu, những năng lực luôn hiện lên ở tất cả mọi nơi. Luôn tồn tại những bí ẩn và những thứ được phô bày ra không phải là tất cả sự thật. Bộ Âm Dương trong môn Tử Vi luận là Mặt Trời và Mặt Trăng là sai lầm mà chỉ là lấy tượng của Nhật Nguyệt để thể hiện tính cách. Trong bộ Nhật Nguyệt ngoài thực thì Thái Âm tức mặt trăng có tính Âm nhu, lấy khí của Mặt Trời để phát sáng. Thái Dương khí vượng tính chất soi sáng, hiển hiện, công khai. Bản chất của Thái Dương là tự phát sáng, bản chất của Thái Âm là ẩn tàng và được chiếu sáng. Ngay cả thời cổ nước Trung Quốc với câu " Trên thông thiên văn, dưới tường địa lý" nhưng thực chất vẫn nhầm lẫn việc Trời Tròn Đất Vuông và đến tận thời điểm gần đây vẫn còn nhiều người tin rằng Trái Đất là hình vuông. Việc Trái Đất là trung tâm của vũ trụ là việc coi là hiển nhiên đến mức mà Galileo suýt thì bị treo cổ và cuối cùng bị quản thúc. Tuy nhiên ở thời nay thì chuyện Trái Đất là hình cầu là chuyện hiển nhiên đến đứa trẻ cũng biết. Như vậy chữ Âm Dương biến đổi liên tục, liên tục chuyển động mà sinh ra vạn vật của tiền nhân không sai. Tùy vào sự nhập tâm vào khám phá một vấn đề như khoa học hay tâm linh mà sẽ đưa ra những thành tựu không ngờ. Và xét về việc tự khám phá chính bản thân mình, tức từ câu hỏi đơn giản của tiền nhân là tại sao cơ thể của tôi mà đến thứ bên trong cơ thể là gì cũng không biết, và cũng không điều khiển được tất cả bộ phận mà như một sự sắp đặt tự động, cơ thể tự vận động để sống và cuối cùng cũng để chết. Từ việc khám phá ra bên ngoài xã hội thì người Phương Đông đi ngược lại khám phá bản thân và thành tựu đạt được cũng không hề nhỏ. Cái gọi là cảm nhận, làm chủ chính bản thân là không tồn tại. Trái với tôn giáo của Phương Tây chủ niềm tin vào thượng đế bên ngoài thì ở Phương Đông chủ tìm cách hiểu thật sự nguồn gốc của con người bằng nhìn vào bên trong, phân chia bản thân bằng Thân và Tâm. Ở đây Tâm là cái tư duy, linh hồn, có khả lưu nhớ lại những việc đã làm gọi là Thức. Việc của Thân tức thân thể thực chất biến đổi dựa trên Tâm, tùy vào môi trường mà Thân và Tâm biến đổi liên tục lẫn nhau. Tiền nhân cũng khám phá ra việc " Thận tàng tinh và Can tàng hồn".




Sách cổ ghi lại rằng việc nhận thức một tư tưởng của một loại không thể áp dụng vào nhau, mà có cái dị biệt khiến súc sinh không thể có đủ các luồng tư tưởng như con người, và tiếp theo việc nhìn thấy dần dần những con vật biến đổi về hình dạng như chó, mèo qua nhiều đời khiến tiền nhân nhìn ra việc con vật tuy vào hoàn cảnh tư tưởng biến đổi dẫn tới hình dáng biến đổi. Vì vậy, nên từ xưa đã có câu " Vạn pháp do tâm tạo" và " Hữu tâm vô tướng tướng tùng tâm sinh, hữu tướng vô tâm tướng tùng tâm diệt". Cái hình dạng cũng không dùng để nhận biết các sinh vật mà nhìn vào tâm. Như việc nếu một người sinh ra trẻ con nuôi lớn lên các giác quan đều hư hỏng, trường hợp nghiệm lý được là mắt, tai hỏng khiến nhận thức, tức Thức Ấm không được hoàn thiện thì không khác loài súc sinh. Ngược lại súc sinh như con chó từ nhỏ được dạy bảo, được trung thành hay các phẩm chất tốt đẹp thì luận có hành ấm như người. Phương tây hiện đại cũng nhìn ra được sau khi tình cờ phát hiện ra các trường hợp thuở mới sinh bị lạc trong rừng và được động vật nuôi thì những đứa trẻ ấy lớn lên hành xử như động vật, não bộ không phát triển để nhận thức xã hội mà để tìm cách bắt mồi như Amala và Kamala ở Ấn Độ hay nhiều trường hợp khác. Vì vậy việc nhận thức được gọi là Thức Ấm tồn tại ở dạng Không, bị trói buộc vào Thân và từ đó phát triển theo Hành ấm của loại. Trong Tử Vi hay tất cả môn toán mệnh khác đều được tiền nhân nhận ra và chia làm Mệnh và Thân hoàn toàn khác nhau. Cũng vì lý do này mà cổ nhân khi xưa tự khám phá ngược vào trong, chủ yếu bằng phương pháp định tâm nhận ra nếu tư tưởng nhập tâm và treo ở trạng thái Không, tức trạng thái ban đầu của Thức và hướng tới  sự kỳ lạ thì có thể tạo ra được những năng lực lạ. Việc ưu tiên khám phá ngược lại bản thân còn lưu giữ lại bằng chứng việc các ghi chép về tâm thức hay những biến chuyển của tâm thức hoặc các cách tự tìm ngược lại tâm thức chỉ có ở Châu Á mà không thể tìm ở nơi khác. Cái mà thiền định để tu tập tâm thức cũng là một phát triển hướng về bên trong khác các ngành khoa học. Ở một nơi bộ tộc cách biệt còn sót lại hiện nay sẽ không có khoa học ở đó vì không tập trung phát triển. Cũng như vậy ở tại Châu Á việc tập trung phát triển tự khám phá cái bên trong khiến các hiện tượng lạ về tâm linh hầu hết trên thế giới đều ở đây. Việc các nhà sư tây tạng hay việc vong nhập, sự kỳ lạ của cô Hoàng Thị Thiêm được chứng nhận, cậu bé đầu thai ở Vụ Bản, ở thế giới khắp nơi đều tìm thấy bằng chứng khoảng hơn 3000 người có nhân chứng . Đặc biệt vùng Hòa Bình có nhiều chuyện lạ. Tuy nhiên chúng ta nên kiểm nghiệm bằng việc trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một sờ. Đến ngay cái Tử Vi ban đầu người viết cũng không tin về có môn toán mệnh này, cũng không tin việc dự đoán bằng yếu tố giờ tháng năm sinh nhìn ra được các sự kiện của đời người. Một thời gian dài trong lịch sử Từ Vi cũng không được truyền ra ngoài. Sau khi nghiên cứu và cũng được truyền dạy từ tiền nhân, người viết cũng thường nói những bạn nghi ngờ hay chưa tin về tử vi tự học nghiên cứu vì để nhin thấy Tử Vi đúng thì không cần quá nhiều tâm sức, tự xem và đưa ra chứng nghiệm cho bản thân về môn toán mệnh có vẻ vô lý. Không ngẫu nhiên mà một môn huyền học tồn tại rất lâu và kiểm chứng rất lâu mà không hề bị diệt vì nhận thức đúng sai của nhiều người thường cao. Một điểm rất lý thú là trong Tử Vi khi nghiên cứu lâu năm sẽ nhận ra là vòng Tái Sinh và Nhân Quả luôn hiện hữu trên lá số tử vi. Những chuyện kỳ lạ, phi thường liên quan tới tâm linh cũng có. Và nếu xem thấy môn tử vi đúng thì vòng trên cũng đúng. Chữ Tuyệt không phải là kết thúc là nơi chuyển tiếp chữ Thai trong một Vòng Trường Sinh. Chữ Âm bí mật, như việc trái đất hình cầu trở nên hiển nhiên khi mọi người đều thấy thì biến thành Dương đúng với cả khi nghiệm tử vi. Và nghi ngờ khi không rõ là đúng vì chữ lừa đảo, nói sai sự thật vì mục đích cũng xuất hiện rõ trên tử vi. Và quan trọng hơn, chữ Tâm, thực chất nghĩa chỉ là sự chú ý. Khi ta nhìn vào dòng người, lập tức sẽ chú tâm vào một người do khởi lên một ý nghĩ, hình tượng tức Tưởng liên quan từ trước. Cũng như việc nhiều khi mắt ta dù đang nhìn nhưng không sử dụng khi chú tâm tức chú ý vào một suy nghĩ, chú ý nghe tiếng nói mà quan tâm. Cuộc đời chữ Tưởng khởi lên khi nhìn quả chanh ta nhận thức được và vọng trong đầu từ Chanh, chữ Tưởng đi với Hành đi với Thức không rời. Cuộc đời sinh ra khi đó Tâm trụ ở Không, lớn lên trụ ở Hành, tức hành vi như biết ăn, biết mặc, biết nói dối, biết phân biệt, sau này về già trụ ở Tưởng tức ngồi lên xe đạp là tự động biết đi không như lần đầu phải chịu ngã, sau này vừa đi vừa nói chuyện vừa nhìn đường,  ăn tự động biết cầm đũa, già rồi suy nghĩ tưởng nhớ tới thời xưa, thời trẻ nhiệt huyết cuối cùng lại trụ Tâm về chữ Không tức già lú lẫn, rồi cuối cùng chết, không chịu ràng buộc bởi cơ thể, trụ vào Không, kế đó lại do hành và tưởng lại nối tiếp trụ vào Không ở sinh rồi lại lớn lên. Như vậy là Vòng Trường Sinh trong Tử Vi, rất đơn giản tử vi ứng dụng thực tế.

Wednesday, July 19, 2017

Tính chất bố cục tổ hợp của sao Thiên Cơ




Tính chất bố cục tổ hợp của sao Thiên Cơ




Sao Thiên Cơ thuộc nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương, luôn đi với Thiên Đồng hình thành cách Cơ Đồng có thể phối hợp bới bộ Âm Lương hoặc Cự Môn hình thành cách cục Cự Cơ Đồng và Cơ Nguyệt Đồng Lương hoàn toàn khác nhau về tính chất của mỗi cách cục. Bộ Cự Cơ Đồng luôn có tính xung đột ngay trong chính bố cục, tức việc có cách cục này không có sự êm đềm mà dễ gặp phải chia rẽ trong nội bộ bởi lợi ích chung và lợi ích từng cá nhân. Sao Thiên Cơ ở đây do ý nghĩa là suy tính nên có tính chất thực dụng với bản thân, sao Thiên Đồng là tập thể, xã hội, số đông nên ở đây có sự mâu thuẫn về lợi ích, sao Cự Môn có tính Ám khiến cách cục này thường do Cự Môn đứng đầu. Ở cách Cự Cơ Đồng thì Thiên Cơ đi với Cự Môn tốt đẹp hơn Thiên Đồng đi với Cự Môn vì cách Cự Cơ giỏi việc sử dụng ngôn ngữ hay cái miệng để tạo lợi ích cho bản thân, tạo tiếng nói cho bản thân và cũng có khuynh hướng rất giỏi một lĩnh vực khiến tính thị phi của Cự Môn giảm thiểu thấp. Cách Cự Cơ thường hay nghe trong kinh thương  đa phần nếu tồn tại thêm bộ Kình Hao hay Đà Hao tức gặp Song Hao khiến Cơ Phá có Cự tăng tính trao đổi, chuyển dịch vì vậy lợi cho việc sử dụng đồng tiền liên tục. Trái lại nếu thuộc cách Cự Cơ thêm Khoa Quyền hay Văn Tinh đa phần theo con đường học vấn, học vị là đúng hướng vì Cự Môn và Thiên Cơ có khuynh hướng nghi ngờ, cách Cự Cơ cũng ưa khám phá, có tính chuyên sâu của một lĩnh vực. Đa phần các lá số đắc cách người viết luận về Cự Cơ thường theo con đường học vị, một số có Song Hao phải đại hạn đi thuận tới Tham Lang cần gặp Hỏa Linh, đặc biệt Hỏa Tinh đồng độ thì theo đường kinh thương. Thiên Cơ đặc biệt kỵ gặp Hỏa Linh trong mọi trường hợp, nếu có thêm Kỵ Hình sát tinh ngay chỉ ở cung độ đại hạn cũng thuộc cách tâm trí đầu óc gặp vấn đề, nặng thì có khuynh hướng loạn động. Cự Cơ Đồng tính động cao khác với các sao có tính ổn định không ngại kiến Sát Tinh hoặc dụng được Sát Tinh như cách Sát Phá Tham. Trong trường hợp này nếu gặp phải Kỵ Hình không xấu bằng Hỏa Linh, đặc biệt nếu có cách Việt Linh Hình Kỵ ngộ Thiên Cơ thì não bộ thường bị tổn thương do áp lực, hay căng thẳng thần kinh rất hay gặp, có một số trường hợp bị động kinh. Với Cự Cơ Đồng khi ở vị trí Cự Đồng tam hợp có Thiên Cơ nếu sao Thiên Cơ thủ mệnh thì đây là cách cục liên quan tới bất mãn ở số đông, sao Thiên Cơ lúc này không hay khi Cự Đồng gây rối loạn lớn, thường dễ lộ ở tính lợi ích nếu Thiên Cơ ngộ Triệt. Bố cục Cự Cơ Đồng với Thiên Cơ độc tọa và Cự Đồng đồng cư là cách cục mâu thuẫn lớn, là cách cục không hay. Trong trường hợp Cơ Đồng đi với Âm Lương hình thảnh nhóm sao Cơ Nguyệt Đồng Lương nhấn mạnh ở tính âm nhu, hiền lương. Thiên Cơ trong bố cục này được hưởng lợi ở phần tinh thần, cách cục này chứa nhiều may mắn và không gặp Cự Môn gây mâu thuẫn mà gặp bộ Âm Lương hiền lành khiến bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương có tính chất an phận, hưởng thụ cuộc sống, may mắn. Ở đây bản thân không cảm thấy bất mãn mà thường nhìn cuộc sống thoáng. Thay vì bản thân đang ở mức dưới rất nhiều người, ở mức trung lưu với Cự Cơ Đồng có tính vươn lên lớn thì cách Cơ Nguyệt Đồng Lương nhìn xuống phía dưới thấy bản thân mình còn may mắn hơn nhiều người. Ở đây xét về các mặt cơ bản là phần công danh và tinh thần thì được phần tinh thần an ổn, cuộc sống không gặp nhiều khó khăn ngay cả khi không dư dả, trong khi đi với Cự Môn dù được chữ Phú nhưng vẫn luôn tồn tại bất mãn khi nhìn lên và cố gắng lên tầng lớp cao hơn. Cách Cơ Nguyệt Đồng Lương xét về mặt tinh thần nếu trường hợp đắc cách thường tin tưởng việc thiện ác, nhân quả nên ít làm việc táo bạo hay việc tàn phá vì lợi ích nên khí Sát không tạo tác lớn dẫn tới ít phải gặp những tai họa lớn. Chính bản thân cũng tự thấy không mắc lỗi lầm mà có phần rộng lượng như Tử Phủ. Tuy nhiên khi Cơ Nguyệt Đồng Lương xấu gặp phải Sát Kỵ trùng phùng lại là cách chịu tai họa, xấu nhất là vong mạng vì tai họa do chữ Sát do kẻ khác gây ra cho bản thân.



Thiên Cơ về gặp Sát Tinh một số sách luận là hạng trộm cắp vặt là sai lầm. Thực chất sao Thiên Cơ khi phá cách không hoàn toàn do Sát Tinh, thuộc dạng kém trí tuế, mưu kế nhìn thấy lợi nhỏ mà lấy ngay bỏ qua cái lợi lớn. Sao Thiên Cơ ý nghĩa cơ bản là lợi ích tuy nhiên giữa việc đắc cach và phá cách hoàn toàn khác nhau. Đặc biệt khi nhìn bên ngoài người viết đã nghiệm lý các lá số đắc cách và phá cách của sao Thiên Cơ hay bộ Không Kiếp đều có một đặc điểm chung. Với bộ Không Kiếp phá cách cái xấu là kẻ nhìn thấy lợi nhỏ mà làm việc không suy nghĩ, thuộc hạng trộm cắp vặt, bất tín đều thuộc cách này. Với Không Kiếp này cũng như Thiên Cơ ở đặc tính lợi ích nhỏ, ngoài ra còn nhiều tính chất có thể xác định mệnh đắc cách hay phá cách của Không Kiếp sẽ luận ở bài của cặp sao này. Với Thiên Cơ đắc cách khá khó tuy nhiên dụng được thì tính hoạch phát lớn vì ngôi sao này liên quan tới cơ hội của bản thân cần nắm bắt. Cách Cự Cơ Đồng là cơ hội do khám phá, cơ hội ra trong cái khó khăn, khi mà Cự Môn hay bất mãn trong khi cơ hội của cách Cơ Nguyệt Đồng Lương liên quan nhiều tới may mắn xuất hiện đột ngột không mang tính khám phá của bản thân như thời cơ của Cự C
Cơ Đồng. Sao Thiên Cơ rất cần Hóa Khoa để thành cách, Hóa Khoa khiến sao này có khả năng hóa Sát thành Quyền. Ở cách cục Cơ Nguyệt Đồng Lương có tính chất ổn định tránh gặp các sao Không Kiếp, Kỵ Hình cần thiết gặp Lộc Tướng Ấn, Đào Hồng, Cô Quả, các sao không mang tính hoạch phát hoạch phá thì Song Lộc là cách hay nhất vì hàm ý giữ được sự bền vững lâu dài, cũng mang hàm ý thịnh vượng vì vậy Tử Phủ Vũ Tướng Liêm và Cơ Nguyệt Đồng Lương ưa cách này, hai nhóm sao Cự Nhật và Sát Phá Tham tính động lớn không nên gặp, đặc biệt là tránh việc Cự Phá đồng cung Lộc Tồn. Sao Thiên Cơ nhị hợp Phá Quân nên tính động khá lớn. Cách cục Cơ Kình Hao hay Cơ Đà Hao đều hay hơn trường hợp Thiên Cơ đi với Lộc Tồn đồng độ, đặc biệt là Cự Cơ Mão Dậu lại thêm Lộc Tồn. Sao Phá Quân và Thiên Cơ lợi ích với nhau, cũng là cách dùng mưu kế để tư lợi khác với Tử Vi bằng lý tưởng. Vì vậy, Phá Quân thường hay bị cổ nhân đánh giá là xấu khi thời phong kiến Tử Vi tức là vua hành động theo ý trời, tức Thiên Tử. Tất nhiên là khi xảy ra xung đột tức Sát Phá Tham đi với Tử Vũ Liêm thì kẻ thắng lại là vua, lại là Thiên Tử, cứ thế luôn dời đổi không ngừng. Thiên Cơ cũng chính là thời cơ như vậy.




Tuesday, July 18, 2017

Lá số khá hay về cách Dương Lương cư Dậu




Lá số khá hay về cách Dương Lương cư Dậu



Người viết không đăng lá số của mệnh Dương Lương lên vì cần bảo đảm thông tin cá nhân cho đương số. Mệnh tạo thuộc cách Dương Lương cư Dậu, có nghiên cứu ở môn Tử Vi và rất có duyên với tâm linh, huyền học. Mệnh và Cục bình hòa thuộc Mộc, lại thuộc Đại Lâm Mộc tức mệnh hoàn toàn chịu tác động bởi hành Mộc, nhìn ngũ hành mệnh để luận về sức tác động của các Chính Tinh trước tiên ở tam hợp Mệnh Tài Quan tới bản tính của đương số. Lưu ý tất cả các Chính Tinh nằm ở vị trí bản cung hay tam hợp đều có mức độ tác động tới tính cách, suy nghĩ của đương số và luôn ở thế động, thay đổi liên tục tùy môi trường, hoàn cảnh. Vì vậy khi xét tới phần luận giải cần nhẩm trong đầu về việc môi trường hoàn cảnh có bình thường và nhận thức có bị thay đổi lớn, ngoài ra còn cả hạn tác động khiến tính cách thay đổi, nhưng phần bản tính thì phát động ngay cả lúc vô thức và ở thế ẩn nên khó nhận ra hơn, cũng tác động ngầm tới mệnh tạo hơn. Ở đây sao Thiên Lương cư tại bản cung, thuộc cách Dương Lương lấy hai sao này làm nòng cốt để luận mệnh, do ở tại bản cung tuy nhiên sao Thiên Lương sẽ tác động lớn tới bản tính và với Thái Âm là sự tác động bên ngoài tới bên trong. Cách cục Âm Dương Lương toàn cục nhập hãm, vì vậy nhận định việc tinh thần hay có tính muộn trễ, sức phấn đấu và nhiệt tâm khi làm việc chưa cao, Âm Dương thịnh và suy được luận ở mức tinh thần là chủ yếu, kế đến là sự giao thiệp với xã hội bên ngoài, hay gọi là sự xã giao. Mệnh có cách cục Dương Lương gặp Lộc Tướng Ấn gia Đào Không Kiếp, ở đây may mắn là được Kiếp Triệt, vì vậy cách Lộc Tồn Không Kiếp không tác họa to lớn tới bản thân đương số . Tính cách của đương số thiên về ưa thích về nghệ thuật, quan hệ giao du là toàn cục Âm Dương Lương. Tính cách có phần hướng ngoại, tức thuộc khuynh hướng bộc lộ.  Cách Dương Lương chủ may mắn nhưng ở đây không mấy được may vì thuộc tuổi Mậu có nhiều bất lợi, lại gặp Đào Không Kiếp Lộc Tồn khiến khuyết điểm càng gia tăng. "“Dương cư Đoài Chấn lục Mậu, lục Giáp Phúc nan toàn”". Cách Dương Lương này có nhiều hướng đi và bạn chọn hướng y thì tránh được thứ liên quan tới bệnh tật, cuộc sống của bình yên hơn, nhưng khó dụng được bạo phát của Không Kiếp. Hầu hết đa số mệnh hoặc cung an Thân có sao Thiên Lương thường biết phần y học hơn người thường rất nhiều, tùy thuộc mà sẽ có người theo y hiện đại, gọi là y khoa học và phần y cổ truyền, sử dụng thuyết âm dương, y học tiền nhân thực nghiệm. Hai cách cục y học này hoàn toàn khác nhau về bản chất và cách cục của bàng tinh gia hội. Ở phần y học xưa thường có thêm tính chất khó hiểu, gọi là huyền bí hơn việc y khoa hiện đại. Hạn từ 13 tới 22 tuổi đại hạn này gặp nhiều khó khăn, đặc biệt liên quan tới tinh thần, ở cung độ Thất Sát chủ mất nhiều, đây cũng là hạn chuyển động gắn với mệnh tức bắt đầu mở rộng mạnh các mối quan hệ ra bên ngoài hơn. Mệnh Dương Lương kỵ tới cung hạn Sát Phá dễ bị chèn ép, khiến bản thân phải thay đổi để thích nghi. Tham gặp Kình Phượng Hình Lộc thì theo y khoa hợp lý, dễ kiếm được tiền và được danh tiếng đặc biệt trong đại hạn này. Thực chất do bản cung mệnh có cách Dương Lương gặp Đào Việt Triệt gia Không Kiếp Lộc nên hàm ý người đàn ông bị bệnh, bản thân mình không bị thì có thể người nhà mắc bệnh trong hạn này. Ngay đại hạn 23-32, cũng là giai đoạn khá khó khăn khi lại gặp Tuần tại đây. Thiên Cơ gặp Kỵ Phi Tuần gia Cự Đồng tại cung Mùi hạn này cũng gặp nhiều bất mãn, được Thanh Long đồng Cự Môn và là cách Cự Khôi Kỵ Tuần Hồng mọi việc làm đều mang tính quan trọng và tác dộng lớn, Thiên Cơ tại đây không hay, chủ suy nghĩ nhiều, tính toán nhiều nhưng khó thành công. Cách cục mệnh tạo tổ hợp cung trọng điểm tại Hợi Mão Mùi với Tuần Hồng Khôi Cự, tức tiểu hạn tới cung Tị Dậu Sửu nếu gốc đại hạn xấu thì tai họa lớn, đặc biệt tại năm Sửu.




Mệnh số ở đây có điều đặc biệt khi tới hạn Thiên Cơ này vì ở đây chứa cách Cơ Kỵ Khôi thêm Cự Môn là việc đương số năm 2011 tức năm Tân Mão bỗng bị bệnh liên quan tới tâm thần phải vào viện tâm thần chữa trị, ảnh hưởng rất lớn tới cục diện khiến cuộc đời rẽ sang hướng khác, bệnh viện không chữa được nên về nhà, sau đó tự nhiên tỉnh ra và mất 1 năm để bình phục, sau đó xin làm công chức ở địa phương. Lá số này cũng không phải mệnh quá xấu. Ở cung vị Thái Âm cư Tị có Cô Thần,  bản thân mệnh Âm Dương gặp Đào Triệt Không Kiếp có Lộc Tướng Ấn là thêm Cô Quả, hình thành cách Âm Lương ngộ Cô Quả dễ có lần gặp phải chuyện không ngờ tới liên quan tới sự lạ kỳ. Cách cục Thiên Cơ gặp Phi Kỵ Tuần ngay tại bản cung có Cự Khôi Thanh Quang Quý thuộc bố cục Cự Cơ Đồng có sao Thiên Cơ và Thiên Đồng là hai sao dễ bị ảnh hưởng bởi tác động của Hóa Kỵ. Ở đây do cách cục tốt nên Hóa Kỵ là Kỵ Khôi thành cách cục kỳ lạ. Cách cục Âm Dương ngộ Nhị Không nay lại thêm Tuần thành cách Tam Không tức chữ Vong hình thành cách cục đặc biệt. Thực chất ở tùy từng nơi có những hoàn cảnh chữ Không mà tương ứng với cách cục. Ở nước ta có chuyện tu đạo để lĩnh ngộ chữ Không, có việc xem các môn huyền học về cuộc đời của bản thân vì vậy Không Vong tác động không như những nơi không có thì đương số dễ rơi vào cái gọi là trầm cảm, chữ Không khiến cuộc đời không lối thoát mặc dù thực chất bản thân tức cung an Thân hay cung Hạn vẫn còn dấu hiệu sống. Qua nghiệm lý được các lá số nước ngoài thấy việc Tam Không khó có thể được dụng bởi những hoàn cảnh vốn có của môi trường, vì vậy rất khó khăn, thực tế có nhiều trường hợp phải vong mạng bởi chữ này. Đương số may mắn ở việc có khuynh hướng tu đạo theo chữ Không. Bộ Tam Không là bộ sao uy lực nhất trong Tử Vi, có thể biến những cái vô lý, dị biệt, khó hiểu thành sự thật. Người viết trước đây đã đưa một trường hợp một cao nhân thuộc khí công có khả năng rất đặc biệt, ông ta cũng hay nhắc tới không không có có, sinh sinh tử tử thực chất cũng là mệnh Thiên Lương gặp Tam Không. Lá số thành công đột biến tạo nên sự nghiệp lớn có Tam Không cũng ngày càng nhiều khi trên mạng dễ tìm thấy những thứ dụng được chữ Không, cũng sao Thiên Hư ngày nay mạng ảo dụng được sao này khiến một số Tang Hư Khách rất đắc chữ phú.

Monday, July 17, 2017

Tính Ám của Cự và chữ Phản





Tính Ám của Cự và chữ Phản



Trong lá số Tử Vi là xã hội ngoài cuộc sống thực, 14 chính tinh hóa hợp tất cả cách cục biểu hiện tất cả những gì diễn ra ngoài cuộc sống. Sao Tử Vi luôn có Cự Môn lục hội và khi Tử Phủ Vũ Tướng Liêm hoàn chỉnh thống nhất thì Sát Phá Tham do Phá Quân đứng đầu ở phía đối cung. Vì vậy việc có chữ Hòa Bình là khó khăn khi mà bản tính của con người là xây dựng và phá hoại, ba sao Cự Môn, Tử Vi và Phá Quân luôn đứng đầu nhóm sao lãnh đạo và không cần nghiên cứu lâu năm mà chỉ cần đọc qua các câu phú của tiền nhân người luận giải cũng nhận ra điều này. Khi Tử Vi có lý tưởng vĩ đại, hình thành được Tử Phủ Vũ Tướng Liêm đắc cách là nắm trong tay chữ Chính Nghĩa, khi đó phe đối lập là Cự Phá với lý tưởng khác dựa trên tiêu chuẩn đạo đức mà mỗi cách cục nói riêng trường hợp của Tử Vi. Với trường hợp Tử Vũ Liêm giao hội với Sát Phá Tham thì tính xung đột tư tưởng rất lớn. Sao Tử Vi là đế tinh trong môn Tử Vi tuy nhiên sao này cũng là bản chất con người, cũng gặp sát kỵ tinh giao hội, có lòng tham và tư lợi cho tổ chức riêng, hay tư lợi cho hậu nhân kế thừa mà tùy trong nhiều trường hợp hành vi khác với lý tưởng, hoặc ngay từ đầu lý tưởng sai lầm khi đó Cự Môn khuyên ngăn, can gián trở thành chữ Phản, Phá Quân từ kẻ nắm binh quyền trở thành kẻ phá bỏ những thứ sai trái của Tử Vi. Ngay trên thế giới mỗi đất nước có một hệ tư tưởng riêng, mâu thuẫn lẫn nhau nên Tử Vi tùy thuận được quần chúng mà trở nên là Chính Nghĩa hay Sai Lầm, thường nhìn vào chữ Hòa Bình mà tiền nhân lấy làm gốc của việc làm đúng sai khi ở địa vị cao, tuy nhiên có khi xâm phạm tới lãnh thổ nên phải đánh đuổi, có người lại cho rằng nên kiên trì thương thuyết để tránh động binh. Vì vậy nên từ xưa tiền nhân thấy dụng binh là kế cuối cùng. Tiền nhân cũng rõ việc sử dụng chữ Đạo Đức là Thiên Lương và Hình Pháp là Thiên Hình sẽ khiến xã hội có thể giữ vững không loạn, kiềm chế chữ Dục để tránh tai họa. Văn hóa của nước ta cũng nhiều truyền thống lấy từ dịch lý mà ra. Tuy nhiên khi nhìn sự phát triển của khoa học các quốc gia phát triển thì lý tưởng của nước ta lại bảo thủ, bằng chứng là ngày nay con người suy nghĩ lại với thời phong kiến thấy nhiều bất công, hủ tục. Việc lý tưởng đúng sai tùy vào lịch sử, giai đoạn, ta có sao Vũ Khúc chủ lịch sử và Liêm Trinh là sự chính trực, liêm khiết. Tất cả đều tốt thì Tử Phủ Vũ Tướng Liêm tốt. Bài viết bàn tới cách cục của sao Cự Môn, luôn phản đối, bất mãn với Tử Vi vì vậy trong bất kỳ một trường hợp ta luôn nhìn thấy người bất đồng tư tưởng, nếu đúng thì gọi là người tìm ra cái sai, đi đầu khai mở thời cuộc mới, tuy nhiên vẫn có kẻ bất đồng dù Cự Môn đúng và luôn như vậy nếu sai là cách cục tạo phản, phản bội. Vì vậy ngay trong thực tế có thể nhìn thấy tính Ám của Cự Môn rất lớn. Cự Môn giỏi vạch ra sai phạm, giỏi cãi nhau về đúng sai, giỏi bất mãn về mọi thứ nên Cự Môn có tính Ám. Cự Môn thời trước nếu trái với ý vua, trái với triều đình, đôi khi cải cách, đổi mới, vạch trần việc sai trái cũng tạo ra tai họa lớn, tuy nhiên với Cự Môn thời nay sống dễ dàng hơn và cũng có khả năng thành công lớn vì khả năng suy xét, tài năng.



Từ tài năng chuyển sang phản bội cũng rất nhanh chóng và dễ dàng. Như vào thời quân Pháp sang nước ta đánh chiếm, vua Hàm Nghi tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Lịch quyết tâm chống Pháp. Trong triêu đình là Tử Phủ Vũ Tướng Liêm tồn tại việc hai phe chủ Chiến và chủ Hòa. Chính luôn có mâu thuẫn trong mọi sự việc nên Cự Môn xuất hiện và có Phá Quân tương trợ. Trong trường hợp Vũ Khúc vẫn còn giải pháp, vẫn còn khả năng nhận định sự việc thì chưa xảy ra tai họa và khi ngôi sao Vũ Khúc, cũng mang ý nghĩa là giai đoạn rối ren thì Cự Phá bắt đầu hoạt động. Việc xảy ra sự rối ren không thống nhất của Tử Phủ Vũ Tướng Liêm luôn là nguyên nhân để Cự Phá hoạt động.  Vua Hàm Nghi lên ngôi sau khi vua Kiến Phúc băng hà. Trước đó đã phế truất hai vua là Dục Đức và Hiệp Hòa vì thân Pháp và cấu kết với Pháp. Ngay tại đây nếu xét theo đạo quân thần thì gọi là Bất Trung, gọi là Tạo Phản. Tuy nhiên nếu xét về tình thì vẫn được lòng quần chúng. Vì vậy, trường hợp trên của Cự Môn không bị tạo thành chữ Phản, ngôi sao giai đoạn là Vũ Khúc không luận tội với Cự Môn. Kế đến khi vua Hàm Nghi quyết tâm chống lại quân Pháp.Trong trường hợp Vũ Khúc vẫn còn giải pháp, vẫn còn khả năng nhận định sự việc thì chưa xảy ra tai họa và khi ngôi sao Vũ Khúc, cũng mang ý nghĩa là giai đoạn rối ren thì Cự Phá bắt đầu hoạt động. Việc xảy ra sự rối ren không thống nhất của Tử Phủ Vũ Tướng Liêm luôn là nguyên nhân để Cự Phá hoạt động.  Vua Hàm Nghi lên ngôi sau khi vua Kiến Phúc băng hà. Trước đó đã phế truất hai vua là Dục Đức và Hiệp Hòa vì thân Pháp và cấu kết với Pháp. Ngay tại đây nếu xét theo đạo quân thần thì gọi là Bất Trung, gọi là Tạo Phản. Tuy nhiên nếu xét về tình thì vẫn được lòng quần chúng. Vì vậy, trường hợp trên của Cự Môn không bị tạo thành chữ Phản, ngôi sao giai đoạn là Vũ Khúc không luận tội với Cự Môn mà ngược lại ngày nay tán thành với ý kiến này. Kế đến khi vua Hàm Nghi quyết tâm chống lại quân Pháp. Chiều Hàm Nghi ban ra là mệnh lệnh để dân chúng đứng dậy đấu tranh, Pháp lôi kéo nhưng vua không đồng ý, tuy nhiên lúc đó một hộ vệ của vua tên là Nguyễn Đình Tình đầu hàng giặc khi cả nước đang nổi dậy, sau đó đến Tôn Quang Ngọc ,một trong ba hộ vệ hàng giặc. Đến năm 1888 thì Tôn Quang Ngọc vây chỗ ở của vua, thuộc hạ thân tín ra kiểm ra đều bị bắt sống hoặc giết. Sau đó vua bị bắt. Ở đây cách cục của Cự Môn là Nguyễn Đình Tình và Tôn Quang Ngọc mang ý tạo phản, ở đây cũng là sao Cự Môn chủ tạo phản. Nếu Pháp thắng cuối cùng thì hai kẻ này được vinh danh, nếu ta thắng thì hai kẻ này gọi là Phản Bội. Thực chất nên hiểu chữ Phản Bội theo ý nghĩa bỏ người đang phò tá mà theo phe kẻ khác để gây họa đều có ý nghĩa làm phản. Cự Môn có tính Ám cũng do phần lớn ở đặc tính này. Tùy theo thời cuộc mà phân thành tốt xấu. Như Nguyễn Trãi bị chu di Tam Tộc ở vụ án Lệ Chi Viên, cuối cùng được giải oan và là một trong các anh hùng dân tộc. Trong thời của ông thì sử sách lưu lại với tên phản nghịch, sau đó được giải oan trở thành anh hùng dân tộc. Vì vậy, sao Cự Môn hay mắc phải thị phi, đôi khi bị oan nên mang đặc tính Ám, gặp thêm Hóa Kỵ thì như đổ dầu vào lửa càng theo nhầm lẫn tai họa dù bản thân tốt. Có những sao Cự Môn bí mật không bao giờ được giải oan mang tiếng hậu thế nghìn năm. Ngay như Tào Tháo gặp Cự Kỵ Khốc Hình mà uế danh mãi sau mới được hậu nhân xóa bỏ ở chữ Gian Hùng.

Mệnh Cự Đồng tại Sửu cung




 Cự Đồng cư tại Sửu cung luận Mệnh



Lá số này khá tốt đẹp với bố cục Đồng Cự Cơ ở vị trí xấu nhưng được bàng tinh gia hội mà trở nên hợp cách, bản cung mệnh có cách Cự Đồng Kình Tang Triệt Tuần, tam hợp cung Quan Lộc có sao Thiên Cơ tọa thủ gia Không Kiếp Sinh Mã Bật, cung Tài Bạch vô chính diệu có Tiểu Hao, Tả Phụ. Cách cục thuộc bố cục Cự Cơ Đồng ngộ Kình Tiểu kiến Tam Không Sinh Vượng Phụ Bật. Đặc biệt là Cự Đồng được Tuần Triệt tại bản cung. Với Mệnh thuộc ngũ hành Thủy với bố cục Cự Cơ Đồng thì đây là cách cục luôn tồn tại mâu thuẫn để phát triển, cách cục này do Cơ Đồng đi với Cự Môn, trường hợp còn lại do Cơ Đồng đi với Âm Lương mang tính may mắn, êm đềm nên gọi là văn cách. Với cái thế Tử Vi cư Ngọ lực cát hóa rất lớn, bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm hoàn chỉnh và thống nhất, hoạt dụng nên hai cách cục cùng phe là Cự Phá đều nhập hãm, tức đều thuộc cách thua thiệt khi Cự Môn phải chịu bất mãn trước Tử Vi và Phá Quân không thể kháng cự Vũ Tướng ở đối cung. Ở cách cục này ở mệnh mang ý nghĩa, tức khi mệnh có Cự Môn hay Phá Quân trong trường hợp này trong thế giới tâm thức người đó, lưu ý là trong thế giới của chính bản thân luôn tồn tại một tổ chức, người đứng đầu xây dựng, và bản thân ta thường là yếu hơn so với những người xung quanh. Cự Môn từ đây sinh ra bất mãn và nỗ lực. Cách cục Cự Cơ Đồng không được đánh giá hay qua các câu phú thời phong kiến vì cái Tử Vi to nhất là triều đình, vua chúa. Luật lệ hà khắc khiến Cự Môn nếu bất mãn, phản đối dễ mất mạng trong khi thời nay việc phản đối chính quyền cũng không gặp nhiều hình phạt nặng. Ở thời phong kiến do bất mãn nên từ Tạo Phản, Làm Phản tạo ra từ đây. Cách cục Cự Đồng cư Sửu có Thiên Cơ tam hợp phải nhận xét đây là cách cục có nhiều khuyết điểm trong các bố cục chính tinh. Và cái cần nhất ở đây là gặp Không Vong để biến chữ Không thành Có. Nếu trường hợp này không có Không Vong tại đây thì cũng chỉ là cách cục thường vì tam hóa không thấy đâu chỉ được một chữ Quyền tại mệnh, do Tinh Hệ Tử Vi cư Ngọ rất mạnh nên bản thân ta chỉ là kẻ kém cói, trong khi họ hàng, cha mẹ, người ngoài xã hội mà ta tiếp xúc cảm thấy đều giỏi hơn ta. Tuy nhiên ở đây hai chữ Tam Không khiến toàn cục thay đổi, bên ngoài xã hội vẫn rất mạnh, rất giỏi nhưng bản thân ta cũng không kém. Bằng chứng là Thiên Cơ ngôi sao toan tính, mưu kế gặp Phụ Bật Không Kiếp, đặc biệt là Không Kiếp cư Tị nhập Miếu tính hoạch phát như lôi. Không Kiếp Tị Hợi là nơi bộ sao này phát huy tối đa tính chất tốt đẹp. Tuy nhiên với điều kiện là có Quyền Tinh. Ở đây mình sao Hóa Quyền không làm nên trò trống gì, không thể điều khiển cách cục mà chính là Tả Hữu Quyền mới có thể dụng được cặp Không Kiếp, ý nghĩa ở đây là gì, tức sống chung với côn đồ mà khiến chúng tạo lợi ích cho bản thân. Cách Tả Hữu Không Kiếp có Kình Việt đi với Thiên Cơ thường biết cách dụng những thành phần cặn bã của xã hội, khác với Tử Vi ngộ Không Kiếp là đế ngộ hung đồ, cách Tả Hữu Quyền Không Kiếp tương tự như cách Thiên Tướng hay Sát Phá gặp Không Kiếp ở tính bạo phát do dụng được Sát Tinh. Đặc biệt là bộ Sát Phá gặp Không Kiếp thời loạn được Tam Hóa thường là tướng lĩnh, vì Không Kiếp ở đây tượng là nơi chết chóc.



Ở thời bình không có cách cục này thì dụng Không Kiếp có lá số thường làm cảnh sát, công an chỉ huy được côn đồ. Mệnh tạo Cự Đồng Kình có thể theo khuynh hướng này để dụng bộ Không Kiếp, tuy nhiên đây chỉ là chiều hướng không quá tốt vì bản chất của Không Kiếp Cự là chữ Phản, ngay chỉ Không Kiếp đã có tính chất lên xuống thất thường người viết đã chỉ ra ở những bài viết có bộ sao này, đặc biệt là các bài viết về danh nhân sinh tháng Hợi, tức tháng 10 luôn bị cặp này tại mệnh và kết quả dù đắc cách thì cao nhất là vua cũng bị xử tử. Trái với Không Kiếp thất thường ta có cặp lệch pha là Xương Khúc mang tính ổn định. Trường hợp dụng thứ hai của Không Kiếp là khai sáng cách. Ở đây thì Trương Đình Anh công khai lá số Thiên Tướng gặp Không Kiếp tại Hợi là một cách tiêu biểu của dụng Không Kiếp, phát ngôn mang tính ngẫu hứng, làm việc sáng tạo,  Không Kiếp dạng này đắc cách tính khai sáng rất lớn và hóa thành Quyền. Chữ Khai Sáng này cũng khiến nhiều nhà khoa học có bộ Không Kiếp phát minh ra nhiều thứ. Như trong kinh doanh việc sáng tạo và khai sáng giúp bản thân thắng các đối thủ, bản chất của khai sáng là thay đổi nhanh chóng, thất thường là ý nghĩa của Không Kiếp. Thực chất việc thành bại là do bản thân chọn, chỉ là biết hướng đi đúng hay không. Cách Cự Cơ Đồng có Tang Kình Quyền gặp Không Kiếp Mã dễ theo lợi mà đi theo chiều hướng âm ám, có thể trái pháp luật vì lợi ích là Thiên Cơ và ngã ngựa tức Mã Kiếp Kình cũng do bản tính gặp hoàn cảnh ngoài đời tác hợp mà gây ra. Với xã hội này thì bây giờ theo con đường có chữ Đen hiện giờ đang còn tốt, tuy nhiên muốn bạo phát cả tài danh thì cần bỏ chút lợi trước mắt, nhìn ra xa mới không bị cặp Không Kiếp tạo phản. Vì vậy cũng là kẻ đứng đầu nhưng nơi chứa chữ Sát là xã hội đen, giang hồ hay thay đổi vị trí, tranh đoạt lẫn nhau. Tuy nhiên lãnh đạo tổ chức lớn, chính quyền mặc dù quyền lực lớn hơn tất cả nhưng luôn cư xử ân cần bên ngoài, cho kẻ khác thấy bản thân không nguy hiểm nên không gặp tai họa. Cách cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm mạnh do oó khuynh hướng khai sáng theo đường chính, được hợp bởi hai bộ Từ Vũ Liêm có tính định hướng, xây dựng và Phủ Tướng có tính tương trợ nên cách cục khi đầy đủ là bền vững, như việc chữ lý đi với chữ tình. Trong khi Sát Phá Tham và Cự Nhật nặng về chữ lý nên thường trong xã hội Tử Phủ Vũ Tướng Liêm là chủ. 12 cung đều là của bản thân ta nếu sao Tử Vi bất luận nằm tại vị trí nào tốt đẹp thì hạn tới sẽ dụng được nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm.

Tử Vi Toán Mệnh luận đoán




Tử Vi Toán Mệnh luận đoán



Việc xem mỗi một lá số Tử Vi cần xét từ giờ sinh chính xác lập ra lá số tử vi đúng mới có thể tiến hành luận đoán. Tuy nhiên thường trong trường hợp sinh giờ khe hay việc phụ mẫu không nhớ rõ chi tiết giờ sinh khiến việc khán hạn để lấy cung số tử vi của bản thân là việc cần thiết phải làm. Việc khán hạn khi lệch một canh giờ đã là khó vì khi lệch một canh giờ thì phân làm hai trường hợp. Gồm việc cung mệnh dịch chuyển một cung trong khi các cung độ và chính tinh, bàng tinh trừ an theo Giờ Sinh thay đổi theo chiều thuận, đa phần bố cục toàn lá số không mấy thay đổi. Trường hợp thứ hai là gặp cách cục khác hoàn toàn với cách cục ban đầu. Ở trường hợp đầu tiên có ý nghĩa khá quan trọng trong việc xét những lá số sinh vào giờ khe và việc thay đổi của cách cục khi ở cung Mệnh và cung Hạn. Trường hợp thứ hai khá đơn giản do việc thay đổi hoàn toàn bố cục về chính tinh và nhiều bàng tinh trong lá số tử vi khiến việc luận đoán sử dụng cách khán hạn hay thậm chí chỉ cần nhìn hình tướng, một số thông tin, cách sử dụng từ ngữ có thể luận ra mệnh tạo của đương số. Ở cách cục thứ hai cũng có thể phân biệt theo cách trên, tuy nhiên nếu không thể dùng cách xem tướng, thông tin ngoại hình,...thì việc luận đoán bằng hạn có phần khó luận hơn so với trường hợp trên. Tất nhiên việc cách cục gồm 3 cách cục chính với tính chất khác nhau cũng là một phần quan trọng để luận giải tử vi. Tuy nhiên với người không chuyên thường nhờ người khác xác định giờ sinh của bản thân có thể kiểm tra lại tính chính xác bằng hiểu biết của bản thân thì khá khó khăn. Lưu ý các cung hạn trong trường hợp này tương đối tương đồng, đặc biệt khi hạn hành đi cùng với chiều vận chuyển của mệnh tạo, tức theo chiều dương thì việc xác định qua khán hạn có phần khó khăn hơn. Ở đây có hai cặp sao quan trọng có sức tác động rất lớn gồm cặp Xương Khúc và cặp Không Kiếp sẽ lệch pha trên lá số tử vi. Đặc tính của Không Kiếp và Xương Khúc tác dụng hiển hiện lên cung độ hai cặp sao này tọa thủ tại bản cung. Bộ Không Kiếp có tính thất thường, bất ngờ trong khi Xương Khúc là bộ sao ổn định. Ở đây việc qua đại hạn thứ hai, cũng là cung mệnh tạo nếu xét lá số giờ sinh kế tiếp trong hai giờ sinh dễ khiến đương số nhầm lẫn vì tính cách của hai lá số lại có phần khá giống nhau đặc biệt khi thời gian luận giải thường qua đại hạn thứ hai, sang đại hạn thứ ba mới bắt đầu xem lá số của bản thân. Có những lá số phải dùng tới tiểu hạn trong trường hợp tính cách của mệnh tạo ngay cả chính đương số cũng không thể xác định vì mỗi người thường có nhiều cá tính khác nhau chưa bộc phát, các khả năng hay đặc biệt khi có thêm Tuần Triệt và các Chính Tinh kết hợp với Bàng Tinh cơ bản có phần giống nhau khiến việc luận đoán thêm phần khó khăn, đặc biệt là trường hợp sinh giờ khe có nhiều người nhờ luận tử vi khẳng định bản thân mình với tính cách của hai trường hợp giờ sinh đều đúng. Trường hợp này cần thiết luận kỹ càng và đưa ra các hạn khác biệt giữa hai lá số đặc biệt chú ý tới bộ Không Kiếp, Xương Khúc ở tiểu hạn năm, tất nhiên ở cung Đại Hạn thì có phần giống nhau vì như tháng Hợi mệnh sinh ra sao Thiên Không luôn nhập cung mệnh. Cung Tiểu Hạn sẽ phân biệt được cách cục nếu trường hợp không thể phân biệt qua Đại Hạn. Sau khi xác định xong giờ sinh ở phần này nên kết hợp với xem tướng để chắc chắn rồi mới nên luận lá số để tránh không phải của mình. Vì một số người nhờ luận giải nhưng hỏi về giờ sinh thuộc giờ khe chắc chắn lá số của bản thân, lại lên các diễn đàn có một số bộ phận nhỏ người luận giải tử vi chưa thực sự có kinh nghiệm và nhận định các vấn đề quan trọng nhất khi luận giải nên sai giờ sinh và khi đăng ký luận giải cho rằng giờ sinh chính xác, lại khán hạn quá khứ có phần giống với bản thân, đặc biệt có lá số giống tới 8 phần vì giờ sinh sát nhau thường cho cách cục khá giống nhau.




Thứ đến trước khi luận giải lá số Tử Vi cần quan tâm tới tính cách hiện tại của đương số có bình thường hay không, thực chất trong xã hội không thể hoàn toàn mọi người không bị bệnh tật bẩm sinh hay mới khởi phát liên quan tới tâm thần, suy nghĩ tác động tới việc chính xác khi luận giải về tính cách, phẩm chất của đương số để đưa ra kết quả chính xác trong tử vi. Trường hợp nhẹ hơn là thay đổi ngay tư tưởng khi tới một địa phương khác nhau, như việc cuộc sống ở vùng cao, mọi người xung quanh đều thiếu ăn, khó khăn sẽ có tư tưởng khác hoàn toàn việc sống ở thành phố khi cuộc sống dư dả hơn, miếng ăn không được coi trọng hơn việc giáo dục. Việc thay đổi vị trí địa lý khiến việc luận giải trở nên khác tùy theo mức độ thay đổi nhận thức để luận sự biến đổi khi chịu tác động của các cách cục. Lưu ý trong tử vi không có cách cục ở trạng thái tĩnh mà các cách cục luôn thay đổi liên tục ứng với nhận thức, tư tưởng luôn thay đổi. Việc mệnh tạo luôn có nhiều cá tính ẩn ở trong tổ hợp Mệnh Tài Quan và tùy theo môi trường mà các tác động xảy ra khác nhau. Tuy nhiên thường thì tác động của sao bản cung mệnh hợp với ngũ hành mệnh là lớn, kế tới các sao tại vị trí tam hợp và tư tưởng luôn thay đổi trong khi bước qua đại hạn này tới đại hạn khác. Cũng quan trọng khi luận giải tử vi là việc luận giải lá số về số lượng các câu chữ không làm nên kiến thức thực tế của người luận giải, thường thì người khi xem tử vi ưa việc luận giải dài dòng, đề cập tới nhiều cách cục vấn đề là hay nhưng thực chất trong việc toán mệnh thì lấy việc ít làm quý, nhiều khi luận lá số chỉ cần kết luận đại hạn này tốt cho hướng đi và mệnh cách tốt hay xấu, việc chỉ ra nhiều cách cục không cần thiết và dài dòng khiến việc luận giải trở nên phức tạp, nếu chiêm nghiệm tính đúng của tử vi có thể dùng để luận nhưng để luận giải lá số cần tinh gọn. Các đại hạn là sự chuyển tiếp giữa phần tư tưởng, nhận thức vì vậy nếu đại hạn thứ hai có cách cục tham vọng về tiền bạc, đại hạn thứ ba lại có cách cục phú cách là mệnh dễ đạt được chữ phú đặc biệt nếu mệnh tạo thuộc phú cách mức độ thành công về tiền bạc sẽ lớn hơn việc theo con đường danh tiếng. Vấn đề xác định chắc chắn giờ sinh và vấn đề luận giải cần phân biệt tính quan trọng của từng cách cục trên lá số tử vi quan trọng khi luận giải tránh việc luận tùy theo cảm hứng, phần không cần thiết luận chi tiết, phần quan trọng chỉ một hai dòng khiến đương số đánh giá nhầm mức độ quan trọng của từng cách cục.

Sunday, July 16, 2017

Luận giải khi mệnh xấu hạn tốt




Luận giải khi mệnh xấu hạn tốt


Khi luận giải tử vi việc phân biệt rạch ròi giữa tác động của mệnh thân hạn tác động tới việc cát hung của đương số rất quan trọng và khó khăn trong việc xác định. Nhiều trường hợp mệnh rất tốt, hạn xấu tuy nhiên trong đại hạn hoạch phát được thành tựu lớn. Trường hợp thứ hai là mệnh xấu, đại hạn tốt cũng đạt được công danh. Tuy nhiên một trường hợp cũng hay gặp là mệnh xấu, hạn tốt cách cục vẫn bị phá khiến mệnh tạo không thể thành công. Qua nghiệm lý các lá số tử vi thì đa phần các lá số vào trường hợp thứ nhất và thứ hai. Trường hợp thứ ba tính xác thực tuỳ vào từng lá số và cách cục. Tất nhiên là chỉ xét thành tựu hay tai hoạ của đương số ở mức độ khí hình của chính tư tưởng đương số, không xét tới mức độ của xã hội vì giữa hai địa phương tức vận làng khác nhau đã khiến kẻ nghèo nhất của nơi này khác hoàn toàn về khả năng, đặc biệt ở các địa phương bên cạnh đô thị sự cách biệt lớn hơn. Tuy nhiên nếu xét về chính mặt tư tưởng của đương số thì tương đối đúng. Tức nếu viết lại cuộc đời của một người thì các nét chính có thể lấy lá số tử vi để xem được, nếu xét tới cả địa vị xã hội thì cần thêm thông tin mức độ của khí hình trong chính bản thân đương số để đưa ra kết quả dự đoán đúng. Mệnh xấu hay tốt được luận tuỳ theo cái nhìn của mỗi người, tuy nhiên với tiêu chuẩn chung thì có chữ Phú, Quý và Thọ là cách cục tốt đẹp, bên cạnh đó việc tinh thần của đương số cũng quan trọng khi luận một cung mệnh tốt đẹp. Tiền nhân chia cung mệnh bằng các Chính Tinh và đặt luôn cả vị trí cho các chính tinh bằng kinh nghiệm để luận miếu địa, vượng địa, đắc địa, hãm địa. Một số sách thì chỉ luận dựa trên miếu địa và hãm địa. Tuy nhiên cách luận cung mệnh theo cách như vậy dễ gây nhầm lẫn cho người mới luận do không hiểu rõ việc tác động trong yếu của bàng tinh khiến cách cục thay đối theo các chiều hướng khác nhau, đặc biệt là có những sát tinh nặng như Không Kiếp phá cách toàn bộ cách cục tốt đẹp tạo ra. Vì vậy, sau đó việc vị trí của các chính tinh trong tử vi chỉ có ý nghĩa là biểu hiện nên tính chất và quyết định ở tính chất cơ bản của chính tinh. Luận bằng các tính chất cơ bản khiến việc xem tử vi trở nên bớt huyền bí, cái mà một bộ phận lớn người xem tử vi ưa thích khi luận giải cho đương số. Tuy nhiên việc đánh giá sự tác động của các tổ hợp sao khó khăn vì vậy mất nhiều thời gian hơn. Cách mệnh cục xấu không phải là mệnh tạo gặp các Chính Tinh ở vị trí hãm địa hay gặp nhiều Sát Tinh trong Lục Sát mà ở việc phá cách hay hợp cách liên quan tới ba chữ Phú Quý Thọ nêu trên. Việc một lá số thường mất đi mặt này hay mặt kia do tính chất của Lục Sát phân bổ ở 12 cung có thể hợp cách hay bất hợp cách, hoặc ngay cả các sao là cát tinh nếu phá cách tai hoạ lớn không kém phần sát tinh phá cách. Luận theo tính chất về một mệnh tốt khác việc luận một cung mệnh tốt đẹp, luận mệnh số cần thiết xem cả 12 cung độ bởi vận hành lá số phần tiểu hạn luôn qua 12 cung và đại hạn thường qua nửa số cung nên qua cả bốn bộ tam hợp Tị Dậu Sửu, Hợi Mão Mùi, Dần Ngọ Tuất, Thân Tí Thìn. Tuỳ theo cung mệnh thuộc một trong các nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật giao hội lần lượt hai nhóm sao Tử Phủ Vũ Tướng Liêm và Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật với nhau sinh ra các cách cục dị biệt. Tuy nhiên ở tổ hợp Mệnh Tài Quan gặp một trong các nhóm sao đều có nét đặc trưng riêng về mức độ của chữ Phú Quý Thọ.



Nếu gặp Cơ Nguyệt Đồng Lương là cách văn nhân, tính chất lãnh đạo, đứng đầu không lớn, vì vậy đắc cách thiên về tiền bạc và chữ thọ. Nếu gặp cách cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm đắc cách chủ về tính tổ chức, chủ về danh và tài, cũng chủ đứng đầu một tổ chức lớn, mang vác trách nhiệm lớn. Với cách cục Sát Phá Tham chủ về danh và tài nhưng mang tính chất hoạch phát tài danh, không có tính tổ chức và phân công công việc như cách cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm. Với cách cục Cự Nhật chủ về chữ danh, danh tiếng của cách cục này do sự bất mãn với lý tưởng của Tử Vi, cũng có tính tổ chức nhưng cách này khó có thể khai sáng mà dựa vào hành của sao Tử Vi để đưa ra phản đối, ở thời Phong Kiến bộ Cự Nhật là cách phản đối, can gián vua nhưng khi không được quay ra làm phản. Cung Mệnh tạo tùy từng cách cục mà phân ra tốt xấu, khi mệnh xấu và trường hợp cung đại hạn tốt thì cái bản chất, tính cách đôi khi được rèn luyện để gặp hạn thành công lớn, trường hợp xấu là mệnh tạo ý chí không lớn, ưa an phận nên tới hạn tốt gặt hái được ít thành tựu coi là đủ mà bỏ dở công danh sự nghiệp nên thất bại. Cung Đại Hạn tốt đẹp cần thiết là bản cung phải đắc cách, kế đến toàn bộ bố cục đều tốt đẹp, xét việc tính chất của bản cung hạn có hợp với mệnh tạo, tùy theo cách cục hợp hay bất hợp của hạn mà luận cát hung. Nếu bản thân tam hợp cung của hạn là Cơ Nguyệt Đồng Lương có Triệt Tuần tại bản cung, ví dụ như vị trí sao Thiên Cơ là hay tuy nhiên nếu mệnh cách có sao Tử Vi hay Thiên Phủ tọa thủ màn ý nghĩa xấu hơn vì đại hạn là cái biến đổi, đại hạn có Triệt Tuần đi với sao Thiên Cơ hình thành cách Cơ Triệt Tuần mang họa cho Tử Vi hay Thiên Phủ, tức hoàn cảnh mới ở thế động khiến cung mệnh ở thế tĩnh với cách cục ban đầu biến chuyển theo cung đại hạn. Cũng tương tự như vậy với Tiểu Hạn nằm trong Đại Hạn. Với Tiểu Hạn hợp cách cần thiết phải hợp với cách cục của Đại Hạn. Cung Đại Hạn như một tính cách trong thời gian dài, gặp Tiểu Hạn là sự biến đổi trong thời gian ngắn của cách cục, do Tiểu Hạn là thay đổi thời gian ngắn nên phụ thuộc lớn vào Đại Hạn tốt hay xấu. Cũng như vậy, cung Đại Hạn phải phụ thuộc vào tính cách hay còn gọi là bản tính ban đầu, ý chí ban đầu của mệnh tạo. Trường hợp cung Tiểu Hạn quá xấu nên biến đổi trong thời gian ngắn khiến Đại Hạn biến đổi tính cách theo chiều hướng xấu, nếu Đại Hạn xấu và Tiểu Hạn xấu mức độ khiến ý chí, tư tưởng của ta theo chiều hướng xấu cho tới rất xấu là vong mạng. Vì vậy, trong trường hợp Mệnh, Đại Hạn tốt đẹp và Tiểu Hạn rất xấu cũng không đáng lo ngại, có thể dụng được cách cục. Trong trường hợp Mệnh rất xấu mà Tiểu Hạn và Đại Hạn đang tốt đẹp tức tư tưởng theo chiều hướng gây họa nhưng biến chuyển theo chiều hướng tốt lên. Tuy nhiên thường thì Mệnh rất xấu khi qua Đại Hạn đầu tiên ở cung Mệnh khó vượt qua. Trường hợp Mệnh xấu, ở mức độ có thể vượt qua khi Đại Tiểu Hạn qua đây thì tới Đại Hạn tốt đẹp cũng khó mà thành tựu lớn nếu không gặp Tiểu Hạn tốt, vì tính cách là động nên nếu được hai Đại Hạn liên tiếp tốt đẹp thì khả năng thành công lớn. Cung Mệnh thực sự quan trọng khi luận giải tử vi nhưng nếu không tốt đẹp chưa kết luận số tốt xấu vì còn các Đại Hạn, Tiểu Hạn. Với mệnh tốt nhưng Đại Tiểu Hạn xấu thì dễ mang tai họa. Mệnh xấu thì cục diện cuộc đời thường khó khăn vì mệnh là bản tính.

Sao Thiên Cơ với cách cục tâm linh




Sao Thiên Cơ với cách cục tâm linh



Sao Thiên Cơ thuộc nhóm sao Cơ Đồng, bộ Cơ Đồng và bộ Âm Lương thuộc nhóm sao Cơ Nguyệt Đồng Lương là nhóm sao thuộc chính tinh liên quan nhiều nhất tới tâm linh. Ngoài đời thực ta cũng hay thấy các hiện tượng lên đồng, nhập hồn, nhập cốt. Những hiện tượng này thực chất chưa luận vội ở tính chính xác, hay cơ sở. Ta thấy từ việc tâm linh rất dễ bị coi là tâm thần. Ở đây do sao Thiên Cơ luôn đi với Thiên Đồng, trong trường hợp tạo thành nhóm sao Cơ Nguyệt  Đồng Lương thì hay tin vào chuyện lương thiện và quả báo, trong khi nếu đi với Cự Môn hình thành nhóm Cự Cơ Đồng thì ta lại có việc thị phi, gặp chuyện đồn thổi vì Cự Môn luôn có ý nghĩa là lời nói, cái miệng đời. Trong cách cục Cơ Đồng thì sao Thiên Đồng hay liên quan tới chữ Phúc, cũng là sao chủ phúc hậu, từ thiện nên dễ thấy chữ Phúc thường đi với chuyện tâm linh. Tam hợp với Thiên Đồng là sao Thiên Cơ cũng đóng vai trò quan trọng vì sao Thiên Cơ có ý nghĩa là suy nghĩ, tư tưởng thường thiên về tư duy, khác với lý tưởng của sao Tử Vi mang tính trách nhiệm thường không thay đổi, thuộc hành Thổ có tính ổn định trong khi sao Thiên Cơ mang ý nghĩa về suy nghĩ luôn luôn động, tính động của Thiên Cơ càng lớn hơn khi bên cạnh nhị hợp luôn có ngôi sao Phá Quân. Cách cục mệnh có Thiên Cơ hoá làm Thiện tinh vì thực chất sao này dùng đầu óc nên việc làm có phần mang tính tri thức, có suy nghĩ khác với việc bất chất hậu quả như Sát Phá Tham. Cái nguy hiểm dẫn đến đa phần chuyện luận giải sai về sao Thiên Cơ trong khi nhìn cách cục rất tốt đẹp gia Tam Hoá, Lục Cát tuy nhiên khác xa với thực tế của ngôi sao này là ở tính chất động của Thiên Cơ gắn liền với sự linh hoạt hoặc phù động. Đối với Thiên Đồng có khả năng phòng ngự mạnh với Sát Tinh gồm Kình Đà Hoả Linh Không Kiếp Hình Kỵ, tuy nhiên sao Thiên Cơ rất dễ bị phá cách, đặc biệt bởi Hoá Kỵ. Nhiều nhà khoa học nghiên cứu nổi tiếng thường lập dị, liẻn quan tới một số hành động trong đời thường, tuy nhiên rất khó để tìm ra người đứng đầu có khuynh hướng như vậy. Các nhà nghiên cứu, nhà khoa học nhiều phần có mệnh tạo là Thiên Cơ, ở đây cách cục xấu của Thiên Cơ liên quan tới việc đầu óc không được bình thường. Người viết nghiệm lý nhiều lá số có mệnh Thiên Cơ thấy khuynh hướng của Thiên Cơ rõ nét khi phá cách là về vấn đề tư tưởng không bình thường, đặc biệt là trong trường hợp gặp với sao Hoá Kỵ, hay tác động mạnh hơn khi chính bản thân sao hoá Kỵ ở thiên can Mậu, kế đến là việc gặp với Không Kiếp. Sao Thiên Cơ thủ mệnh có Thiên Đồng tam hợp, tức Thiên Đồng ở vị trí cung cấp thông tin bên ngoài vào khiến tính cách của mệnh Thiên Cơ thay đổi, lưu ý là trường hợp cung độ tam hợp khác bản cung ở việc một bên chính bản thân có tính chất vốn có của chính tinh, một bên khi tam hợp mang tính chất của sao này tác động tới chính tinh bản cung khiến tính cách thay đổi. Việc quan trọng trong bài viết này là sao Thiên Cơ rất có mối quan hệ với tính tâm linh,  nếu mệnh tạo của đương số có cách cục Cơ Kỵ đi với sao Linh Tinh hoặc Cô Quả thì khả năng việc tin tưởng với các chuyện khó tin là có thể. Cách Cơ Kỵ đi với các sao tăng tính quan trọng thì tính chất này càng rõ rệt. Người viết có nghiệm lý một số trường hợp đương số khẳng định mình bị vong nhập trong một khoảng thời gian trước khi hồi phúc và phải ở bệnh viện tâm thần để điều trị. Có người có học vấn cao, có người trung lưu bình thường. Sao Thiên Cơ gặp Hoả Tinh hay Linh Tinh trong trường hợp đồng cung đều là phá cách nặng. Cho dù thuộc cách Thiên Cơ Tí Ngọ hay Cự Cơ Mão Dậu khi gặp bộ Hoả Linh tại mệnh cung đều có khuynh hướng mang dấu hiệu tâm trí không bình thường, đặc biệt nếu gia thêm Sát Kỵ tình trạng này càng nặng nề thêm.



 Nếu như các sao Sát Phá Tham ngộ Hoả Hao thành cách cục Sát Phá Hoả Hao khủng khiến Kỵ Hình có khuynh hướng do tính Sát vượng mà gây thương tích cho kẻ khác thì cách cục Cơ Hoả Kỵ Hình do vấn đề về tâm thần mà gây ra những chuyện động trời trong khi khí Sát không nặng. Tuy nhiên việc phân biệt mức độ xấu của Thiên Cơ có thể gây ra tai hoạ của kẻ có suy nghĩ khác thường thành công và người có vấn đề về tâm thần là khác nhau. Sao Thiên Cơ khi đi với bộ Âm Lương hình thành cách Cơ Âm cư Dần Thân và Cơ Lương cư Thìn Tuất. Quan trọng là sao Thiên Lương thiên về sự may mắn, lương tâm và khi Thiên Cơ đồng độ với Thiên Lương gặp Không Vong lại mang ý nghĩa theo hướng tăng đạo.  Nếu không gặp Không Vong cách cục này mang ý nghĩa phú gia địch quốc, bàn bạc việc binh, thuộc tham mưu cách. Sao Thiên Cơ do đặc tính suy nghĩ, mưu trí linh hoạt nên giỏi việc nhìn ra lợi ích, đi với Thiên Lương may mắn, có tính bộc lộ, cách cục này lộ ra tài năng của sao Thiên Cơ kết hợp với may mắn mà tạo thành sự nghiệp. Sao Thiên Lương mang ý nghĩa gặp may nhiều khi tới khó tin, cũng vì vậy với cách Cơ Lương thì mệnh tạo cũng có khuynh hướng về tâm linh, khi gặp Không Vong tức chữ mất xuất hiện, bộ Không Vong tác động mạnh tới tính cách của Cơ Lương khiến cách cục này trở thành vi tăng đạo, đặc biệt sao Thiên Lương ngộ Không tăng chữ bất ngờ gặp may khi tới hiểm nguy do tính chất bất thường của Không Vong. Cách cục này có phần tương tự như cách Tử Tham ngộ Không Vong tức Tuần, Triệt, Thiên Không tức lòng ham muốn đã mất, hoặc ham muốn rất lớn. Tử Vi có tính lý tưởng, Tham Lang có tính ham muốn, tham vọng. Với Tham Lang là ham muốn, Thiên Cơ là lợi ích gần với nhau. Tuy nhiên sao Thiên Lương là thiện tính, lương thiện của con người. Sao Tử Vi là trách nhiệm xây dựng, gánh vác lý tưởng. Chữ Không trong môn Tử Vi mang tính chất huyền bí vì có ý nghĩa là bất ngờ, nhiều khi ta nghĩ những điều có thật là việc không thể. Cách Thiên Cơ gặp Không Vong, đặc biệt là Nhị Không hay Tam Không có tính chất liên quan tới tâm linh.

Friday, July 14, 2017

Cung Điền Trạch và nhà đất trong lá số Tử Vi




Cung Điền Trạch và nhà đất trong lá số Tử Vi


Trong lá số Tử Vi việc nhà đất luôn được đề cập quan trọng trong cuộc sống nên có cung Điền Trạch để nhìn về đất đai, cũng có thể dùng để xem nhà cửa. Không chỉ các sao trong cung Điền Trạch này mới đưa ra dữ liệu về nhà đất của mỗi lá số. Thực chất còn cả các sao chủ tài sản về đất, các sao chủ về nhà cửa. Cung Điền Trạch thực chất lại không chỉ ra cho đương số về vấn đề nhà cửa của chính bản thân mình, đây được gọi là Nhược Cung, tức là các nhóm sao mang ý nghĩa trong cung này hoàn toàn bị tác động bởi Mệnh Thân Hạn để mang các ý nghĩa liên tục khác nhau. Nên nhìn lá số Tử Vi ở trạng thái động, tức liên tục chuyển động như một bánh xe, nhiều khi quan niệm nhầm của ngay cả nhiều người có kinh nghiệm xem tử vi là nhìn mệnh để xét ngay kết cục của lá số là phiến diện và do đa phần nhìn các câu phú viết về cách cục của mệnh nên chỉ nhìn vào Mệnh Tài Quan. Một lá số chỉ gọi là thượng cách khi toàn diện chữ Mệnh Thân Hạn đầy đủ, vận hạn đi qua tốt đẹp không gặp hạn hung hiểm. Cung Điền Trạch chịu tác động rất lớn từ Mệnh Hạn. Nếu cách cục tốt đẹp nhưng cung Mệnh và Hạn xấu thì ý nghĩa thay đổi theo chiều hướng khác, tất nhiên cơ bản vẫn giữ vững. Như việc cung Điền Trạch có ngôi sao Cự Môn là cánh cổng to. Mệnh tạo có Cự Môn cư tại cung Điền nếu Mệnh đắc cách thì nhà cửa rộng lớn, tuy nhiên nếu Mệnh hãm thì sao Cự Môn cũng chính là cái cổng nhưng không phải của ta, có thể là cái cổng của anh em ta ở nhờ, được ở trong cái nhà to của họ, hay người đi làm thuê ở nhà của ông chủ. Vì vậy, tuy không cần thiết cung Mệnh phải xuất sắc nhưng ở mức độ đắc cách thì cung Điền Trạch mới là của ta, mang ý nghĩa tốt đẹp cho bản thân ta. Cũng cần lưu ý rằng mệnh xấu khác với mệnh hãm cách. Với mệnh tạo xấu tức kiến Sát Kỵ trùng phùng dễ gặp nguy hiểm, tai họa thương tích. Với mệnh hãm là cách cục tầm thường khó có thể đạt được hoạch phát hoặc xây dựng được sự nghiệp, cơ đồ lớn. Phân chia đúng thì việc luận đoán sẽ không bị gặp sai lầm. Nhiều người luận tử vi do các câu phú của tiền nhân đa phần lưu lại cách cục của Lục Sát gồm Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp mang ý nghĩa bần cùng, yểu chiết hoặc cách Chính Tinh ở vị trí hay gọi là hãm địa gọi là mệnh nghèo hèn. Thực chất người viết có thể đưa ra rất nhiều lá số thực tế mệnh tạo kiến Sát tinh trùng phùng lại nằm ở vị trí các sao gọi là hãm địa nhưng hoạch phát rất lớn, phú quý dư thừa. Cái muốn đề cập đến là gốc của môn Tử Vi, tức cái lý tưởng của sao Tử Vi ở mức độ thấp hay cao mà nhận xét được cách cục. Cũng nhiều phần nữa là do ngay tại hoàn cảnh địa vị xã hội hay nhận thức bên ngoài từ khi sinh ra mà cách cục của Tử Vi biến chuyển theo như ở trên người viết lấy làm ví dụ. Cung Điền Trạch cũng cho bản thân cái ý định của ta về việc nhà cửa hay điền sản. Có ý nghĩa hơn vì đại hạn đi qua trước trung niên luôn qua cung Tử Tức hoặc cung Điền Trạch. Nếu đại hạn qua cung Điền Trạch thì cung này càng có ý nghĩa to lớn hơn. Cung Điền Trạch thường được các câu phú viết với cách cục Cự Cơ đồng cung, Lộc Tồn cư Điền. Thực chất hai cách cục này mang ý nghĩa tăng tính quan trọng, khiến cung Điền Trạch trở nên quan trọng hơn trong cuộc sống của đương số. Với cách Cự Cơ hay chỉ cần sao Cự Môn tại cung này với Cự Môn là cái cửa lớn cư tại cung Điền Trạch thì ý nghĩa này rõ ràng khiến bản thân đương số thường hướng tâm trí về việc nhà cao cửa rộng, thực tế thì có thể do tổ tiên để lại điền sản.



Với cách cục của Lộc Tồn cũng như vậy, sao này cư cung Tài hay bất kỳ cung nào đều tác động mạnh tới cung đó và có ý nghĩa tức thời trong cuộc sống. Sao Lộc Tồn là vị trí Lâm Quan của vòng Trường Sinh theo Thiên Can nên tác động hiển hiện. Tất nhiên là trong một quãng thời gian nếu có cách cục này thì bản thân sẽ phải ít nhất một lần chú ý đến điền sản, nhà cửa. Kế đến là do tính chất về chính xã hội, cả 12 cung và các câu phú Tử Vi đều đa phần luận từ thời phong kiến, khi mà nước ta chú trọng thành phần những người chủ đất, cả đất nước làm ruộng nên kẻ nào nhiều ruộng là địa chủ, cũng như vậy mà cung Điền Trạch cũng trở nên rất quan trọng với mỗi người. Ngày nay phần đất đai được gọi là bất động sản vẫn có ý nghĩa trong việc đánh giá mức độ giàu có của một người, trong thời kỳ sốt đất thì Điền biến thành Phú. Cũng như thời xưa khi còn thi cử khoa thì sao Hoá Khoa đứng đầu về địa vị trong xã hội vì học hành thi cử ra làm quan thì có quyền. Ngày nay chữ Điền cũng có quyền không kém chữ Tài như câu "Tấc đất tấc vàng". Trong xã hội không phải những người có nhiều đất hoặc các mảnh đất ở đô thị tăng giá gấp nhiều lần và trở nên giàu có đều là lá số may mắn hay vận hạn đang tốt. Ở đây phải nhìn rõ được cái mà vận làng, vận nước, vận thiên hạ tạo ra khiến vận mệnh của mỗi người thay đổi, dẫn tới có thể giàu có hay do có tiền mà trở nên có quyền. Xã hội mỗi thời mỗi khác và nếu luận theo các câu phú mà không đánh giá được sự thay đổi sẽ dẫn đến việc sai lầm khi luận giải. Thiết nghĩ trừ khi cung Điền Trạch nằm trong tổ hợp cung Trọng Điểm hoặc bản thân đương số luôn làm việc, hay tư tưởng luôn gặp ảnh hưởng bởi chuyện đất đai, nhà cửa thì mới nên luận. Bằng không quan trọng là luận cái ý chí, vận hạn để xét thành bại. Cung Điền Trạch cũng khiến nhiều kẻ giàu có nhưng chỉ ở căn nhà tồi tàn, thiếu tiện nghi chứ không phải nhà cao cửa rộng trong khi thực chất họ có thể mua được hàng trăm hàng nghìn ngôi nhà như vậy. Xét kỹ tới thì ta cũng không nên quan trọng cung Điền Trạch nếu Tiểu Hạn hay Đại hạn của ta không đi qua vì lý do trên, không thể đánh giá được chữ phú và quý của mỗi người trừ khi chúng quá giá trị như việc một ngôi nhà lớn ở trung tâm của Hà Nội như một gia sản lớn. Khi đó chúng ta suy nghĩ về nhà cửa nhiều hơn, về giá trị của mảnh đất hay ngôi nhà chiếm một phần trong tư tưởng thì chúng thực sự quan trọng. Thường thì với ngôi sao Thất Sát hay Phá Quân thêm các sát tinh cư tại cung Điền Trạch tuỳ vào mức độ các sao quan trọng tụ tập mà bản thân đương số thường có khuynh hướng bán đi hoặc thay đổi ngôi nhà của bản thân mình, trong khi người khác không có khuynh hướng như vậy. Cung Điền Trạch khi đại hạn đi tới thì ta quan tâm tới chuyện nhà cửa hơn bình thường, trong khi một số khác quan tâm tới con cái cung Tử Tức tuỳ theo vận hành dịch duyển thuận hay nghịch. Nếu cung Điền Trạch ở vị trí nhị hợp hay lục hội với cung Mệnh thì ý nghĩa tác động tới suy nghĩ, tư tưởng lớn hơn rất nhiều, có thể luận là thường tồn tại trong tính cách đặc biệt là trường hợp ở vị trí Nhị Hợp. Tức bản thân ta chịu thành công hay thất bại rất mật thiết với nhà cửa của ta, một số người vì mục tiêu nhà cửa to đẹp, một số kinh doanh dựa trên thứ chính là nhà cửa, rất nhiều việc liên quan tới nhà cửa.



Monday, July 10, 2017

Tai nạn giao thông với Tử vi

Tai nạn giao thông với Tử Vi


Việc tai nạn giao thông xảy ra ở Việt Nam thường xuyên và thỉnh thoảng có một lần tai nạn chung ở xe khách hay các xe nhiều chỗ khiến nhiều người thương vong. Trong tử vi cũng có các cách cục ám chỉ việc bản thân có nguy cơ bị tai nạn liên quan tới đi đường. Tuy nhiên cũng có thể gặp cảnh bị tai hoạ liên luỵ nhiều người trong khi bản thân họ không phải có cách cục tử nạn. Thời chiến cách cục theo binh nghiệp đi liền giữa chữ sống và chết thì ở thời bình cách cục binh nghiệp lại có lợi vì được một phần an nhàn hơn. Một tai nạn xe khách khiến 30 người chết có người xem tử vi đang ở hạn tốt của cuộc đời, có người đang ở hạn xấu nhưng thực chất tử vi không sai mà do chính vận số cao hơn quyết định. Ta sống trong xã hội trong khi xem tử vi nhấn mạnh ở bản thân ta. Khi mệnh có cách cục xấu, tai hoạ cũng lắm kẻ tạo nên đại nghiệp từ khó khăn. Khi mệnh tốt vô hoạ lại lắm kẻ phải chết nơi xa quê bản xứ. Quan trọng ở lối đi bản thân đã chọn và mượn thêm cái từ của đạo hay nói là chữ Nghiệp đến với cả nhóm người cũng khó thoát. Khi đó ý nghĩa của Thiên Lương may mắn khi đang vận tốt cũng phải chết nhưng thường được gắn thêm một chữ may hơn như việc khi chết cũng được an ủi một phần vì một lý do, như việc sau khi mất mà còn linh thiêng, một dấu hiệu cho người ở lại yên lòng. Trong một vụ tai nạn ở nước ta thì có thể bản thân ta gây ra hay người khác gây ra tai hoạ cho ta. Việc tai nạn giao thông liên quan mật thiết tới sao Thiên Mã. Như một sao Thiên Mã gặp Không Kiếp Hình Kỵ thủ mệnh thì nguy cơ ra đường bản thân gặp tai nạn đặc biệt khi đáo hạn xấu là chuyện có thể kiểm chứng. Nhìn chung trên lá số nếu đáo hạn chết thì không chết theo cách này thì cách khác, vì khí tuyệt thì mệnh khó sống. Mệnh Thân Hạn đều báo hiệu tuyệt mạng thì khó sống sót nổi qua hạn. Đây là trường hợp riêng lá số báo hiệu trước. Có thể trường hợp mệnh đang tốt nhưng gặp hoàn cảnh vận nước xấu ta phải vong mạng, tuy nhiên với Mệnh Thân Hạn đang rất tốt lại gặp các sao may mắn thì hiếm có cơ hội ta phải chết, tất nhiên vẫn có trường hợp ngoại lệ người viết hay đề cập là vận ta phải thua vận nhà, vận nhà phải thua vận làng, vận làng thua vận nước, vận nước thua vận thiên hạ. Sống thì khó mà trường hợp chết thì dễ xảy ra, đặc biệt là khi chỉ cần nhìn khí tuyệt xảy ra trên lá số. Tai nạn giao thông khi chỉ xét trên lá số tử vi mà không để tâm tới vận làng, vận nước hay vận thiên hạ thì khi nhìn một hạn xấu đi liền với Mệnh Thân xấu thì ta rất dễ gặp trường hợp tai nạn xảy ra. Nếu bản thân tại đại hạn và tiểu hạn có các sao chủ chuyển động như Thiên Mã, các sao bất ngờ như Thất Sát, Không Kiếp, Cự Môn, hay các sao chủ vong như Tuần Trung, Triệt Lộ, Thiên Không đi với các Sát Tinh và Kỵ Hình đều mang ý nghĩa xấu có thể liên quan tới tai nạn về giao thông. Đặc biệt là sao Thiên Mã, Cự Môn, Sát Phá và bộ Không Kiếp dễ gặp việc tai hoạ trên đường. Cung Thiên Di là cung tiếp xúc với bên ngoài. Khi ra ngoài xã hội rời xa phụ mẫu, đến nơi khác sinh sống học tập hay gần nhất là ra đường thì cung này phát huy tác dụng lớn tới bản mệnh. Vì vậy với 6 cường cung Mệnh Tài Quan Phúc Phối Di có ảnh hưởng quan trọng tới cuộc đời mỗi người. Cung Thiên Di tụ tập các sao xấu là nguyên nhân dẫn tới các tai hoạ khi ra bên ngoài, phổ biến là tai nạn giao thông, ngoài ra còn có các trường hợp khác như cây đè, lũ cuốn, ra đường tự đột quỵ mà chết. Thường thì tử mệnh bởi tai nạn giao thông là chuyện luôn có, nếu không các cách cục chết khi ra ngoài của lá số lại chuyển ý nghĩa thành tự ngã do nhồi máu não, bệnh lý mà chết. Như thời xưa cũng có các cách chết đường như đạo tặc cướp của, qua sông hồ rồi chết khi chưa có tai nạn giao thông.



Thực chất người viết muốn đề cập đến là việc nếu Mệnh Thân Hạn đi liền với Di xấu hoặc có các sao mang tính chuyển động thì sớm muộn bằng cách này hay cách khác phải cẩn thận khi đi ra ngoài đường, ý nghĩa của các sao thời phong kiến và ngày nay phần cơ bản không khác nhưng xã hội khác thay đổi tiến bộ khiến ý nghĩa trở nên rộng lớn hơn. " Thiên Di tối kỵ Kiếp Không lâm vào". Tai hoạ bất ngờ nếu gặp Không Kiếp ở Thiên Di, có thể cả bộ toạ thủ khi ở cung Tị Hợi, có thể xung chiếu khi ở Dần Thân hay một tam hợp chiếu một xung chiếu nhưng cần thiết tránh bộ sao này tại cung Thiên Di. Cũng yên tâm rằng nếu bạn có bộ Không Kiếp tại đây cũng không có nghĩa là sẽ chết mà đơn giản là dễ được bất ngờ khi ra ngoài, được chữ Vong khi ra ngoài nhưng muốn tai hoạ thì nên thêm các sao Sát Kỵ vào thì đây mới đúng là hoạ. Nhiều khi xem tử vi người ta cắt phân chia các cung ra xem là không cần thiết và việc như vậy càng khiến việc xem tử vi trở nên khó khăn phức tạp hơn do không thể cân đo đong đếm được tổ hợp quan trọng và không quan trọng của các cách cục khi xét, chỉ cần bản chất từng cung lấy chính tinh kết nối lại tạo ra một tổ hợp ý nghĩa. Tổ hợp này cho ra tính cách của bản thân gồm cả tính cách ngầm ẩn mà chỉ phát sinh khi bị tác động dẫn đến việc nhiều khi chính bản thân ta cũng không hiểu ta bằng người khác. Trường hợp này luôn có ở mỗi người và tuỳ hướng đi của chính bản thân chọn lựa mà dẫn tới công việc hay thành công hoặc thất bại trong sự nghiệp. Kế đến là tính cách hiện ra thì ngay bản thân của ta cũng có thể nhận ra. Như vậy vạn pháp do tâm tức do đa phần tính cách ẩn hiện của ta mà chiêu cảm nghiệp tới, một phần là do sự tác động nhân duyên được gắn trong quan hệ ngũ hành và vòng trường sinh từ Thai khởi đến Tuyệt lại Thai khởi tiếp diễn khiến mọi vật luôn tác động lẫn nhau gây ra hoạ. Việc tai nạn giao thông cần thiết một phần nếu Mệnh Thân Hạn có cách cục này phải tránh, thứ tới phải tránh việc tự tạo ra tai hoạ bằng việc hay tạo nhân xấu như việc quen vượt các phương tiện khác, sự nóng vội hay ưa thích đi nhanh cũng là nguyên nhân gây ra tai nạn giao thông. Việc phòng tránh cần tránh cả hai trường hợp trên là hoàn toàn không lo việc tai hoạ ập tới. Người viết cũng từng nghiệm lí một số trường hợp gặp tai nạn giao thông phải tuyệt mạng hay trường hợp tai nạn bị thương tích nặng đa phần đều có cách cục gặp phải bất ngờ. Sống chết có số là câu nói hay được dùng trong việc tai nạn tuy nhiên nếu bản thân nhìn ra được tiểu hạn năm thêm đại hạn là xấu, đặc biệt hơn có thể xem tới nguyệt hạn thì có hy vọng phòng tránh việc gặp tai hoạ bằng cách dứt đi nhân thì không phải gặp quả. Người xem tử vi mà không biết tới luật của nhân quả hiển hiện mọi nơi trên lá số thì xem khó mà đúng được. Hạn quan trọng hơn Thân, Thân quan trọng hơn Mệnh khi xét về việc sống chết. Cái Hạn là cái đang xảy ra, chứa cả Thân ở hiện tại và Mệnh ở hiện tại tức ở hành vi và suy nghĩ gặp ở hiện tại là Hạn. Kế tới cung an Thân cũng là quan trọng vì là hành vi, là thân thể cần thiết phải sống, hoạt động, còn nguyên vẹn thì tư tưởng có chết cũng chưa phải là xấu. Thỉnh thoảng ta vẫn gặp một thời điểm như người đó đã chết, tức chết cái tư tưởng, còn tính mạng được xác định bởi hơi thở vào ra thì còn thở là còn sống. Xem tai nạn giao thông càng lưu ý cung an Thân lưu động tức là Hạn và cung an Thân cố định bị các sao lưu xâm nhập nếu cả hai đều xấu tới rất xấu thì khả năng tai nạn mức độ nặng càng lớn, nếu Hạn tốt và Thân xấu cũng không luận xấu, ngược lại thì xấu hơn nhưng cũng không gặp tai nạn nặng nề. Tai nạn khi lưu chuyển có thể xảy ra trên cả đường không bằng chứng là các vụ rơi máy bay. Tuy nhiên với hàng không khó xảy ra hơn vì ở trên cao và do chữ Nhân không được phát triển khi máy bay có việc kỹ thuật rất chi tiết, tỉ mỉ. Qua đó gắn liền với nhiều tiền thì đi máy bay, các mối nhân duyên gắn liền với nhau khiến xã hội trở nên thiên biến vạn hoá và mệnh của mỗi lá số thay đổi theo, vì vậy cũng không lạ mệnh tốt mà chết yểu, mệnh xấu mà thành công.